Chiều tối

ngan trang

New member
Chiều tối

ba_giang_lai_tan_1__9835.jpg


Trích Nhật kí trong tù - Hồ Chí Minh

A. Mục tiêu bài học
Hướng dẫn học sinh hiểu và nắm được những nét chính về nội dung và nghệ thuật của bài thơ; Từ đó hiểu thêm phong cách nghệ thuật của tập Nhật kí trong tù


B. Phương tiện thực hiện
+Sách GK, sách GV
+Tập thơ Nhật kí trong tù.
+Giáo án lên lớp cá nhân


C.Cách thức tiến hành
Giáo viên tổ chức giờ dạy theo cách kết hợp các phương pháp: hướng dẫn học sinh đọc, trao đổi thảo luận, trả lời các câu hỏi.


D.Tiến trình lên lớp
1.Kiểm tra bài cũ:
Cảnh thiên nhiên xứ Huế trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ?

2. giới thỉệu bài mới:

Hoạt động của GV và HS
Yêu cầu cần đạt
I. Tìm hiểu chung
1. tiểu dẫn


Hs đọc Sgk, nêu hoàn cảnh ra đời bài thơ?
-Bài số 31 của tập thơ (một trong số những bài được sáng tác trong giai đoạn bốn tháng đầu- bốn tháng Người bị hành hạ, đày ải dã man nhất)
-Bài thơ ra đời khi Bác bị chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo, tháng 9 /1942.


Theo em, bài thơ có chỗ nào dịch chưa sát với nguyên tác?
2.Bản dịch thơ
+Câu 2:
Bản dịch bỏ mất nghĩa “Cô vân” (cô lẻ)
Dịch chưa sát: mạn mạn là chầm chậm chứ không phải là trôi nhẹ
+Câu 3:
Nguyên tác không có chữ tối, bản dịch lại thêm vào chữ tối


làm mất đi vẻ tự nhiên và sáng tạo của thơ Bác.


II. Đọc-hiểu văn bản
a. Hai câu đầu

Hai câu đầu có thể đặt tiêu đề như thế nào?
Cảnh chiều muộn được miêu tả như thế nào?
-Cảnh chiều muộn
-Điểm nhìn miêu tả: Đỉnh trời, xung quanh là rừng núi âm u, nhà thơ chỉ có thể ngước mắt nhìn để quan sát.


+Bức tranh thiên nhiên đâỳ tính ước lệ của thi ca cổ điển: miêu tả thiên nhiên thường chú ý tới bầu trời, chòm mây (chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, thu hứng của Đỗ Phủ, Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu)
+Miêu tả cảnh chiều muộn thường có hình ảnh của cánh chim về rừng:
Chim hôm thoi thót về rừng
(Truyện Kiều-Nguyễn Du)
Chim kêu về núi tối rồi (Ca dao)
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
(Chiều hôm nhớ nhà-Bà Huyện Thanh Quan)
Tâm trạng của Bác được thể hiện như thế nào?
-Bưc tranh của tâm trang, ngoại cảnh cũng là tâm cảnh. Tâm trạng của người tù bị lưu đày, cánh chim mệt mỏi, chòm mây cô đơn...Bút pháp ước lệ và sự chân thật, tự nhiên thống nhất làm một. Sự tương đồng giữa nhân vật trữ tình và ngoại cảnh, nét tinh tế: cảm nhận thiên nhiên trong hoàn cảnh khắc nghiệt, của một tâm hồn lớn...


Nội dung miêu tả của hai câu thơ cuối?
b. Hai câu cuối
-Cuộc sống thường nhật: hình ảnh cô gái xay ngô tối và lò than rực hồng. Gợi cuộc sống gia đình, khát vọng thầm kín của người tùbị lưu đày trên đất khách về cuộc sống tự do.
Nhận xét về cách miêu tả của hai câu thơ cuối?
-Thơ xưa con người cũng thường xuất hiện trước cảnh thiên nhiên (Lom khom dưới núi tiều vài chú/
Gác mái ngư ông về viễn phố) nhưng chỉ làm tăng thêm cái vẻ hoang sơ của cảnh vật.
Con người trong thơ Bác xuất hiện một cách khoẻ khoắn, làm dịu đi nỗi cô đơn của người tù.


Củng cố:
Bài thơ có sự vận động của thời gian, không gian (từ không gian hiu quạnh của rừng núi đến không khí đầm ấm của gia đình). Có sự vận động của tư tưởng (chữ hồng-nhãn tự như ánh lên niềm vui)
Sự vận động của cảnh (thơ xưa cảnh thường tĩnh). Sự vận động ấy hướng về sự sống, nhân vật trữ tình


Là chủ thể của bức tranh phong cảnh (thơ xưa, nhân vật trữ tình thường ẩn vào cảnh vật)
Bài sau: Từ ấy.


 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Chiều tối là bài thơ được viết trong thời điểm gần kết thúc của một chuyến chuyển lao. Bài thơ là một bức tranh vẽ cảnh chiều tối nơi núi rừng- cảnh đẹp bởi nó ánh lên sự sống ấm áp của con người.


Qua đó, bộc lộ một tâm hồn thi nhân nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, một tấm lòng nhân hậu đối với con người, một phong thái ung dung luôn hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai. Hay nói đúng hơn đây là một thực thể của sự kết hợp hài hoà giữa màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại


Cảnh chiều tối là một đề tài quen thuộc của văn chương. Khung cảnh buổi chiều về tối thường dễ sinh tình vì thế, buổi chiều đã đi vào bao áng thơ kim cổ, làm nên những vần thơ tuyệt tác. Thơ chiều cổ điển thường man mác một nỗi buồn đìu hiu, hoang vắng trong sự tàn tạ của thời gian, hoặc trĩu nặng nỗi buồn tha hương lữ thứ. Ơ đây bằng vài nét chấm phá của bút pháp ước lệ tượng trưng tác giả đã dựng nên bức phông lớn làm nền cho cảnh chiều.

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không;
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)

“Cánh chim” và “chòm mây” là hai hình ảnh quen thuộc thường xuất hiện trong thơ chiều xưa và nay. Cho nên, đó chỉ là hai hình ảnh của không gian mà đã mang theo ý nghĩa của thời gian. Cánh chim ở đây được lấy từ thế giới nghệ thuật cổ phương Đông. Trong thế giới thẩm mỹ ấy, hình ảnh cánh chim bay về rừng đã ít nhiều có ý nghĩa biểu tượng ước lệ diễn tả cảnh chiều: “Phi yến thu lâm”; “Quyện điểu quy lâm” là những nhóm từ thường thấy trong thơ chữ Hán. Trong “Truyện Kiều”, khi miêu tả cảnh chiều, Nguyễn Du đã điểm vào bức tranh hình ảnh cánh chim bay về rừng: “Chim hôm thoi thót về rừng”. Trong thơ Bà Huyện Thanh Quan cũng thế: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” và Huy Cận lại cảm thấy bóng chiều như đang sà xuống từ cánh chim đang nghiêng dần về cuối chân trời: “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Hình như trong cảm nhận của các thi nhân xưa thì khi miêu tả cảnh chiều mà không có hình ảnh cánh chim thì bóng chiều chưa rõ.

Cánh chim trong thơ xưa thường chỉ là một chi tiết nghệ thuật thuần tuý để gợi tả cảnh chiều thế thôi và thường gợi nên cảm giác về sự xa xăm, phiêu bạt, chia lìa:

“Chúng điểu cao phi tận” – Lí Bạch
“Thiên sơn điểu phi tuyệt” – Liễu Tông Nguyên

chúng ta đều nhận thấy cánh chim trong thơ của Lí Bạch và Liễu Tông Nguyên đều “Phi tuyệt”, “Phi tận”. Tất cả đều không có điểm dừng mà ở vào trạng thái bay vào chốn xa xăm, vô tận, gợi lên một ý niệm siêu hình nào đó. Còn cánh chim trong bài thơ “Chiều tối” của Bác lại có phương hướng, điểm dừng, mục đích bay rõ ràng:

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ)

Như vậy, Bác đã đưa cánh chim từ thế giới siêu hình trở về với thế giới hiện thực. Ta nhận thấy trong cách nhìn của Bác là một cách nhìn đầy yêu thương, trìu mến trước biểu hiện nhỏ nhoi của sự sống. Nhìn cánh chim đang bay, Bác cảm nhận được sự mệt mỏi của đôi cánh sau một ngày đường hoạt động. Trong chiều sâu tâm hồn của Bác chính là lòng yêu thương sự sống, cảm quan của Bác chính là cảm quan nhân đạo.

Câu thơ thứ hai cũng mang đậm nét Đường thi. Nó rất gần với câu thơ: “Cô vân độc khứ nhàn” của Lí Bạch. Hình ảnh chòm mây cô độc trôi giữa bầu trời đã trở thành một mô tuýp quen thuộc trong thơ xưa, nó thường gợi lên cái cô độc thanh cao, sự phiêu diêu, thoát tục và nỗi khắc khoải của con người trước cõi hư không. Còn trong bài “Chiều tối” của Bác, hình ảnh chòm mây cô độc trôi nhè nhẹ qua bầu trời chỉ là một nét vẽ tạo nên cái không gian cao rộng của cảnh trời chiều nơi miền rừng núi. Bầu trời hôm ấy phải thật cao, thật trong xanh ta mới thấy được hình ảnh chòm mây cô độc ấy gợi nên hình ảnh cô độc nơi đất khách, quê người của Bác. Mỗi một chi tiết của cảnh chiều đều nhuốm màu tâm trạng. Cánh chim mỏi tìm về tổ ấm, còn người tù thì mệt mỏi sau một ngày đường mà vẫn chưa có được chỗ dừng chân. Chòm mây lẻ loi trôi lững lờ trên tầng không, còn người tù thì cô đơn giữa một buổi chiều nơi đất khách. Hai câu thơ đạt đến mức vi diệu của lối tả cảnh ngụ tình. Ơ đó ta bắt gặp một tâm hồn giàu cảm xúc trước thiên nhiên và sự sống. Từ đó ta thấy được một nghị lực phi thường và đó cũng chính là chất thép trong thơ của Bác.

Nếu như ở hai câu thơ đầu bằng bút pháp cổ điển Bác đã dựng nên bức phông lớn làm nền cho bức tranh, thì trong hai câu thơ sau, Bác tập trung làm nổi bật hình tượng trung tâm của bức tranh. Từ bút pháp cổ điển Bác chuyển hẳn sang bút pháp hiện đại.

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng
(Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết lò than đã rực hồng)

“xóm núi” là hình ảnh giản dị biểu tượng cho sự sống bình yên của con người. Xóm núi như đẹp hơn, ấm áp hơn với hình ảnh người thiếu nữ. Vẻ đẹp trẻ trung đầy sức sống của người thiếu nữ với tư thế lao động (xay ngô) trở thành tâm điểm của bức tranh thiên nhiên buổi chiều. Điều đáng lưu ý ở đây là hình tượng người thiếu nữ trong thơ Bác hoàn toàn khác với hình tượng người thiếu nữ trong thơ xưa. Người phụ nữ trong thơ xưa thì thường được ví như “Liễu yếu đào tơ” và sống trong cảnh “Phòng khuê khép kín”, chỉ biết “cầm, kì, thi, hoạ” là đủ. Còn người thiếu nữ trong thơ Bác thì gắn liền với công việc lao động bình dị, đời thường, khỏe khoắn đầy sức sống. Phải chăng chính cái sức sống ấy của người thiếụ nữ đã làm nên vẻ đẹp lung linh cho bức tranh.

Trong thơ xưa, những bức tranh vẻ cảnh chiều đều có bóng dáng con người nhưng sao lẻ loi, cô độc và hiu hắt quá. Con người ở đây mang nặng một nỗi niềm hoài cổ, một nỗi sầu muộn:

“Lom khom dưới núi tều vài chú,

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
(Qua Đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan)

hay:
“Gác mái ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng mục tử lại cô thôn”
(Chiều Hôm Nhớ Nhà – Bà Huyện Thanh Quan)

Còn con người trong thơ Bác, lại là con người lao động đầy sức sống. Chính hai từ “thiếu nữ” đã làm bừng lên sức sống của bức tranh. Cô gái miệt mài xay ngô và hình như cô không chú ý đến những gì xung quanh mình. Cối xay vẫn cứ quay và quay tít “ma bao túc” rồi “bao túc ma” và khi ngô đã xay xong “bao túc ma hoàn” thì cô mới nhìn thấy “lò than đã rực hồng”. Hình ảnh “lò than đã rực hồng” hiện lên trong đêm tối càng làm nổi bật hình ảnh người thiếu nữ. Toàn bộ cảnh thiên nhiên đang chìm trong màu xám nhạt chuyển sang màu tối. Cũng vì thế hình ảnh lò than rực hồng có sức lôi cuốn đặc biệt. Bài thơ kết thúc bằng chữ “hồng”, có thể nói đó chính là chỗ đẹp nhất của bài thơ. Đó chính là ánh lửa hồng của cuộc sống đầm ấm, hạnh phúc gia đình, ánh lửa hồng của sự sống, của niềm lạc quan. Chữ “hồng” đặt ở cuối bài thơ soi rõ vẻ đẹp của người thiếu nữ, toả ánh sáng và hơi ấm xua đi cái buồn vắng của bức tranh chiều tối nơi rừng núi.

Hai câu thơ đã cho ta thấy được cái nhìn ấm áp đầy yêu thương, trân trọng của Bác đối với con người lao động. Buổi “Chiều tối” nơi miền rừng núi quạnh hiu, hoang vắng, lẽ ra rất đỗi buồn bã, thê lương trước mắt người tù bị xiềng xích, bị giải đi với biết bao nỗi gian lao vất vả, nhưng trái lại đó là tiếng reo vui. Chữ “hồng” ở cuối bài đã làm nên tiếng reo vui ấy, tạo cho bài thơ âm hưởng nồng ấm, dạt dào.

“Chiều tối” là một tác phẩm đậm đà màu sắc cổ điển mà cũng rất hiện đại, thể hiện một cách tự nhiên và phong phú vẻ đẹp của hình ảnh người tù – thi sĩ, người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh. Bài thơ đã thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết của Bác. Điều đặc biệt ở đây là cảm quan thiên nhiên của Bác gắn liền với cảm quan nhân đạo, cảm quan về sự sống.
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top