1. Nguyên nhân dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ hai
Nguyên nhân sâu xa:
+ Do quy luật phát triển không đồng đều giữa các nước tư bản chủ nghĩa trong thời đại đế quốc chủ nghĩa: Anh, Pháp, Mĩ phát triển tư bản chủ nghĩa sớm nên chiếm được nhiều thị trường và thuộc địa. Còn Đức, I-ta-li-a và Nhật Bản phát triển muộn nhưng lại có tốc độ nhanh lại có ít hoặc không có thị trường ở các nước thuộc địa, do các nước phát triển sớm chiếm hầu hết.
+ Chính sự phát triển không đồng đều đó làm cho so sánh lực lượng trong thế giới tư bản chủ nghĩa thay đổi về căn bản. Việc phân chia thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ nha’t thông qua hòa ước Véc-xai – Oa-sinh-tơn không còn phù hợp. Từ đó dẫn đến hình thành hai khôi đếquổc đôi địch nhau.
Nguyên nhân trực tiếp:
+ Do cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933, các nước Đức, I-ta-li-a và Nhật Bản giải quyết khủng hoảng bằng cách phát xít hóa bộ máy nhà nước, đi đến gây chiến tranh thế giới.
+ Thủ phạm gây chiến chính là phát xít Đức, I-ta-li-a và Nhật Bản. Song chính sách hai mặt của các cường quốc Tây Âu đã tạo điều kiện cho phát xít gây Chiến tranh thế giới thứ hai.
2. Nhìn nhận và đánh giá sự kiện Muy-ních
– Ngày 29 tháng 9 năm 1938, tại Muy-ních (Đức), hội nghị những người đứng đầu bốn nước Anh, Pháp, Đức và I-ta-li-a được triệu tập để giải quyết vấn đề Xuy-đét. Tại hội nghị này Tiệp Khắc không được tham gia hội nghị mà chỉ được mời đến để nghe kết quả hội nghị. Hội nghị quyết định cắt Xuy-đét cho Đức, trên cơ sở đó Hít-le cam kết chấm dứt mọi thôn tính ở châu Âu.
– Qua sự kiện Muy-ních đã thể hiện chính sách dung túng, nhượng bộ, lôi kéo phát xít mà các nước Anh, Pháp từ lâu đã thi hành nhằm chống lại Liên Xô.
– Sự kiện Muy-ních thực chất là sự thỏa hiệp của Anh, Pháp, I-ta-li-a với Đức nhằm thực hiện âm mưu chống Liên Xô. Nó thể hiện sự yếu kém của Anh, Pháp, I-ta-li-a trong quan hệ quốc tế và bộc lộ những bản chất hèn yêu của các nước tư bản ở Tây Âu trước họa chiến tranh phát xít.
– Sự kiện Muy-ních đã giúp Đức củng cố được địa vị của mình ở Trung Đông, Đông Nam Á trên cơ sở làm suy yêu Anh, Pháp. Đây là bước chuẩn bị cơ bản để Đức thực hiện âm mưu phát động cuộc chiến tranh thế giới thứ hai.
3. Những hoạt động chuẩn bị tiến tới gây chiến tranh của phát xít Đức, I-ta-li-a và Nhật Bản – Từ cuộc khủng hoảng kinh tế (1929 – 1933), các nước phát xít Đức, I-ta-li-a và Nhật Bản đã liên kết với nhau thành Liên minh phát xít, còn được gọi là trục Bec-lin – Rô-ma – Tô-ki-ô. Khối này vừa chống lại Quốc tế Cộng sản, vừa gây chiến tranh chia lại thế giới.
– Trong bối cảnh đó, các cường quốc tư bản và Liên Xô lại không có đường lối hành động chung. Các nước phát xít đã lợi dụng tình hình đó để thực hiện mục tiêu gây chiến tranh xâm lược của mình.
– Trước hết, Hít-le quyết định sáp nhập Áo vào nước Đức, rồi tiến hành xâm lược các nước khác. Tiếp đó, Hít-le yêu cầu Chính phủ Tiệp Khắc chuyển giao xứ Xuy-đét cho người Đức.
– Ngày 29 – 9 – 1938, Hội nghị Muy-ních được triệu tập với sự tham gia của người đứng đầu các chính phủ Anh, Pháp, Đức và I-ta-li-a. Một hiệp định đã được kí kết theo đó Anh, Pháp trao vùng Xuy-đét của Tiệp Khắc cho Đức để đổi lấy sự cam kết của Hít-le về việc chấm dứt mọi cuộc thôn tính ở châu Âu. Đại biểu Tiệp Khắc được mời đêh Muy-ních chỉ để tiếp nhận và thi hành hiệp định.
– Sau khi chiếm Xuy-đét, Hít-le thôn tính toàn bộ Tiệp Khắc (tháng 3-1939). Không dừng lại ở đó, Hít-le bắt đầu gây hại và chuẩn bị tiến hành chiến tranh với Ba Lan.
4. Quá trình tấn công và thất bại của phát xít Đức ở mặt trận Liên Xô và mặt trận châu Âu * Mặt trận Liên Xô:
– Ngày 22 – 6 -1941, phát xít Đức tấn công Liên Xô bất chấp Hiệp định Xô – Đức. Đức sử dụng chiến thuật “chiến tranh chớp nhoáng” đánh vào Liên Xô theo ba hướng:
+ Đạo quân phía Bắc đánh vào Lê-nin-grát.
+ Đạo quân trung tâm tiến, vào ngoại vi Thủ đô Mát-xcơ-va.
+ Đạo quân phía nam chiếm Ki-ép và phần lớn U-crai-na.
– Quân đội và nhân dân Liên Xô kiên quyết chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Tháng 12 – 1941, Hồng quân Liên Xô do tướng Giu-cốp chi huy đã phản công quyết liệt, đẩy lùi quân Đức ra khỏi cửa ngõ thủ đô. Chiến thắng Mát-xcơ-va đã làm phá sản chiến lược “chiến tranh chớp nhoáng” của Hít-le.
– Sau thất bại ở Mát-xcơ-va, quân Đức chuyển mũi nhọn tấn công xuống phía nam nhằm đánh chiếm Xta-lin-grát. Cuộc chiến đấu kéo dài hơn hai tháng nhưng quân Đức không thể chiếm được thành phố này.
– Từ tháng 11 -1942 đến tháng 2 -1943, diễn ra trận phản công tại Xta-lin-grát của quân đội Liên Xô đã tạo nên bước ngoặt của cuộc chiến tranh thế giới. Trong trận đánh vĩ đại này, Hồng quân Liên Xô đã tấn công, bao vây, chia cắt để tiêu diệt và bắt sống toàn bộ đội quân tinh nhuệ của Đức gồm 33 vạn người do Thông chế Pao-lút chỉ huy.
Bắt đầu từ đây, Liên Xô và phe Đồng minh chuyển sang tấn công đồng loạt trên các mặt trận.
* Mặt trận châu Âu:
– Từ ngày 6 – 6 – 1944, cuộc đổ bộ vào Noóc-măng-đi (Bắc Pháp) của liên quân Mĩ – Anh và Đồng minh mở “Mặt trận thứ hai” ở Tây Âu.
– Quân đổ bộ tiến vào giải phóng các nước Pháp, Bỉ, Hà Lan và chuẩn bị tấn công nước Đức.
– Sau khi đẩy lùi quân đội Đức ra khỏi lãnh thổ, từ tháng 7 -1944 đến tháng 10 -1944, Hồng quân Liên Xô tiến quân vào Đông Âu, giúp nhân dân Đông Âu tiêu diệt phát xít Đức, giải phóng hàng loạt các nước Đông Âu.
– Từ tháng 1 – 1945, Hồng quân Liên Xô cũng bắt đầu cuộc tấn công nước Đức ở mặt trận phía Đông.
– Tháng 2 – 1945, ở mặt trận phía Tây, Mĩ – Anh và các nước Đồng minh khác vượt sông Ranh tràn vào nước Đức.
Từ 16 – 4 đến 2-5 – 1945, Hồng quân Liên Xô đã đập tan sự kháng cự của quân phát xít Đức. Ngày 9 – 5 – 1945, Đức kí hiệp định đầu hàng không điều kiện. Chiến tranh chấm dứt ở châu Âu.
5. Trận phản công tại xta-lin-grát: diễn biến và ý nghĩa – Diễn biến:
+ Trận phản công tại Xta-lin-grát (từ tháng 11-1942 đến tháng 2-1943) của quân đội Liên Xô đã tạo nên bước ngoặt của cuộc chiến tranh thế giới.
+ Trong trận đánh vĩ đại này, Hồng quân Liên Xô đã tấn công, bao vây, chia cắt để tiêu diệt và bắt sống toàn bộ đội quân tinh nhuệ của Đức gồm 33 vạn người do Thốhg chếPao-lút chỉ huy.
+ Từ đây, Liên Xô và phe Đồng minh chuyển sang tấn công đồng loạt trên các mặt trận.
– Ý nghĩa:
+ Trận Xta-lin-grát là một trong những trận đánh lớn, tiêu biểu nhất về nghệ thuật quân sự, có ý nghĩa xoay chuyển toàn cuộc chiến, giáng một đòn quyết liệt vào tinh thần chiến đấu của quân Đức.
+ Thắng lợi trong trận Xta-lin-grát đã chứng tỏ sức mạnh vật chất và tinh thần của Hồng quân Liên Xô trong sự nghiệp chiến đấu chống chiến tranh phát xít, bảo vệ Tổ quốc.
+ Thắng lợi này đã đánh dấu bước ngoặt của Chiến tranh thế giới thứ hai: quân Đức từ chỗ tấn công chuyển sang thế phòng ngự, Liên Xô và các nước Đồng minh từ chỗ phòng ngự chuyển sang thế phản công và tiến công trên khắp các mặt trận.
Sự sụp đổ của hệ thống Véc xai-Oasinhtơn và con đường dẫn đến chiến tranh thế giới thứ hai (1929-1939)
Trước hết, chúng ta cần nắm được những nét khái quát về tình hình quốc tế những năm cuối thập niên 20, đầu thập niên 30. Cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 - 1933) bùng nổ đã chấm dứt thời kì ổn định của chủ nghĩa tư bản cùng với ảo tưởng về một kỷ nguyên hoà bình của thế giới. Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ nước Mĩ ngày 24 - 10 - 1929, đã nhanh chóng tràn sang châu Âu, bao trùm toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa, để lại những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, xã h ội. Hàng trăm triệu người (công nhân, nông dân và gia đình của họ) bị rơi vào vũng lầy đói khổ. Hàng ngàn cuộc biểu tình lôi cuốn trên 17 triệu công nhân ở các nước tư bản tham gia trong những năm 1929 - 1933, ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng bùng lên mạnh mẽ.
Những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản trở nên cực kì gay gắt. Trong bối cảnh đó đã hình thành những xu hướng khác biệt nhau trong việc tìm kiếm con đường phát triển giữa các nước tư bản chủ nghĩa. Các nước không có hoặc có ít thuộc địa gặp nhiều khó khăn về vốn, nguyên liệu và thị trường đã đi theo con đường phát xít hoá chế độ chính trị, thiết lập nền chuyên chính khủng bố công khai nhằm cứu vãn tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng của mình. Các nước Italia, Đức, Nhật Bản là điển hình cho xu hướng này. Trong những năm 1929 - 1936, giới cầm quyền các nước nói trên đã từng bước phá vỡ những điều khoản chính yếu của hệ thống Vécxai - Oasinhtơn và tích cực chuẩn bị cuộc chiến tranh để phân chia lại thế giới. Trong khi đó các nước Mỹ, Anh, Pháp... đã tìm cách thoát ra khỏi khủng hoảng bằng những cải cách kinh tế - xã hội , duy trì nền dân chủ tư sản đại nghị, đồng thời chủ trương duy trì nguyên trạng hệ thống Vécxai - Oasinhtơn.
Quan hệ giữa các cường quốc tư bản trong thập niên 30 chuyển biến ngày càng phức tạp. Sự hình thành hai khối đối lập - một bên là Đức, Italia, Nhật Bản với một bên là Mĩ, Anh, Pháp và cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khối đã phá vỡ hệ thống thoả hiệp tạm thời Vecxai - Oasinhtơn dẫn tới sự hình thành các lò lửa chiến tranh, báo hiệu một cuộc chiến tranh thế giới mới.
1. Sự hình thành ba lò lửa chiến tranh thế giới .
a) Lò lửa chiến tranh ở Viễn Đông
Nhật Bản là nước đầu tiên có tham vọng phá vỡ hệ thống Vecxai - Oasinhtơn bằng sức mạnh quân sự.
Từ năm 1927 Thủ tướng Nhật Tanaca đã vạch một kế hoạch chiến tranh toàn cầu đệ trình lên Thiên hoàng dưới hình thức bản “tấu thỉnh”', trong đó khẳng định phải dùng chiến tranh để xoá bỏ những “bất công mà Nhật phải chấp nhận” trong các Hiệp ước Oasinhtơn (1921 - 1922) và đề ra kế hoạch cụ thể xâm lược Trung Quốc, từ đó mở rộng xâm lược toàn thế giới. Sau hai lần thất bại trong việc xâm lược vùng Sơn Đông (Trung Quốc), ngày 18 - 9 - 1931 Nhật Bản tạo ra “Sự kiện đường sắt Nam Mãn Châu” để lấy cớ đánh chiếm vùng Đông Bắc Trung Quốc, nơi tập trung 77% tổng số vốn của Nhật ở Trung Quốc. Đây là bước đầu tiên trong kế hoạch xâm lược đại qui mô của Nhật. Sau khi chiếm vùng này, quân Nhật dựng lên cái gọi là “Nhà nước Mãn Châu độc lập” với chính phủ bù nhìn do Phổ Nghi đứng đầu, biến vùng Đông Bắc Trung Quốc thành thuộc địa và bàn đạp cho những cuộc phiêu lưu quân sự mới.
Việc Nhật Bản xâm lược Đông Bắc Trung Quốc đã động chạm đến quyền lợi của các nước tư bản phương Tây, nhất là Mĩ. Tuy nhiên Mĩ cũng như Anh, Pháp đã nhân nhượng, dung túng cho hành động xâm lược của Nhật với tính toán rằng Nhật sẽ tiêu diệt phong trào cách mạng ở Trung Quốc và tiến hành chiến tranh xâm lược Liên Xô. Điều đó đã làm cho Nhật bỏ qua mọi phản đối của phái đoàn điều tra Líttơn (Lytton) do Hội Quốc liên cử đến Trung Quốc. Ngày 24 - 2 - 1933 Hội Quốc liên đã thông qua Báo cáo công nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Mãn Châu, không công nhận “nước Mãn Châu” do Bộ tham mưu Nhật dựng lên nhưng mặt khác lại đề nghị duy trì “những quyền lợi đặc biệt của Nhật” ở Trung Quốc. Như vậy, Hội Quốc liên đã không công khai tuyên bố “hành động của Nhật là xâm lược và không quyết định một hình phạt nào đối với Nhật. Trước sức mạnh quân sự, Hội Quốc liên đã sử dụng sức mạnh tinh thần. Phương pháp đó không đem lại kết quả nào”. Nhật Bản tiếp tục mở rộng xâm lược Trung Quốc, chiếm đóng hai tỉnh Nhiệt Hà và Hà Bắc. Để có thể tự do hành động, ngày 24 - 3 - 1933 Nhật Bản tuyên bố rút khỏi Hội Quốc liên. Hành động của Nhật đã phá tan nguyên trạng ở Đông Á do Hiệp ước Oasinhtơn năm 1922 qui định, đánh dấu sự tan vỡ bước đầu của Hệ thống Vecxai - Oasinhtơn. Không dừng lại ở đó, năm 1937 Nhật bắt đầu mở rộng chiến tranh trên toàn lãnh thổ Trung Quốc.
b) Sự hình thành lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất ở châu Âu
Trong lúc đó, lò lửa chiến tranh thế giới nguy hiểm nhất đã xuất hiện ở châu Âu với việc Hitle lên cầm quyền ở Đức tháng 1 - 1933. Có thể nói, lực lượng quân phiệt Đức đã nuôi chí phục thù ngay từ sau khi nước Đức bại trận và phải chấp nhận hoà ước Vécxai. Bước vào thập niên 30, sự sụp đổ của chính phủ Muylơ (Muler) - chính phủ cuối cùng của nền Cộng hoà Vaima (Weimar) - và việc Bơruyninh (Bruning) lên nắm chính quyền đầu năm 1930 đánh dấu một thời kì chuyển biến mới trong chính sách đối nội cũng như đối ngoại của Đức. Xu hướng thành lập một chính quyền ''mạnh'', một nền chuyên chính dân tộc chủ nghĩa cực đoan đã trở thành nhu cầu cấp thiết của giới quân phiệt ở Đức. Đảng Quốc xã được coi là lực lượng thực tế có thể đáp ứng được nhu cầu đó và Hítle được coi là “người hùng” có thể ngăn chặn được “tình trạng hỗn loạn và chủ nghĩa bônsêvích”. Ngày 30-1-1933 Tổng thống Hinđenbua (Hindenburg) đã cử Hitle, lãnh tụ của Đảng Quốc xã làm Thủ tướng, mở đầu một thời kỳ đen tối trong lịch sử nước Đức.
Ngày 30-1-1933 Tổng thống Hinđenbua (Hindenburg) đã cử Hitle, lãnh tụ của Đảng Quốc xã làm Thủ tướng
Việc Hitle lên cầm quyền không chỉ là một sự kiện thuần tuý của nước Đức, mà còn “đánh dấu một bước ngoặt quyết định trong lịch sử quan hệ quốc tế”. Bởi lẽ, “đối mặt với Hítle, chủ nghĩa “xoa dịu” của Anh, sự trì trệ của Pháp và chủ nghĩa trung lập của Mỹ là những hiện tượng tiêu biểu nhất của thời kỳ tiếp theo”. Từ đây Hítle thực hiện dần từng bước việc thanh toán hệ thống Véc-xai và chuẩn bị chiến tranh thế giới mới nhằm thiết lập quyền thống trị thế giới.
Bước đầu tiên trong kế hoạch của Hítle là chinh phục châu Âu, trong đó chủ yếu là chiếm đoạt các vùng lãnh thổ ở phía đông châu Âu, trước hết là Nga và các vùng phụ cận Nga. Tuy nhiên, Hítle cũng không loại trừ một cuộc chiến tranh với phương Tây để xâm chiếm lãnh thổ phía tây mà trong đó nước Pháp được coi là “kẻ thù truyền thống”. Hítle còn đề ra kế hoạch Âu - Á(Eurasia) và Âu - Phi (Eurafrica) nhằm xâm chiếm lãnh thổ của các nước châu Phi, châu Á và châu Mĩ. Việc làm đầu tiên của Hítle sau khi lên nắm quyền là tái vũ trang nước Đức và thoát khỏi những ràng buộc quốc tế để chuẩn bị cho những hành động xâm lược.
Tháng 10 - 1933 Chính phủ Đức quốc xã đã rời bỏ Hội nghị giải trừ quân bị ở Giơnevơ và sau đó tuyên bố rút khỏi Hội Quốc liên. Ngày 16 - 3 - 1935, Hítle công khai vi phạm Hoà ước Véc-xai, công bố đạo luật cưỡng bức tòng quân, thành lập 36 sư đoàn (trong lúc đó Pháp chỉ có 30 sư đoàn). Ba tháng sau, ngày 18 - 6 - 1935 Đức kí với Anh Hiệp định về hải qu ân, theo đó Đức được phép xây dựng hạm đội tàu nổi bằng 35% và Hạm đội tàu ngầm bằng 45% sức mạnh hải quân của Anh. Hiệp định này trực tiếp vi phạm Hiệp ước Vec-xai và tăng cường sức mạnh quân sự của nước Đức. Đồng thời, Hitle tìm cách bí mật thủ tiêu các chính khách phương Tây cản trở kế hoạch xâm lược của mình, như Thủ tướng Rumani Đuca, Ngoại trưởng Pháp Bác tu, nhà vua Nam Tư Alếchxanđrơ và thủ tướng Áo Đônphút. Không dừng lại ở đó, ngày 7 - 3 - 1936 Hitle ra lệnh tái chiếm vùng Rênani, công khai xé bỏ Hoà ước Vecxai, Hiệp ước Lôcácnô và tiến sát biên giới nước Pháp. Lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất đã xuất hiện ở châu Âu.
c) Lò lửa chiến tranh thứ hai ở châu Âu
Mặc dù là nước thắng trận nhưng Italia không thoả mãn với việc phân chia thế giới theo Hoà ước Vecxai. Tham vọng của nước này là muốn mở rộng ảnh hưởng ở vùng Ban căng, chiếm đoạt các thuộc địa ở châu Phi, làm chủ vùng biển Địa Trung Hải... Để thoát ra khỏi cuộc đại khủng hoảng kinh tế 1929-1933 và xem xét lại Hệ thống Vecxai - Oasinhtơn có lợi cho mình, giới cầm quyền phát xít ở Italia chủ trương quân sự hoá nền kinh tế, tăng cường chạy đua vũ trang và thực hiện chính sách bành trướng xâm lược ra bên n goài. Thất bại trong việc ký kết Hiệp ước tay tư (Italia - Anh - Đức - Pháp) nhằm xem xét lại đường biên giới đã qui định ở châu Âu trong khuôn khổ Hệ thống hoà ước Vecxai tháng 6 - 1933, từ năm 1934 Mutxôlini ráo riết chuẩn bị kế hoạch xâm lược, thi hành đạo luật quân sự hoá đất nước. Lúc này quan hệ giữa Italia với Đức còn căng thẳng do mâu thuẫn về quyền lợi ở vùng Ban căng. Khi Đức đưa ra đạo luật cưỡng bách tòng quân (3 - 1935), Italia đã kí kết với Anh, Pháp Hiệp ước Xtrêxa (Stresa) tháng 4 - 1935 nhằm thiết lập liên minh chống Đức. Nhưng liên minh này đã nhanh chóng tan vỡ bằng việc Anh kí với Đức một hiệp ước riêng rẽ về hạn chế lực lượng hải quân (6 - 1935) và sự kiện Italia chính thức xâm lược Êtiôpia ngày 3 - 10 - 1935. Bốn ngày sau sự kiện này, ngày 7 - 10 - 1935 Hội Quốc Liên ra tuyên bố lên án Italia và thông qua nghị quyết trừng phạt bằng những biện pháp kinh tế - tài chính. Tuy nhiên, “lệnh trừng phạt chỉ làm Italia bực mình chứ không thực sự ngăn cản họ tiếp tục các chiến dịch”. Những sự kiện trên đây đã khiến Mútxôlini rời bỏ liên minh Anh, Pháp, xích lại gần hơn với nước Đức phát xít. Trong khi đó, sự bất lực của Hội Quốc liên cùng với thái độ và hành động thoả hiệp của các nước Anh, Pháp, Mỹ đã khuyến khích hành động xâm lược của phát xít Italia. Sau khi chiếm được Êtiôpia, Italia đã ký với Đức Nghị định thư tháng 10 - 1936, đánh dấu sự hình thành trục Beclin - Rôma. Bắt đầu từ đây, Đức và Italia tìm cách phối hợp và củng cố liên minh trong cuộc đối đầu với Liên Xô cũng như các đối thủ khác ở châu Âu. Cả hai nước đều đưa quân đội can thiệp trực tiếp và công nhận chính quyền phát xít Phrancô trong cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha (1936 - 1939).
Hai lò lửa chiến tranh hình thành ở châu Âu bắt đầu có mối liên hệ với lò lửa chiến tranh ở Viễn Đông. Ngày 25 - 11 - 1936, Đức và Nhật đã kí kết Hiệp ước chống Quốc tế cộng sản với những cam kết phối hợp các hoạt động chính trị đối ngoại và các biện pháp cần thiết để chống Liên Xô và Quốc tế cộng sản, đồng thời còn nhằm chống cả Anh, Pháp và Mĩ. Italia tham gia Hiệp ước này ngày 6 - 11 - 1937. Sự kiện đó đánh dấu Trục phát xít Béclin - Rôma - Tôkiô chính thức hình thành. Việc Italia rút ra khỏi Hội Quố c Liên ngày 3 - 12 - 1937 đã hoàn tất quá trình chuẩn bị để các nước khối Trục được tự do hành động, thực hiện kế hoạch gây chiến tranh bành trướng lãnh thổ của mình.
Lễ ký kết hiệp ước chống Quốc tế cộng sản giữa Đức, Ý và Nhật Bản (hiệp ước phe Trục)Saburo Kurusu (đại sứ Nhật tại Đức), Galeazzo Ciano (Ngoại trưởng Ý) và Adolf Hitler (Quốc trưởng Đức)
2. Con đường dẫn đến chiến tranh thế giới thứ hai .
Vào cuối những năm 30 quan hệ quốc tế trở nên vô cùng phức tạp và căng thẳng. Sự chuyển hoá mâu thuẫn giữa các cường quốc tư bản chủ nghĩa đã dẫn tới sự hình thành hai khối đế quốc đối địch nhau: một là, khối Trục phát xít do Đức, Italia, Nhật Bản cầm đầu ; hai là, khối đế quốc do Anh, Pháp, Mĩ cầm đầu.
Trong khi khối Trục phát xít đã ráo riết chuẩn bị cho kế hoạch chiến tranh từ đầu những năm 30 thì khối đế quốc Anh, Pháp, Mĩ bắt đầu quá trình này vào những năm cuối của thập ni ên 30. Hai khối đế quốc mâu thuẫn gay gắt với nhau về vấn đề thị trường và quyền lợi nhưng đều thống nhất với nhau trong mục đích chống Liên Xô, tiêu diệt Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Điều đó được thể hiện trong chính sách thoả hiệp, dung túng của các cường quốc tư bản với chủ nghĩa phát xít nhằm chống Liên Xô và đè bẹp phong trào cách mạng thế giới.
Như vậy trong quan hệ quốc tế đã diễn ra cuộc đấu tranh ngày càng căng thẳng và chằng chéo giữa ba lực lượng: Liên Xô, Khối Trục phát xít và Khối đế quốc Anh, Pháp, Mĩ. Các cuộc chiến tranh cục bộ đã lan tràn khắp từ Âu sang Á, từ Thượng Hải đến Gibranta. Chiến tranh thế giới ngày càng trở nên khó tránh khỏi.
a) Cuộc chiến tranh Tây Ban Nha
Cuộc chiến tranh Tây Ban Nha, bùng nổ ngày 17 - 7 - 1936, về hình thức là cuộc nội chiến giữa Chính phủ cộng hoà Tây Ban Nha với lực lượng phát xít Phrancô, nhưng về thực chất là một cuộc khủng hoảng mang tính quốc tế. Vấn đề không chỉ giới hạn trong nội bộ nền chính trị Tây Ban Nha. Đức và Italia đã trực tiếp can thiệp, đứng về phía phát xít Phrancô chống lại Chính phủ Cộng hoà với mưu đồ biến Tây Ban Nha thành một bàn đạp chiến lược cho kế hoạch bành trướng của mình ở châu Âu, châu Phi, châu Á và Đại Tây Dương. Trong bối cảnh đó, các chính phủ Anh, Pháp đã thi hành chính sách “không can thiệp” tuyên bố cấm xuất khẩu vũ khí và vật liệu chiến tranh sang Tây Ban Nha. Ngày 9 - 9 - 1936, “Uỷ ban về vấn đề không can thiệp” được thành lập. Mĩ không chính thức tham gia vào Uỷ ban này nhưng trên thực tế cũng duy trì lệnh cấm vận vũ khí đối với Tây Ban Nha. Trong khi không áp dụng một biện pháp cần thiết nào để ngăn chặn sự can thiệp trực tiếp của Đức và Italia ở Tây Ban Nha, chính sách “không can thiệp” của Anh, Pháp, Mĩ về thực chất là hành động thoả hiệp với các lực lượng phát xít chống nước Cộng hoà Tây Ban Nha. Hơn nữa, các công ti độc quyền của Anh, Pháp, Mĩ vẫn tiếp tục có quan hệ thương mại và tài chính với lực lượng phát xít Phrancô. Cuối cùng, các chính phủ Anh, Pháp đã công khai ủng hộ quân phiến loạn Phrancô, lực lượng đã chiếm ưu thế rõ rệt ở Tây Ban Nha vào năm 1939.
Ngày 10 - 2 - 1939, hải quân Anh đã hỗ trợ cho lực lượng phiến loạn chiếm đảo Minôca (Minorca) nằm trong quần đảo Balêric (Balearic). Ngay sau đó, chính phủ Pháp đã gửi tối hậu thư cho Chính phủ Cộng hoà Tây Ban Nha với yêu cầu giao nộp Mađrít và các vùng lãnh thổ khác cho lực lượng Phrancô. Ngày 27 - 2 - 1939, Anh và Pháp đồng thời cắt đứt quan hệ ngoại giao với Chính phủ cộng hoà Tây Ban Nha và tuyên bố công nhận chính quyền Phrancô. Liên Xô là nước đứng về phía nước Cộng hoà Tây Ban Nha trong cuộc đấu tranh chống phát xít. Mặc dù lúc đầu Liên Xô đã tham gia Uỷ ban về các vấn đề không can thiệp, nhưng sự can thiệp quân sự của Đức và Italia đã khiến Liên Xô phải hành động. Cả đất nước Xô viết tham gia phong trào ủng hộ nước Cộng hoà Tây Ban Nha: số tiền quyên góp đã lên tới 47 triệu rúp. Đồng thời, Liên Xô còn tham gia trong lực lượng tình nguyện quốc tế chiến đấu bảo vệ nước Cộng hoà đến từ 53 nước trên thế giới. Tuy vậy, do so s ánh lực lượng quá chênh lệch, cuộc chiến tranh Tây Ban Nha kết thúc với thất bại của Chính phủ Cộng hoà. Ngày 28 - 3 - 1939, lực lượng Phrancô với sự hỗ trợ của quân đội Italia đã chiếm thủ đô Mađrít. Sự sụp đổ của nền Cộng hoà Tây Ban Nha cho thấy mối đe doạ đối với nền hoà bình ở châu Âu ngày càng trở nên trầm trọng hơn.
b) Hội nghị Muyních (9 - 1938)
Hội nghị Munich
Đến năm 1938 nước Đức phát xít về căn bản đã hoàn tất việc chuẩn bị chiến tranh. Lúc này nước Đức không chỉ phục hồi mà đã trở thành một cường quốc công nghiệp đứng đầu châu Âu, đồng thời còn là một cường quốc quân sự. Tháng 3-1938, Đức tiến hành thôn tính Áo và thông qua đạo luật sáp nhập Áo vào Đức, vi phạm trắng trợn Hệ thống Hoà ước Vecxai. Hành động ngang ngược của Hitle đã không gặp phải trở ngại nào đáng kể từ phía các cường quốc tư bản phương Tây. Chính phủ Anh chỉ thị kh ông được khuyến khích Áo kháng cự, trong khi Pháp chỉ có những phản ứng yếu ớt. Sau khi chiếm Áo, Đức chuẩn bị thôn tính Tiệp Khắc, một vị trí đặc biệt quan trọng trong kế hoạch giành quyền thống trị lục địa châu Âu. Để thôn tính Tiệp Khắc, Hitle đưa ra “vấn đề người Đức ở vùng Xuyđét” (Sudete) - vùng đất ở Tây Bắc Tiệp Khắc, có khoảng 3,2 triệu người Đức cư trú. Sau những diễn biến phức tạp và căng thẳng, Hitle đưa ra yêu sách về việc cắt vùng Xuyđét ra khỏi Tiệp Khắc và khẳng định đây là yêu sách cuối cùng về lãnh thổ của y ở châu Âu. Tiếp tục chính sách thoả hiệp, các cường quốc tư bản phương Tây đã gây áp lực thúc ép Tiệp Khắc chấp nhận những yêu sách của Hítle. Điều này đã gây nên một làn sóng phản đối trong dư luận quốc tế, kể cả ở Anh, Pháp, Tiệp Khắc và Liên Xô. Liên Xô đã nhiều lần khẳng định sẵn sàng giúp đỡ Tiệp Khắc và đưa ra những biện pháp cụ thể trong Hội nghị liên tịch giữa Bộ tổng tham mưu Liên Xô, Pháp và Tiệp Khắc. Đồng thời, Liên Xô đã tập trung quân ở biên giới phía Tây và đặt quân đội trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Liên Xô cũng đề nghị Hội Quốc Liên th ảo luận những biện pháp để bảo vệ Tiệp Khắc, nhưng tất cả những đề nghị đó đều bị các chính phủ Anh, Pháp gạt bỏ.
Ngày 29 - 9 - 1938, những người đứng đầu các chính phủ Anh, Pháp, Đức và Italia đã tham dự Hội nghị Muyních (Đức) để quyết định số phận của Tiệp Khắc. Đại biểu Tiệp Khắc không được mời tham dự, chỉ được triệu tập đến để nghe kết quả. Hiệp ước Muyních qui định Tiệp Khắc phải cắt toàn bộ vùng Xuyđét (trong vòng 10 ngày) cho Đức và phải cắt cho Ba Lan, Hunggari những vùng lãnh thổ đã được xác định trước đó (trong thời hạn 3 tháng). Trước áp lực của Anh và Pháp, chính phủ Tiệp Khắc chấp nhận Hiệp ước Muyních, theo đó, Tiệp Khắc mất đi khoảng 1/4 dân số, 1/5 lãnh thổ với nhiều công trình quân sự quan trọng. Để đổi lại, Hítle đã kí với Anh bản Tuyên bố không xâm lược lẫn nhau giữa Đức và Anh. Sau đó, ngày 6 - 12 - 1938, Hiệp định không xâm lược Pháp - Đức cũng được kí kết tại Pari. Hiệp ước Muyních là đỉnh cao nhất của chính sách thoả hiệp mà các cường quốc tư bản phương Tây thi hành trong nhiều năm nhằm tránh một cuộc chiến tranh với nước Đức phát xít và chĩa mũi nhọn chiến tranh về phía Liên Xô. “Chính sách Muyních” đã dẫn đến những hậu quả rất nặng nề đối với chính bản thân hai nước Anh và Pháp. Sự thoả hiệp đầu hàng của các nước này chỉ càng làm cho nước Đức phát xít đi xa hơn nữa trong chính sách mở rộng chiến tranh. Ngày 15 - 3 - 1939, Hítle công khai xé bỏ Hiệp ước Muyních chiếm đóng toàn bộ lãnh thổ Tiệp Khắc. Sau đó một tuần, ngày 21 - 3 Hítle đưa ra yêu sách đòi Ba Lan phải trao thành phố cảng Đăng dích cho Đức. Một ngày sau quân đội Đức tràn vào chiếm vùng lãnh thổ Mêmen của Litva. Đồng thời, kế hoạch xâm lược Ba Lan cũng được chuẩn bị ráo riết.
Trong lúc này phát xít Italia cũng tăng cường hành động. Tháng 4 - 1939 Mutxôlini cho quân xâm lược Anbani. Liên minh phát xít Đức - Italia được mở rộng tới mức tối đa với việc kí kết hiệp ước mới Đức - Italia (thường được gọi là Hiệp ước Thép) theo đó nếu một bên có chiến tranh với một nước hoặc một nhóm nước khác thì bên kia sẽ tiến hành giúp đỡ ngay lập tức bằng các lực lượng hải, lục và không quân. Nguy cơ bùng nổ chiến tranh thế giới chỉ còn là gang tấc, tuy nhiên các cường quốc phương Tây vẫn tìm mọi cách để hướng cuộc chiến tranh về phía Liên Xô.
3. Quan hệ quốc tế của Liên Xô trong thập niên 30.
Bước vào thập niên 30 Liên Xô tiếp tục cuộc đấu tranh trong quan hệ quốc tế nhằm củng cố vị trí quốc tế của mình, đồng thời kiên trì lập trường thiết lập nền an ninh tập thể ở châu Âu và bảo vệ hoà bình thế giới.
a) Cuộc đấu tranh củng cố vị trí quốc tế và nền an ninh tập thể
Trong những năm 1929-1932, một chiến dịch chống Liên Xô được phát động trong các nước tư bản phương Tây. Âm mưu đánh bom cơ quan Tổng đại diện Liên Xô tại Vácxava (1930), chiến dịch chống Liên Xô ở Phần Lan (1931) kế hoạch mưu sát Đại sứ Nhật Bản tại Mátxcơva (1931), việc tên bạch vệ Goócnulốp mưu sát Tổng thống Pháp Pôn Đume (1932)...
Tất cả những vụ khiêu khích đó nhằm tạo ra quan hệ quốc tế căng thẳng dẫn tới việc các nước cắt đứt quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Tháng 2 - 1930 , Giáo hoàng Pie XI đã kêu gọi tổ chức một cuộc “thập tự chinh” chống chủ nghĩa cộng sản, tập hợp các tín đồ trên thế giới “hành động tập thể” chống Liên Xô. Đồng thời các nước tư bản phương Tây khởi xướng việc bao vây kinh tế chống Liên Xô. Đặc biệt là dự án thành lập Liên bang châu Âu do ngoại trưởng Pháp Briăng (Briand) đề xướng (5 - 1930) mang tính bài Xô rõ rệt. Dự án đề xuất việc thành lập một Liên minh châu Âu bao gồm đại diện của tất cả các quốc gia châu Âu thành viên của Hội Quốc liên, loại trừ Liên Xô - quốc gia lớn nhất ở châu Âu.
Bằng chính sách ngoại giao kiên quyết và khéo léo, Liên Xô đã kiên trì đấu tranh để vượt qua được tình trạng căng thẳng và phức tạp trong quan hệ quốc tế. Thời gian này, Liên Xô thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1928 - 1933) với những thành tựu quan trọng, tăng cường sức mạnh kinh tế và quốc phòng của đất nước. Đồng thời, các âm mưu thù địch chống Liên Xô đều bị phá vỡ. Liên Xô đã kí kết những hiệp ước không xâm lược với phần đông các nước láng giềng và một số nước tư bản châu Âu: Phần L an, Latvia, Extônia, Ba Lan (1932), Italia (1933) ; đồng thời đạt được thoả thuận gia hạn các Hiệp ước không xâm lược đã kí với Thổ Nhĩ Kì, Đức, Iran, Lítva, Apganixtan. Tham gia vào Hội nghị giải trừ quân bị ở Giênôvơ khai mạc ngày 2 - 2 - 1932 (với sự có mặt của đại diện 63 quốc gia), Liên Xô đã đưa ra một chương trình giải trừ quân bị và nêu rõ quan điểm của mình về định nghĩa khái niệm xâm lược trong quan hệ quốc tế. Hội nghị Giênôvơ không đi đến một kết quả đáng kể nào do mâu thuẫn giữa các cường q uốc tư bản phương Tây, đồng thời những đề nghị của Liên Xô cũng không được thông qua. Tuy vậy, năm 1933, Liên Xô đã tiến hành đàm phán và kí kết ba công ước về xác định khái niệm xâm lược với các nước Extônia, Látvia, Ba Lan, Rumani, Thổ Nhĩ Kì, Iran, Apganixtan, Rumani, Tiệp Khắc, Nam Tư và Lítva.
Tháng 9 - 1934 Liên Xô tham gia Hội Quốc Liên và trở thành Uỷ viên thường trực Hội đồng Hội Quốc Liên. Điều đó cho thấy vị thế ngày càng được khẳng định của Liên Xô trong các vấn đề quốc tế. Tuy nhiên khi gia nhập tổ chức này Liên Xô nêu rõ quan điểm của mình trong việc không đồng ý với những quyết định trước đây cũng như một số điều khoản vi phạm chủ quyền các dân tộc của Hội Quốc Liên. Đồng thời Liên Xô đã tranh thủ điều kiện để đấu tranh cho hoà bình và nền an ninh toàn thể, ngăn ngừa nguy cơ chi ến tranh thế giới.
Tháng 5 - 1935, Hiệp ước tương trợ song phương Xô - Pháp và Xô-Tiệp đã được kí kết, thể hiện những cố gắng quan trọng của Liên Xô trong việc xây nền an ninh toàn thể ở châu Âu. ở khu vực châu Á, Hiệp ước tương trợ lẫn nhau với Mông cổ (1936) và Hiệp ước không xâm lược với Trung Quốc (1937) cũng được Liên Xô kí kết nhằm tạo dựng mối quan hệ cùng tồn tại hoà bình giữa các quốc gia, đảm bảo an ninh cho vùng Viễn Đông.
Khi Nhật mở rộng chiến tranh ra toàn lãnh thổ Trung Quốc (1937), Liên Xô đứng về phía Đảng cộng sản và nhân dân Trung Quốc, giúp đỡ về tinh thần và vật chất cho Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống Nhật (cho Trung Quốc vay 100 triệu USD năm 1938, 150 triệu USD năm 1939, nhiều phi công Liên Xô tình nguyện tham gia chiến đấu chống Nhật ở Trung Quốc). Trong thập niên 30, Liên Xô cũng giành được thắng lợi trong việc bình thường hoá quan hệ Xô - Mĩ. Gần một thập kỉ sau khi bình thường hoá quan hệ với hầu hết các nước tư bản chủ yếu, tháng 11 - 1933 Liên Xô đã đạt được thoả thuận về việc bình thường hoá quan hệ với Mĩ. Mặc dù quan hệ Xô - Mĩ còn gặp nhiều trở ngại, nhưng việc bình thường hoá quan hệ với Mĩ đánh dấu một thắng lợi lớn của nền ngoại giao Xô viết. Từ chỗ là một đế quốc tích cực và ngoan cố trong liên minh chống phá nước Nga Xô viết, cuối cùng Mĩ đã phải thoả thuận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô.
b) Hiệp ước Xô - Đức không xâm lược nhau.
Sau khi Hítle xé bỏ hiệp ước Muyních, thôn tính toàn bộ Tiệp Khắc, Liên Xô đã đề nghị triệu tập một hội nghị để bàn về vấn đề bảo vệ an ninh châu Âu, ngăn chặn chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa phát xít. Trước áp lực mạnh mẽ của dư luận trong và ngoài nước, chính phủ Anh, Pháp đã bắt đầu các cuộc đàm phán với Liên Xô từ giữa tháng 4 -1939 tại Matxcơva. Do thái độ thiếu thiện chí và chủ trương "bắt cá hai tay'' của Anh, Pháp, cuộc đàm phán không đạt được kết quả và hoàn toàn bế tắc. Trong khi đó, từ tháng 6 - 1939, cuộc đàm phán bí mật Anh - Đức đã được tiến hành ở Luân Đôn để thảo luận về việc hợp tác Anh - Đức chống Liên Xô, Trung Quốc và phân chia khu vực ảnh hưởng ở đây.
Lúc này ở Viễn Đông, sau khi gây ra cuộc xung đột quân sự chống Liên Xô ở khu vực hồ Khaxan bị thất bại, ngày 12 - 5 - 1939 phát xít Nhật mở cuộc tấn công vào khu vực sông Khankhin - Gôn (Khalkhin-Gol) thuộc địa phận Mông Cổ, nhằm uy hiếp con đường huyết mạch của Liên Xô ở Viễn Đông và chuẩn bị cho việc mở rộng cuộc chiến chống Liên Xô sau này. Mặc dù kế hoạch của Nhật ở Khankhin - Gôn thất bại nhưng toàn bộ những sự kiện diễn ra ở Viễn Đông làm cho giới cầm quyền Anh và Pháp vẫn hy vọng về một cuộc chiến tranh chống Liên xô từ phía Nhật. Chính trong lúc này Đại sứ Anh ở Tôkiô Craigi (Craigie) đã kí với Ngoại trưởng Nhật Arita một hiệp ước (7 - 1939), theo đó Anh thừa nhận cuộc chiến tranh của Nhật ở Trung Quốc và tuyên bố không can thiệp vào công việc của Nhật ở đây.
Tình hình phức tạp nói trên ở cả phương Tây và phương Đông khiến cho mọi cố gắng kiên trì của Liên Xô nhằm đạt tới một thoả thuận với Anh và Pháp trong cuộc đấu tranh chống sự xâm lược của chủ nghĩa phát xít đều thất bại. Trong bối cảnh đó, Liên Xô buộc phải có những giải pháp kiên quyết để tự bảo vệ nền an ninh quốc gia. Ngay từ tháng 5 - 1939 với ý đồ kéo dài thời gian để xâm lược châu Âu trước, Chính quyền Đức đã thăm dò Liên Xô về khả năng kí kết một hiệp ước không xâm lược nhau Xô - Đức. Lúc đầu Liên Xô đã bác bỏ đề nghị đó, nhưng sự tan vỡ không thể cứu vãn nổi của cuộc đàm phán Xô - Anh - Pháp đã khiến Liên Xô thay đổi ý định và tiếp nhận đề nghị của Đức.
Ngày 23 - 8 - 1939, Hiệp ước không xâm lược nhau Xô - Đức đã được kí kết, theo đó Liên Xô và Đức cam kết không tấn công nhau, không gia nhập một liên minh nào thù địch với một trong hai nước kí hiệp ước, không giúp đỡ một nước thứ ba nào chống lại nước kia... Sau đó một ngày, Liên Xô và Đức còn kí thêm một Nghị định thư bí mật phân chia phạm vi ảnh hưởng ở Đông Âu.
Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô Molotov ký Hiệp ước, với Stalin và Ribbentrop đứng sau lưng.
Việc kí kết Hiệp ước Xô - Đức không xâm lược nhau đã làm thất bại chính sách hai mặt của các nước phương Tây, phá tan âm mưu thành lập mặt trận thống nhất chống Liên Xô do các nước đế quốc dựng lên ở Muyních. Đồng thời sự kiện này cũng phá vỡ âm mưu của Nhật muốn dựa vào sự ủng hộ của Đức để xâm lược Liên Xô.
Một tuần sau đó, đêm 30 rạng ngày 31 - 8 - 1939, Đức gửi tới Ba Lan một bản tối hậu thư về vấn đề Đăng dích và hành lang Ba Lan. Chính phủ Ba Lan bác bỏ những yêu sách của Đức. Rạng sáng ngày 1 - 9 - 1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.
Từ những sự kiện đã nêu ở trên, có thể đi đến những tổng kết sau đây:
- Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ trước hết là do những mâu thuẫn về quyền lợi, về lãnh thổ hết sức gay gắt giữa các nước đế quốc với nhau. Sự phân chia thế giới theo Hệ thống Vécxai - Oasinhtơn chứa đựng những mâu thuẫn không thể dung hoà được giữa các nước đế quốc. Những mâu thuẫn đó đã dẫn tới một cuộc chiến tranh mới giữa các nước đế quốc để phân chia lại thế giới.
- Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 đã làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc, dẫn tới việc lên cầm quyền của các thế lực phát xít ở Đức, Italia và Nhật Bản. Chủ nghĩa phát xít ở ba nước nêu trên là thủ phạm gây ra Chiến tranh thế giới thứ hai.
- Tuy nhiên, chính sách hai mặt của các cường quốc phương Tây đã tạo điều kiện cho phe phát xít gây chiến. Do vậy, khác với Chiến tranh thế giới thứ nhất, Chiến tranh thế giới thứ hai còn gắn liền với mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với chủ nghĩa xã hội và âm mưu tiêu diệt nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Khối các nước đế quốc mặc dù có mâu thuẫn với khối phát xít nhưng đều thống nhất với nhau trong âm mưu chống Liên Xô và phong trào cách mạng thế giới.
Chiến tranh được bắt đầu từ cuộc chiến giữa hai khối đế quốc nhằm tranh giành lãnh thổ và quyền thống trị thế giới. Tuy vậy, từ tháng 6 - 1941, khi phát xít Đức tập trung lực lượng tấn công Liên Xô, nhằm tiêu diệt chế độ xã hội chủ nghĩa, thực hiện tham vọng chinh phục toàn cầu, tính chất của cuộc chiến tranh đã thay đổi căn bản. Đó là cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của Liên Xô và các dân tộc yêu chuộng hoà bình trên thế giới nhằm tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, giải phóng nhân loại khỏi những thảm hoạ của chế độ phát xít man rợ.