Chiến dịch Hồ Chí Minh

Thandieu2

Thần Điêu
Chiến dịch Hồ Chí Minh (Phần 1)
Theo báo Cần Thơ

Trải qua hơn một tháng liên tục tổng tiến công và nổi dậy, với hai chiến dịch lớn, chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế - Đà Nẵng, quân và dân ta đã giành được những thắng lợi cực kỳ to lớn, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng quân sự và hệ thống chính quyền ngụy ở hai quân khu, quân đoàn địch, giải phóng 16 tỉnh, 5 thành phố cùng nhiều quận lỵ, chi khu, yếu khu quân sự. Vùng giải phóng được mở rộng, chiếm 3 phần 4 đất đai và gần một phần hai dân số miền Nam. Một cục diện mới chưa từng có đã mở ra. Thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam đã đến. Trong phiên họp lịch sử ngày 25 tháng 3, Bộ Chính trị chủ trương: “tập trung nhanh nhất lực lượng (từ 12 sư đoàn trở lên), binh khí, kỹ thuật và vật chất giải quyết xong Sài Gòn – Gia Định trước mùa mưa”. Tiếp đó (ngày 30 tháng 3 và ngày 14 tháng 4), Bộ Chính trị đã chính thức hạ quyết tâm mở chiến dịch Hồ Chí Minh - chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn kết thúc chiến tranh, chiến dịch quyết chiến chiến lược lịch sử.

Về địch, bị mất lực lượng và phần đất ở quân khu 1 và 2 và bị thu hẹp dần phạm vi chiếm đóng ở Nam bộ, tổng thống ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu gào thét “tử thủ” phần đất còn lại. Mỹ đã lập khẩn cấp cầu hàng không chở một số lượng lớn vũ khí, khí tài và cử tướng Uây oen, tham mưu trưởng lục quân đến Sài Gòn và cùng với quân ngụy vạch kế hoạch phòng thủ Sài Gòn, ngoan cố chống cự hòng trì hoãn cuộc tiến công của ta cho đến mùa mưa. Với lực lượng của quân đoàn 3 cùng tàn quân của quân đoàn 1 và 2, hệ thống phòng thủ của địch ở Sài Gòn được tổ chức thành nhiều tuyến, trong đó tập trung tăng cường ở hướng bắc và tây bắc.

CIMG1736.jpg
CIMG1736.jpg


Tuyến phòng thủ vòng ngoài gồm sư đoàn 22 đảm nhiệm ở Long An, Bến Lức; sư đoàn 25 đảm nhiệm ở Tây Ninh, Trảng Bàng, Củ Chi, Đồng Dù, Hậu Nghĩa; sư đoàn 5 đảm nhiệm ở Lai Khê, Bến Cát, Bình Dương; sư đoàn 18 đảm nhiệm ở Bầu Cá, Trảng Bom, Suôn Đỉa; sư đoàn thủy quân lục chiến (có 2 lữ) đảm nhiệm ở Long Bình; lữ đoàn dù giữ Bà Rịa, lữ đoàn 3 kỵ binh đảm nhiệm ở Biên Hòa, Long Bình (có một bộ phận ở Gò Vấp - Lái Thiêu) và là lực lượng dự bị của quân đoàn 3.

Tuyến phòng thủ ngoại vi Sài Gòn do sư đoàn biệt động quân (có 3 liên đoàn) mới thành lập đảm nhiệm. Khu Tây gồm Vĩnh Lộc, Châu Hiệp, Bà Hom, Bình Chánh trở vào do hai liên đoàn biệt động (7, 8) và liên đoàn 239 bảo an đảm nhiệm. Khu Nam gồm Nhà Bè, Nhân Trạch do bảo an dân vệ phụ trách.

Tuyến nội đô, địch tổ chức thành 5 liên khu, mỗi liên khu gồm hai quận (1 và 3, 5 và 8, 2 và 4, 6 và 7, 10 và 11) do lực lượng cảnh sát, phòng vệ dân sự phụ trách.

Nhìn chung, tập đoàn phòng ngự lớn của địch ở Sài Gòn - Gia Định tuy số lượng còn đông nhưng đã bị chia cắt cô lập cao độ và sức chiến đấu đã giảm sút hẳn. Lực lượng phòng ngự ở vòng ngoài mạnh, bên trong yếu và sơ hở, không có lực lượng tăng viện. Mỹ khó có khả năng can thiệp trực tiếp trở lại bằng lục quân, khả năng can thiệp bằng không quân và hải quân cũng rất hạn chế.

Để chắc thắng trong trận quyết chiến chiến lược lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã quyết định tập trung lực lượng lớn chủ lực và binh khí kỹ thuật cho chiến dịch, gồm: Quân đoàn 1 (thiếu sư đoàn 308) ở lại bảo vệ miền Bắc, Quân đoàn 2, Quân đoàn 3(1), Quân đoàn 4 và đoàn 232. Tổng số lực lượng là 15 sư đoàn, 1 lữ đoàn và 4 trung đoàn bộ binh; 20 lữ đoàn, trung đoàn và 8 tiểu đoàn pháo binh; 3 lữ đoàn, trung đoàn và 6 tiểu đoàn tăng thiết giáp; 8 lữ, trung đoàn và 2 tiểu đoàn đặc công; 4 trung đoàn và 10 tiểu đoàn thông tin; 1 trung đoàn tên lửa, 2 sư đoàn ô tô vận tải, một bộ phận hải quân và không quân, cùng lực lượng địa phương trong địa bàn chiến dịch (2).

Trong cuộc họp ngày 1 tháng 4, Bộ Chính trị đã chỉ định 3 đồng chí ủy viên Bộ Chính trị có mặt tại chiến trường chịu trách nhiệm trước Bộ Chính trị về chỉ đạo chiến dịch và ra quyết định thành lập Bộ tư lệnh chiến dịch gồm các đồng chí Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh; Phạm Hùng làm Chính ủy; các đồng chí Lê Trọng Tấn, Trần Văn Trà, Lê Đức Anh làm Phó tư lệnh; Lê Quang Hòa làm Phó chính ủy; Lê Ngọc Hiền, Quyền tham mưu trưởng. Các cơ quan của Miền được tăng cường một số đồng chí của Bộ và các tổng cục chuyển thành cơ quan chiến dịch.

Sài Gòn là một thành phố lớn, cấu trúc phức tạp, rộng khoảng 120km2, là trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế, sào huyệt cuối cùng của địch, dân số khoảng hơn 3 triệu. Các khu vực xung quanh Sài Gòn địa hình phức tạp, trống trải, sình lầy, sông rạch và cầu cống nhiều, dân số trên dưới 6 triệu. Muốn tiến vào Sài Gòn, bộ đội phải chiếm được các con đường, cầu đường và các đầu mối giao thông quan trọng. Ở hướng bắc và tây bắc, tuy địa hình tương đối thuận lợi nhưng cũng phải đánh chiếm được các cầu: cầu Bông, cầu Sáng, cầu Bình Triệu, cầu Bình Phước mới vào được Sài Gòn.

Với phương châm và tư tưởng chỉ đạo tác chiến: “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, Bộ tư lệnh chiến dịch xác định phải chuẩn bị chu đáo, đánh chắc thắng, không cho địch co cụm lớn về Sài Gòn; tổ chức các mũi thọc sâu có sức đột kích mạnh đánh nhanh vào các mục tiêu chủ yếu; kết hợp giữa tiến công quân sự với địch vận và nổi dậy của quần chúng, tiến công quân sự phải đi trước một bước và giữ vai trò quyết định; phát huy sức mạnh tổng hợp, đột phá liên tục, dồn dập cho đến toàn thắng. Coi trọng bảo đảm các mặt, giữ bí mật.

Về cách đánh chiến dịch, Bộ tư lệnh nhấn mạnh: Phải thực hiện chia cắt chiến lược, cắt đường bộ, đường không, khống chế sân bay, triệt để bao vây, cô lập Sài Gòn, bao vây, chặn và tiêu diệt chủ lực địch ở vòng ngoài, không cho chúng co cụm về Sài Gòn, đánh thắng những trận then chốt quan trọng. Tổ chức những binh đoàn binh chủng hợp thành (cỡ sư đoàn tăng cường) từ nhiều hướng nhiều mũi tiến công vào nội đô, kết hợp chặt chẽ với đặc công, biệt động, lực lượng địa phương ở bên trong, kết hợp với quần chúng nổi dậy, thực hiện trong ngoài cùng đánh, nhanh chóng táo bạo đánh chiếm các mục tiêu chiến lược, đập tan đầu não chỉ huy quân sự, đầu não ngụy quyền, tiêu diệt và làm tan rã, bắt toàn bộ quân địch đầu hàng; trong đó lấy thọc sâu nhanh chóng đánh ngã quân địch bên trong là chính.

Về chiến thuật, Bộ tư lệnh nhấn mạnh các hình thức chính như tiến công các cụm cứ điểm phòng ngự vững chắc, các căn cứ trung đoàn, sư đoàn, các sở chỉ huy quân đoàn và các trường quân sự của địch. Vận động tiến công đánh quân địch rút chạy, tổ chức các binh đoàn thọc sâu, chiến thuật đánh chiếm thành phố, thị xã và chiến thuật của đặc công đánh chiếm và giữ cầu bảo đảm cho cơ động.
Bộ tư lệnh chiến dịch không tổ chức đội hình thê đội, không chia bước, chia đợt mà giao khu vực và mục tiêu tiến công cho từng quân đoàn trên từng hướng (trên từng hướng có tổ chức đội hình thành bộ phận).

Trên hướng tiến công chủ yếu tây bắc, sử dụng Quân đoàn 3 (do đồng chí Vũ Lăng tư lệnh, đồng chí Đặng Vũ Hiệp chính ủy), gồm các sư đoàn 316. 320A, 10 cùng lực lượng vũ trang của tỉnh Tây Ninh, Củ Chi. 2 trung đoàn Gia Định, Các tiểu đoàn của thành đội Sài Gòn, các đơn vị đặc công, biệt động, có nhiệm vụ: tiến công tiêu diệt căn cứ Đồng Dù, chặn không cho sư đoàn 25 ngụy co cụm về Sài Gòn. Tổ chức một lực lượng mạnh (cỡ sư đoàn tăng cường) thọc sâu vào nội đô, đánh chiếm mục tiêu chủ yếu là sân bay Tân Sơn Nhất và tổ chức một bộ phận hợp điểm ở dinh Độc Lập, chiếm lĩnh các quận Tân Bình, Phú Nhuận. Sư đoàn 316 có binh chủng phối thuộc chặn đánh tiêu diệt sư đoàn 25 địch ở Gò Dầu, Trảng Bàng, sau đó về làm dự bị cho chiến dịch và quân đoàn, chủ yếu là tăng cường cho đơn vị thọc sâu.
 
Chiến dịch Hồ Chí Minh (phần 2)

Chiến dịch Hồ Chí Minh (phần 2)

Trên hướng bắc, sử dụng Quân đoàn 1 (đồng chí Nguyễn Hòa làm tư lệnh, đồng chí Hoàng Minh Thi làm chính ủy) gồm sư đoàn 312 và 320B, được tăng cường trung đoàn bộ binh 95B, 1 tiểu đoàn đặc công, 1 tiểu đoàn xe tăng, 1 trung đoàn phòng không tự hành, phối hợp với lực lượng vũ trang Bình Phước, Bình Dương và một trung đoàn đặc công vùng ven có nhiệm vụ: bao vây tiêu diệt địch ở căn cứ Phú Lợi, Bình Dương, Lai Khê, Bến Cát, Tân Uyên, ngăn chặn và tiêu diệt sư đoàn 5 ngụy không cho chúng co về Sài Gòn. Tổ chức một lực lượng binh chủng hợp thành (cỡ sư đoàn tăng cường) thọc sâu vào nội đô đánh chiếm mục tiêu chủ yếu là bộ tổng tham mưu ngụy, các bộ tư lệnh binh chủng ngụy ở Gò Vấp; tổ chức một bộ phận hợp điểm ở dinh Độc Lập, chiếm lĩnh các quận Gò Vấp, Bình Thạnh.

Trên hướng đông nam, sử dụng Quân đoàn 2 (đồng chí Nguyễn Hữu An là tư lệnh, đồng chí Nguyễn Công Trang là chính ủy) gồm sư đoàn 325 và 304, được phối thuộc sư đoàn 3 Quân khu 5 và trung đoàn đặc công 116 ở vùng ven và Bà Rịa, đánh chiếm căn cứ Nước Trong, chi khu Long Bình, căn cứ Long Bình, chi khu Nhơn Trạch, thành Tuy Hạ - phà Cát Lái, chi khu Đức Thạnh, thị xã Bà Rịa, pháo kích sân bay Tân Sơn Nhất, đánh chiếm Vũng Tàu phát triển sang Cần Giờ, tiêu diệt địch ở hữu ngạn sông Đồng Nai, đánh chiếm các quận 9 và 4; tổ chức một mũi hợp điểm ở dinh Độc Lập.

Trên hướng đông, sử dụng Quân đoàn 4 (đồng chí Hoàng Cầm tư lệnh, đồng chí Hoàng Thế Thiện chính ủy) gồm các sư đoàn 7, 341 và 6, được tăng cường lữ đoàn bộ binh 52, 1 tiểu đoàn pháo 130mm, 1 trung đoàn và 1 tiểu đoàn phòng không hỗn hợp, 1 tiểu đoàn xe tăng, có nhiệm vụ đánh chiếm khu vực Biên Hòa - Hố Nai (gồm sở chỉ huy quân đoàn 3 ngụy và sân bay); sử dụng một lực lượng mạnh binh chủng hợp thành thọc sâu vào nội đô, đánh chiếm dinh Độc Lập, chiếm lĩnh quận 1, 2, 3 và một số mục tiêu quan trọng như căn cứ hải quân; bộ quốc phòng ngụy, đài phát thanh.

Trên hướng tây và tây nam, sử dụng đoàn 232 (đồng chí Lê Đức Anh là tư lệnh, đồng chí Lê Văn Tưởng là chính ủy) gồm các sư đoàn 3, 5 và 9, bốn trung đoàn độc lập, 1 trung đoàn đặc công, được tăng cường 1 tiểu đoàn xe tăng T54, 1 tiểu đoàn PT85, 1 tiểu đoàn pháo 130mm, 1 trung đoàn và 1 tiểu đoàn phòng không, cùng với sư đoàn 8 Quân khu 8 và các lực lượng vũ trang địa phương có nhiệm vụ cắt lộ 4 (đoạn Bến Lức - ngã ba Trung Lương) chiếm Tân An (Quân khu 8 đánh chiếm Mỹ Tho), cắt Sài Gòn và đồng bằng miền Tây, tiêu diệt địch ở Hậu Nghĩa, mở cửa tuyến sông Vàm Cỏ, tổ chức một lực lượng binh chủng hợp thành mạnh (cỡ sư đoàn tăng cường), thọc sâu từ phía tây, đánh chiếm biệt khu thủ đô, tổ chức một bộ phận hợp điểm ở dinh Độc Lập; tổ chức một lực lượng cỡ sư đoàn thọc sâu từ phía nam, đánh chiếm cầu Nhị Thiên Đường, phát triển đánh chiếm mục tiêu chủ yếu là tổng nha cảnh sát, có một bộ phận hợp điểm ở dinh Độc Lập, chiếm các quận 5, 6, 7, 8, 10, 11, Bình Chánh.

Các lực lượng ở vùng ven và nội đô tổ chức đánh phá các sân bay, bến tàu, kho tàng, trận địa pháo dịch, phát động quần chúng nổi dậy, diệt đồn bốt nhỏ, mở rộng địa bàn đứng chân, đánh chiếm, giữ trước các cầu. Trong tổng tiến công, phối hợp chặt chẽ với chủ lực đánh chiếm các mục tiêu quan trọng trong thành phố, làm nòng cốt cho quần chúng nổi dậy.

Các binh chủng bảo đảm chỉ huy, cơ động và chi viện cho bộ binh chiến đấu. Không quân và hải quân còn sẵn sàng làm nhiệm vụ phối hợp cùng bộ binh giải phóng các đảo.

Bộ tư lệnh chiến dịch đã dự kiến ba tình huống cơ bản và một số tình huống khác có thể xảy ra; cử đại diện xuống cánh đông, cánh tây nam và tổ chức sở chỉ huy cơ bản trong giai đoạn chuẩn bị ở tây nam Lộc Ninh, sở chỉ huy trước giờ nổ súng ở đông nam Dầu Tiếng. Mọi công tác chuẩn bị dự kiến xong trước 16 giờ ngày 27 tháng 4, thời gian tiến công của toàn mặt trận dự kiến vào 6 giờ ngày 29 tháng 4 và kéo dài từ 3 đến 5 ngày. Ngày 7 tháng 4, Bộ tư lệnh hoàn chỉnh quyết tâm và ngày 14 tháng 4, Bộ Chính trị nhất trí thông qua quyết tâm của Bộ tư lệnh chiến dịch và đồng ý chiến dịch mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh.

Công tác chuẩn bị cho chiến dịch đã được tiến hành kiên quyết khẩn trương và toàn diện theo tinh thần “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”. Bộ Tổng tham mưu cùng các tổng cục và Đoàn 559 bảo đảm vận chuyển quân và vật chất theo yêu cầu của chiến dịch. Quân đoàn 1 nhận lệnh ngày 25 tháng 3 ở Ninh Bình, hành quân gấp đến Đồng Xoài vào ngày 25 tháng 4. Quân đoàn 3 nhận lệnh 28 tháng 3 ở Tây Nguyên, hành quân gấp đến Dầu Tiếng vào ngày 20 tháng 4. Quân đoàn 2 nhận lệnh ngày 5 tháng 4 ở Đà Nẵng vừa hành quân vừa chiến đấu, đập tan tuyến phòng thủ của địch ở Phan Rang, Phan Thiết, Bình Tuy tiến về Rừng Lá, Xuân Lộc, Bà Rịa.

Để đảm bảo chuyển 20.000 tấn hàng từ miền Bắc, Tây Nguyên và Khu 5 vào cung cấp đủ cho yêu cầu của chiến dịch, hậu cần chiến dịch và chiến lược đã huy động 10.000 xe vận tải, mở thêm 2 tuyến vận tải mới vào Lộc Ninh và Long Khánh, mở 6 tuyến vận tải chiến dịch xuống các cánh do hậu cần B2 phụ trách, kéo dài đường ống dẫn dầu từ Bù Đốp vào Lộc Ninh, tăng cường khai thác lương thực tại chỗ...

Ngoài công tác bổ sung quân số, củng cố các đơn vị, sửa chữa, mở rộng đường cơ động và chuẩn bị các lực lượng quân sự, chính trị, hậu cần cắm ở nhiều nơi trong địa bàn để phát động và lãnh đạo quần chúng, Bộ tư lệnh chiến dịch đã chỉ đạo mở các đợt hoạt động và chiến dịch tạo thế cho chiến dịch Hồ Chí Minh, như: đợt hoạt động ở Dầu Tiếng - Chơn Thành (đường 13), Định Quán - Lâm Đồng (đường 20), chiến dịch giải phóng Xuân Lộc của Quân đoàn 4 và các hoạt động của đoàn 232 ở Tân An - Thủ Thừa, sư đoàn 8 Quân khu 8 ở lộ 4 (đoạn ngã ba Trung Lương đến Bắc Mỹ Thuận), 2 trung đoàn 24 và 88 ở đông nam Long An, sư đoàn 4 Quân khu 9 ở lộ Vòng Cung Cần Thơ... Các đợt hoạt động này cùng các hoạt động của lực lượng vũ trang địa phương, đặc công, biệt động ở vùng ven và nội đô Sài Gòn đã tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng chiến dịch triển khai đúng kế hoạch. Ngày 25 tháng 4, mọi công tác chuẩn bị của ta cơ bản đã hoàn thành, các lực lượng chiến dịch đã vào đến vị trí triển khai và sẵn sàng chờ lệnh nổ súng.

151.jpg


17 giờ ngày 26 tháng 4 năm 1975, chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu nổ súng. Từ ngày 26 đến ngày 28 tháng 4, ta tiến công vào tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch, thực hiện bao vây cô lập triệt để Sài Gòn, tạo thêm thế có lợi để thực hành tổng tiến công trên toàn mặt trận.

Trên hướng đông do Quân đoàn 2 đảm nhiệm. Sư đoàn 304 sử dụng trung đoàn 9 tiến công trường thiết giáp trung đoàn 24 tiến đánh trường bộ binh ở căn cứ Nước Trong. Đến 18 giờ 45 ngày 26, ta chiếm được trường thiết giáp. Địch co lại ở khu vực trường bộ binh và trường biệt kích, đồng thời điều thêm lực lượng từ Biên Hòa lên tổ chức phản kích. Liên tục trong hai ngày 27, 28, sư đoàn 304 đã đánh bại các đợt phản kích của địch và tổ chức nhiều đợt tiến công, nhưng không dứt điểm.

Sư đoàn 325 sử dụng trung đoàn 101 tiến công quận lỵ Long Thành, trung đoàn 46 luồn vào sau lưng địch đánh chiếm ngã ba Phước Thiềng, trung đoàn 18 bao vây địch ở Bỉnh Sơn và làm dự bị cho sư đoàn. Đến 10 giờ, ngày 27, trung đoàn 46 chiếm được Thái Lạc, Phước Thiêng, Phú Lợi và bao vây Long Tân. 16 giờ 30 ngày 27, trung đoàn 101 chiếm xong quận lỵ Long Thành. Sáng ngày 28, trung đoàn 46 dẫn đầu đội hình của sư đoàn tiến quân theo đường 25, liên tiếp tiêu diệt các cụm phòng ngự của địch ở Bến Sáng, Phú Hội, Long Tân, sau đó làm chủ quận lỵ Nhơn Trạch vào chiều ngày 28, sư đoàn 325 đã tổ chức đánh bại tất cả các đợt phản kích của địch ở khu vực Nhơn Thạch, tạo điều kiện cho pháo binh Quân đoàn vào chiếm lĩnh trận địa bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất. Trên hướng sư đoàn 3, lúc 20 giờ ngày 26, trung đoàn 12 đánh chiếm Đức Thạnh, sau đó truy kích địch qua ba huyện Đức Thạnh, Đất Đỏ, Long Điền, cùng lực lượng địa phương xóa bỏ một loạt vị trí ở ven biển. 15 giờ ngày 27, trung đoàn 141 chiếm xong thị xã Bà Rịa và trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp. Các lực lượng sư đoàn 3 phát triển xuống Vũng Tàu, nhưng địch đã phá cầu Cỏ Mây và tổ chức ngăn chặn tại đây. Sư đoàn đã chuyển hướng vu hồi của trung đoàn 12 làm hướng tiến công chính và tăng cường thêm lực lượng của trung đoàn 2 cho hướng này, tiếp tục tổ chức tiến công địch.

Trong ngày 27, địch đã dùng 114 lần chiếc máy bay các loại bắn phá vào đội hình tiến công của Quân đoàn 2, lực lượng phòng không của quân đoàn bắn trả quyết liệt, bắn rơi 7 chiếc.
 
Chiến dịch Hồ Chí Minh – phần 3

Chiến dịch Hồ Chí Minh – phần 3

Hai tiểu đoàn địa phương Bà Rịa và hai đại đội địa phương Long Đất cùng phối hợp chặt chẽ với chủ lực tiến công địch ở Long Điền, Đất Đỏ. Đến 17 giờ ngày 27, ta hoàn toàn làm chủ khu vực từ Long Hải đến Bà Rịa. Trên hướng đông nam do Quân đoàn 4 đảm nhiệm, sư đoàn 341 sử dụng 2 trung đoàn 270 và 273 tiến công đánh chiếm căn cứ Trảng Bom, trung đoàn 266 tiến đánh khu vực phòng thủ của địch từ Hưng Nghĩa – ấp Bầu Cá tiêu diệt lực lượng còn lại của sư đoàn 18 và trung đoàn 5 thiết giáp ngụy.

Đến 10 giờ ngày 27, sư đoàn chiếm Trảng Bom, làm chủ từ Suối Đỉa đến ga Long Lạc. Ngày 28, sư đoàn 341 phát triển vào Hố Nai, bị địch ngăn chặn quyết liệt phải dừng lại tổ chức đột phá. Sư đoàn 6, do không đánh trúng mục tiêu, để địch co cụm về Long Lạc - Hố Nai. Sư đoàn 7 cùng lữ đoàn 52 tiến theo sau đội hình của sư đoàn 6, bố trí ở nam lộ 1 chuẩn bị làm lực lượng thọc sâu của Quân đoàn.

Các lực lượng ở vùng ven trên hai hướng đông và đông nam đồng loạt tổ chức đánh chiếm và giữ các cầu bên trong lòng địch. Ngày 27, đoàn 113 đặc công, đánh chiếm các cầu Ghềnh, Rạch Chiếc, Rạch Cát. Địch phản kích chiếm lại, ta chuẩn bị đánh tiếp. Đoàn đặc công 116 đánh chiếm cầu xa lộ Đồng Nai, đánh bại phản kích của địch, giữ vững cầu. Ngày 28, đại đội 40 (đoàn 116) đánh chiếm cầu Bến Gỗ (Cát Lái). Đoàn 10 đặc công tập kích đồn Phước Khánh, Nhơn Trạch; tổ chức một bộ phận vượt sông đánh vào cảng hải quân nhưng không thành công. Pháo binh chiến dịch ở Hiếu Liêm bắn phá làm tê liệt sân bay Biên Hòa; sở chỉ huy quân đoàn 3 ngụy phải chạy về Gò Vấp vào chiều 28.

Trên hai hướng tây và tây nam, từ ngày 27, sư đoàn 5 đã cắt hoàn toàn lộ 4 từ Bến Lức - Tân An. Sư đoàn 8 đánh cắt lộ 4 đoạn Trung Lương - Tấn Hiệp – Long Định; tiểu đoàn công binh 341 Quân khu 8 cùng bộ đội địa phương cắt đoạn Cai Lậy - An Hữu. Sư đoàn 3 tiến công đánh chiếm khu vực An Ninh - Lộc Giang, sau đó vượt sông Vàm Cỏ áp sát địch, đảm bảo cho sư đoàn 9 cùng binh khí kỹ thuật vượt sông vào tập kết ở Bầu Cong, Mỹ Thạnh, Đức Hòa. Các trung đoàn 24, 88 mở rộng vị trí đứng chân ở bắc Cần Giuộc, chiếm các đường 5 chuẩn bị tiến vào nam Sài Gòn.

Trên hướng tây bắc do Quân đoàn 3 đảm nhiệm, cũng trong hai ngày 27, 28, sư đoàn 316 sử dụng trung đoàn 174 cắt lộ 22 đoạn Bầu Nâu - Trà Võ; trung đoàn 148 và trung đoàn 149 cắt lộ 1 đoạn Phước Mỹ – Trảng Bàng, diệt các chốt địch ở Trung Hưng, Suối Cao, Bố Heo, chặn sư đoàn 25 ngụy, chế áp các trận địa pháo địch, bức hàng tiểu đoàn 1 của trung đoàn 50 ngụy, và cùng lực lượng vũ trang Tây Ninh bao vây thị xã , giải phóng nhiều vùng nông thôn.

200308_4.jpg


Trên hướng bắc do Quân đoàn 1 đảm nhiệm, sư đoàn 312 sử dụng trung đoàn 141 phối hợp với tiểu đoàn 2 địa phương diệt gọn tiểu đoàn 306 bảo an và một số trận địa pháo địch, mở đường 16 đoạn Bình Mỹ - Sình Cơ, đồng thời đưa trung đoàn 165 vào bao vây căn cứ Phú Lợi, đưa trung đoàn 209 luồn xuống chốt đường 13, chặn sư đoàn 5 ngụy. Sư đoàn 320B cơ động đội hình đến bắc Bình Chuẩn. Lực lượng vũ trang Thủ Dầu Một đã phối hợp giải phóng tây nam Bến Cát, tây nam Tân Uyên. Đoàn 115, tiểu đoàn Gia Định đánh chiếm và làm chủ lộ Đại Hàn đoạn cầu Bình Phước - Quán Tre, mở thông cửa phía bắc sân bay Tân Sơn Nhất.

Chiều 28, không quân ta đã dùng 5 máy bay A37 thu được của địch, do đồng chí Nguyễn Văn Lục (chỉ huy, được phi công Nguyễn Thành Trung (người đã ném bom dinh Độc Lập ngày 8 tháng 4) dẫn đường vượt qua mạng lưới cảnh giới của địch ném bom vào sân bay Tân Sơn Nhất, đặc công bắn 400 viên ĐKB vào sân bay làm tê liệt hoạt động của sân bay này.

Như vậy, trong hai ngày tiến công, trên tất cả các hướng ta đã thực hiện tốt việc ngăn chặn chủ lực địch ở vòng ngoài, triệt để bao vây cô lập Sài Gòn. Tuy địch đối phó quyết liệt, nhưng trước sức tiến công của ta, sở chỉ huy quân đoàn 3 ngụy đã phải rút về Gò Vấp, quân địch đã hoang mang cao độ, tướng tá ngụy tranh nhau di tản. Bộ tư lệnh chiến dịch đã kịp thời thông báo tình hình chung và lệnh cho các hướng tiếp tục tiến công để đảm bảo đến sáng ngày 29 tháng 4, toàn mặt trận tổng tiến công vào Sài Gòn theo đúng kế hoạch.

Trong ngày 29 tháng 4, ta thực hành tổng tiến công trên toàn mặt trận, chặn và tiêu diệt các tập đoàn chủ lực chủ yếu của địch ở vòng ngoài, đồng thời thọc sâu cùng lực lượng tại chỗ đánh chiếm các địa bàn quan trọng ở vùng ven, chuẩn bị đồng loạt đánh vào nội đô.

Trên hướng đông nam - hướng Quân đoàn 2, từ 4 giờ 30 phút ngày 29, pháo binh quân đoàn bắt đầu bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất. Sư đoàn 304 tiến công dứt điểm tiêu diệt quân địch ở trường bộ binh, bãi để xe thiết giáp ở căn cứ Nước Trong và ngã ba Long Bình. Đến 10 giờ trung đoàn 9 chiếm ngã ba đường 15, sau đó toàn bộ sư đoàn 304 phát triển theo đường 15 chiếm cầu sông Buông, căn cứ Long Bình. Tận dụng kết quả tiến công của sư đoàn 304, binh đội thọc sâu (gồm lữ đoàn tăng thiết giáp 203, trung đoàn bộ binh 66 và một bộ phận pháo binh, công binh, phòng không) đã nhanh chóng vượt lên trước, bắt liên lạc được với đoàn đặc công 116 giữ cầu Đồng Nai, chuẩn bị cho đột phá vào nội đô.

Cùng thời gian trên, sư đoàn 325 sử dụng trung đoàn 46 giải quyết nốt các mục tiêu còn lại ở Nhơn Trạch, sau đó tiến công vào quân địch ở thành Tuy Hạ. Địch ở Tuy Hạ chống cự quyết liệt, sư đoàn phải sử dụng một bộ phận của trung đoàn 121 cùng xe tăng mở mũi tiến công vào cổng chính để phối hợp với trung đoàn 46, mới giải quyết được. Sau khi diệt địch ở Tuy Hạ, sư đoàn tổ chức truy kích, vượt sông bằng sức mạnh, đánh chiếm căn cứ hải quân Cát Lái và tiếp tục phát triển đánh vào quận 9 và bộ tư lệnh hải quân địch. Sư đoàn 3, tiếp tục tiến ra Vũng Tàu và làm chủ thị xã lúc 16 giờ 15 ngày 29.

Trên hướng đông - hướng Quân đoàn 4, từ sáng 29, sư đoàn 341 có 5 xe tăng dẫn đầu lần lượt đập tan nhiều ổ đề kháng của địch. Tới ngã ba Hố Nai – Biên Hòa, gặp hào sâu, xe tăng không qua được, sư đoàn phải vòng qua phía bắc đánh xuống Biên Hòa. Trung đoàn 273 diệt một tiểu đoàn địch ở ga Long Lạc, tiến vào sân bay Biên Hòa chiếm căn cứ của sư đoàn 3 không quân ngụy. Trung đoàn 270 phối hợp cùng sư đoàn 6 (sau khi đã đánh chiếm căn cứ thiết giáp, sư đoàn 18 ngụy ở Yên Thế), đánh chiếm căn cứ pháo binh Hốc Bà Thức, sau đó cùng trung đoàn 266 vòng qua Hố Nai, đánh vào Long Bình. Đêm 29, sư đoàn 6 đập tan tuyến phòng thủ của địch ở ngã ba Hố Nai, bắn cháy, phá hủy hàng chục xe tăng, xe thiết giáp.

Cùng thời gian trên, sư đoàn 7 (thiếu trung đoàn 209), binh đội thọc sâu của quân đoàn tiến theo trục đường 1, tiêu diệt tiểu đoàn 6 thủy quân lục chiến và một bộ phận trung đoàn 82 sư đoàn 18 cách Hố Nai 1.500 mét, phá hủy 40 xe tăng, xe thiết giáp, sau đó tổ chức đột phá qua Tam Hiệp, mở rộng đường hành quân sang hai cánh, vừa đi vừa đánh địch đẩy nhanh tốc độ tiến công.

Phối hợp với chủ lực, lực lượng vùng ven trên hai hướng hoạt động khá hiệu quả. Đoàn đặc công 116 tập kích vào bộ chỉ huy tiếp vận của địch ở tây nam Long Bình, kho xăng Long Bình và tổ chức chốt giữ cầu xa lộ Đồng Nai. Đoàn đặc công 115 chiếm cầu Ghềnh lần hai, tổ chức một bộ phận tập kích sở chỉ huy trung đoàn 15 thiết giáp và trung tâm tiếp vận Biên Hòa ở Hốc Bà Thức. Đoàn đặc công 10 đánh chiếm Phước Khánh, ngã ba Đồng Tranh, bắn cháy 10 tàu trên sông Sài Gòn.

Trên hướng tây bắc - hướng Quân đoàn 3, ngày 29, trung đoàn đặc công 198 đánh chiếm cầu Bông, cầu Sáng và đánh tan tiểu đoàn 81 biệt kích dù, sau đó bàn giao cho đại đội 10 (trung đoàn 64) chốt giữ bảo vệ cầu Bông. Sư đoàn 320A tiến công quyết liệt căn cứ Đồng Dù, đánh bại phản kích của địch, tiêu diệt sở chỉ huy sư đoàn và trung đoàn 50 của sư đoàn 25 ngụy, bắt sống chuẩn tướng Lý Tòng Bá, sư đoàn trưởng. Sư đoàn 316 tiến công quân địch tại Bến Kéo, Cẩm Giàng, Trà Võ, Đồng Chùa, Suối Sâu, Gò Đầm Hạ, Lào Táo, Phước Hiệp, đến 17 giờ làm chủ Trảng Bàng, tiêu diệt làm tan rã 2 trung đoàn 46, 49, liên đoàn 251 bảo an, 1 chiến đoàn thiết giáp. Sư đoàn 25 ngụy bị xóa sổ.

Sư đoàn 10 (binh đội thọc sâu) xuất phát lúc 5 giờ 25, tiến vào nội đô trên hai cánh. Trung đoàn 24 cùng 1 tiểu đoàn xe tăng theo Quốc lộ 1, đánh tan cụm quân địch ở Hậu Nghĩa, Củ Chi, diệt 28 xe tăng, xe thiết giáp, hàng chục xe GMC, sau đó phát triển đánh chiếm thành Quan Năm và Hóc Môn. Trung đoàn 28 cùng 2 tiểu đoàn tăng thiết giáp và trung đoàn pháo binh tiến theo đường 15, nhanh chóng tiêu diệt các cụm quân địch ở Phú Hòa Đông, Tân Quy, sau đó vì cầu Sáng sập, phải quay lại Ba Ri, Tân Quy, theo tỉnh lộ 8, vượt qua Đồng Dù, tiến sang cầu Bông, đánh chiếm khu huấn luyện Quang Trung. 16 giờ trung đoàn tiến đến xưởng dệt Vi-ne-dex-cô, đánh tan 1 tiểu đoàn địch tại đây. Đến 21 giờ, trung đoàn đến Bà Quẹo, bị địch ngăn chặn quyết liệt, phải dừng lại củng cố.
 
Chiến dịch Hồ Chí Minh – phần 4

Chiến dịch Hồ Chí Minh – phần 4

Trên hướng bắc - hướng Quân đoàn 1. Sư đoàn 312 đã đưa trung đoàn 165 áp sát căn cứ Phú Lợi, trung đoàn 209 triển khai trận địa chốt chặn trên đường 13. Sở chỉ huy nhẹ của sư đoàn 5 ngụy hoảng sợ tháo chạy, bị lực lượng chốt chặn của ta ở Phú Cường bắt làm tù binh. Sư đoàn 320B làm nhiệm vụ thọc sâu, bị địch ngăn chặn ở gần Tân Uyên, toàn bộ đội hình hành quân của sư đoàn gồm 287 xe các loại bị ùn tắc ở tây bắc Tân Uyên. Sư đoàn phải sử dụng tiểu đoàn 1 của trung đoàn 48 và tiểu đoàn 4 của trung đoàn 27, được đồng chí chỉ huy phó tỉnh đội dẫn đường, luồn về phía sau, đánh tan tiểu đoàn 316 bảo an chốt giữ tại Tân Uyên, mở đường cho hai cánh của sư đoàn tiến về Lái Thiêu.

Lực lượng vùng ven trên hai hướng bắc và tây bắc trong ngày 29 cũng đánh địch rất hiệu quả. Trung đoàn 1 Gia Định đánh địch ở Tân Thới Nhật, Xuân Thới Thương (quận Tân Bình), diệt chốt ngã ba Như Dòng trên lộ 9, hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ, truy quét tàn binh địch. Trung đoàn đặc công 115 giải phóng xã Tân Thới Hiệp, đánh bại phản kích của quân dù. Tiểu đoàn 10 Gia Định chiếm cầu Chợ Mới. Biệt động đánh cầu Bình Phước, đài phát thanh Quán Tre, đại đội địa phương Củ Chi đánh chiếm chi khu. Tiểu đoàn 80 biệt động tiến công trận địa pháo và trại thiết giáp Phù Đổng, Gò Vấp. Trung đoàn Gia Định chặn đánh trung đoàn 50 sư đoàn 25 ngụy tháo chạy từ Đồng Dù...

Trên hướng tây và tây nam - hướng đoàn 232, sư đoàn 3, lúc 10 giờ 10 ngày 29 đã làm chủ thị xã Hậu Nghĩa, sau đó tổ chức đánh chiếm chi khu Đức Hòa, chi khu Đức Huệ (lúc 14 giờ 30), căn cứ Trà Cú (lúc 18 giờ 20) và tổ chức vượt sông Vàm Cỏ Đông. Tàn quân địch ở Hậu Nghĩa chạy về Củ Chi bị trung đoàn 1 Gia Định từ Xuân Thới Thượng vận động ra diệt và bắt hàng trên 1.000 tên. Sư đoàn 9 đưa toàn bộ lực lượng vào Mỹ Hạnh, sau đó thọc sâu về hướng Bà Quẹo. Đêm 29, trung đoàn 3, bộ phận đi đầu của sư đoàn đã triển khai ở khu vực Bà Lác - tuyến đê Đại Hàn, bắc Bà Hom 2km. Sư đoàn 5 và sư đoàn 8 tiếp tục cắt lộ 4, đánh lui nhiều đợt phản kích của địch. Trung đoàn 24 và 88 đã phát triển đến bắc Cần Giuộc, Hưng Long. Phía bên trong, lực lượng vùng ven cũng tăng cường hoạt động: trung đoàn đặc công 429 tiến đánh tiểu đoàn 8 biệt động ngụy tại Tân Tạo, Bà Hom, khu ra đa Phú Lâm; đánh chiếm ấp 2 (Bình Trị Đông), ấp Bình Hưng, Ký Thúc On và cầu Nhị Thiên Đường; trung đoàn đặc công 117 bắn 200 viên ĐKB vào sân bay Tân Sơn Nhất; bộ đội địa phương Bình Chánh đánh chiếm các phân chi khu Tân Túc, Tân Hào (Tân Bình).

Như vậy trong ngày 29, các hướng các mũi đã tích cực đánh chiếm các mục tiêu quy định, chặn được chủ lực địch ở vòng ngoài, tiêu diệt và làm tan rã phần lớn lực lượng chủ yếu của địch, mở thông cửa cho các binh đoàn thọc sâu (lực lượng thọc sâu ở hai hướng tây bắc và tây nam đã vào tới nơi quy định). Địch đối phó quyết liệt trên hướng đông và hướng đông nam, nhất là ở khu vực Hố Nai, Biên Hòa, căn cứ Nước Trong – Sông Buông. Song trước sức tiến công mạnh mẽ của ta, địch rất hoang mang, có hiện tượng tan rã, rút chạy, đầu hàng từng bộ phận, chỉ huy rối loạn. Quần chúng nhân dân ở từng hướng dưới sự lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang tại chỗ nổi dậy giành quyền làm chủ, truy quét tàn quân và phá các vị trí địch.

Nắm chắc tình hình trên các hướng, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định tiếp tục tiến công vào nội đô theo kế hoạch đã dự kiến, đồng thời bổ sung nhiệm vụ cho một số hướng. Quân đoàn 4 phải nhanh chóng đánh chiếm Biên Hòa, đặc biệt là sư đoàn 7 thọc sâu phải hết sức khẩn trương cho kịp các hướng khác. Quân đoàn 1 kiên quyết chặn và tiêu diệt sư đoàn 5 ngụy. Sư đoàn 320B bỏ qua quân địch dọc đường, nhanh chóng tiếp cận vùng ven để thực hành đột phá nội đô. Đề phòng Quân đoàn 1 vào chậm, Quân đoàn 3 ngoài nhiệm vụ đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất, phải tổ chức một bộ phận đánh vào bộ tổng tham mưu ngụy.

Ngày 30 tháng 4, các hướng tổng công kích vào nội thành Sài Gòn, đánh chiếm các mục tiêu chiến lược đã quy định, hoàn thành nhiệm vụ của chiến dịch.

11.jpg


Trên hướng đông nam - hướng Quân đoàn 2, binh đội thọc sâu (lữ đoàn 203 và trung đoàn 66) được trung đoàn đặc công 116 dẫn đường, xuất phát từ lúc 5 giờ, vượt qua cầu Đồng Nai, bỏ qua cụm địch ngăn chặn ở ngã tư Thủ Đức, tiến đến cầu Rạch Chiếc lúc 9 giờ. Được lực lượng biệt động phối hợp, binh đội tiến về cầu xa lộ Sài Gòn, dùng sức mạnh của pháo binh, xe tăng đập tan cụm phòng ngự bộ binh, cơ giới của địch ở đây rồi tiến thẳng vào nội đô. 10 giờ 30 phút, được đồng chí Nga biệt động dẫn đường, đại đội xe tăng do đại đội trưởng Bùi Quang Thận chỉ huy dẫn đầu đội hình thọc sâu đã tiến vào dinh Độc Lập bắt toàn bộ ngụy quyền trung ương Sài Gòn, buộc chúng tuyên bố đầu hàng vô điều kiện trên đài phát thanh. Đúng 11 giờ 30, cờ cách mạng tung bay trên nóc dinh Độc Lập. Tiếp đó ta chiếm đài phát thanh, ngân hàng, bộ quốc phòng ngụy. 13 giờ, chiếm bộ tư lệnh hải quân - thương cảng; 14 giờ, chiếm quận 4, trường huấn luyện Thủ Đức, cục chiến tranh chính trị, cảng Sài Gòn.

Sư đoàn 304 sau khi đánh chiếm khu Long Bình, làm chủ xa lộ Sài Gòn, đánh chiếm Tân Cảng. Sư đoàn 325, sau khi chiếm Nhơn Trạch, thành Tuy Hạ, Cát Lái, lúc 13 giờ 30 ngày 30 đã vượt sông đánh chiếm Quận 9, Thủ Thiên. Sư đoàn 3, lúc 9 giờ 30, làm chủ Vũng Tàu và được nhân dân địa phương đưa thuyền bè đến giúp đỡ tổ chức vượt sông thắng lợi, tiến công địch đánh chiếm Cần Giờ.

Trên hướng đông - hướng Quân đoàn 4, sư đoàn 6, từ 7 giờ đến 9 giờ ngày 30, phối hợp cùng trung đoàn 3 của sư đoàn 341 đánh chiếm sở chỉ huy quân đoàn 3 ngụy, đến 11 giờ, chiếm sở chỉ huy sư đoàn 3 không quân và sân bay Biên Hòa. Sư đoàn 341, 9 giờ ngày 30, chiếm Hốc Bà Thức, 13 giờ phát triển sang Thủ Đức. 10 giờ 30, trung đoàn 209 đánh chiếm sở chỉ huy sư đoàn 18 và khu biệt động quân, sau đó phát triển vào nội đô Sài Gòn. 11 giờ, tiểu đoàn 7 của trung đoàn 3 cùng 6 xe tăng vượt qua cầu Ghềnh vừa đi vừa đánh địch, tiến vào Sài Gòn lúc 16 giờ 30.

12.jpg


Sư đoàn 7 sau khi đánh tan quân địch ngăn chặn ở ngã ba Tam Hiệp, lúc 9 giờ, tổ chức đội hình tiến vào Sài Gòn theo đường xa lộ (vì cầu ở đường 1 không chịu được tải trọng của xe tăng). 13 giờ 30, sư đoàn đến dinh Độc Lập, sau đó đánh chiếm các mục tiêu quy định như sở chỉ huy thủy quân lục chiến, căn cứ hải quân, bộ quốc phòng, cảng Bạch Đằng... và nhận bàn giao dinh Độc Lập từ Quân đoàn 2. Lữ đoàn 52 tiến sau đội hình của sư đoàn 7 cũng đã chiếm các mục tiêu được phân công ở quận 10.

Trên hướng tây bắc - hướng Quân đoàn 3, binh đoàn thọc sâu từ các vị trí triển khai nhanh chóng tiến vào đánh chiếm các mục tiêu quy định. Trung đoàn bộ binh 24 cùng 1 tiểu đoàn của lữ đoàn thiết giáp 273 được nữ biệt động Nguyễn Trung Kiên dẫn đường, từ 6 giờ 30 nổ súng đánh chiếm ngã tư Bảy Hiền, sau đó đánh thẳng vào cổng 5 của sân bay Tân Sơn Nhất. Địch ở sân bay chống trả quyết liệt, ta bị cháy 3 xe tăng, xe thiết giáp. Trung đoàn tổ chức lại đội hình tiến công từ hai cổng 4 và 5, điều thêm pháo bắn thẳng đến chi viện, đến 9 giờ 30, trung đoàn chiếm được cổng 5, thọc sâu bắt liên lạc với phái đoàn ta ở “trại Đa Vít”, chiếm khu thông tin, bộ tư lệnh không quân và bộ tư lệnh sư đoàn không quân địch. Đến 13 giờ 30, ta làm chủ sân bay Tân Sơn Nhất.

Trung đoàn 28 và 2 tiểu đoàn của lữ đoàn tăng thiết giáp 273 tiến đánh bộ tổng tham mưu ngụy. Lúc 9 giờ 30, đơn vị tiến đến Lăng Cha Cả, diệt một bộ phận quân dù ngăn chặn ở bệnh viện Cổ Đốc, rồi đột phá vào cổng 1 của bộ tổng tham mưu ngụy. Địch ngoan cố chống cự, nhưng sau khi ta bắn cháy 3 xe tăng, chúng bỏ chạy, trung đoàn phát triển vào cùng trung đoàn 48 sư đoàn 320B Quân đoàn 1 làm chủ khu vực bộ tổng tham mưu ngụy.

Trung đoàn 64 có nhiệm vụ phát triển, hiệp đồng với đơn vị bạn đánh dinh Độc Lập, nhưng 13 giờ mới tới nơi, sau đó cùng đơn vị bạn đánh chiếm các mục tiêu làm chủ quận 3, quận Phú Nhuận. Trong khi đó các sư đoàn 316, 320 tiếp tục truy quét tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn sư đoàn 25 và các lực lượng khác của quân ngụy, cùng lực lượng các địa phương Tây Ninh, Củ Chi, Hóc Môn, giải phóng các địa phương này.

Trên hướng bắc - hướng Quân đoàn 1, sư đoàn 312 sử dụng trung đoàn 165 có xe tăng đi cùng tiến công tiêu diệt địch ở căn cứ Phú Lợi; trung đoàn 209 đánh chiếm các vị trí địch ở An Lợi, Cầu Tây, Mỹ Thạch, Xóm Xoài; trung đoàn 141 vượt qua Trảng Bàng, đánh địch ở Lai Khê. Sau đó sư đoàn phát triển về Thủ Dầu Một tiêu diệt làm tan rã và bắt sống toàn bộ sư đoàn 5 cùng lực lượng khác của ngụy tại Bình Dương, giải phóng tỉnh Bình Dương. Tướng Lê Nguyên Vỹ tư lệnh sư đoàn 5 ngụy phải tự sát.
 
Chiến dịch Hồ Chí Minh – phần cuối

Chiến dịch Hồ Chí Minh – phần cuối

Trên mũi thọc sâu - sư đoàn 320B, trung đoàn 27 tiến công địch ở Lái Thiêu (6 giờ 30) sau đó phát triển đánh chiếm khu vực cầu Vĩnh Bình, cầu Bình Phước (cầu Bình Phước do tiểu đoàn 5 đặc công đã chiếm lúc 7 giờ 30, chốt giữ), mở đường cho trung đoàn 48 cùng tiểu đoàn 66 thuộc lữ đoàn tăng thiết giáp 202 tiến vào nội đô. Trung đoàn 48 sau khi đã diệt và làm tan rã toàn bộ lữ đoàn 3 kỵ binh ngụy tại cầu Bình Triệu đã vượt qua ngã tư Phú Nhuận, theo đường Võ Tánh tiến thẳng vào bộ tổng tham mưu ngụy. Trung đoàn tổ chức nhiều mũi đánh vào các cổng 1, 2, 3, hình thành bao vây, phối hợp với trung đoàn 28 sư đoàn 10 Quân đoàn 3 làm chủ bộ tổng tham mưu ngụy lúc 10 giờ 30. Do có 21 đồng chí biệt động thành dẫn đường, nên các lực lượng đánh bộ tổng tham mưu ngụy, tiến công khá nhanh và đánh rất trúng mục tiêu.


bac5.jpg


Trên cả hai hướng Tây và Tây Nam - hướng đoàn 232, sư đoàn 3 đã hoàn thành việc đánh chiếm khu vực Hậu Nghĩa và hai bên sông Vàm Cỏ, bảo đảm bến vượt cho sư đoàn 9 - lực lượng thọc sâu tiến thẳng vào Sài Gòn. Sau khi vượt sông, sư đoàn 9 tổ chức tiến quân theo hai trục. Trục thứ nhất, trung đoàn 1 sau khi diệt 1 tiểu đoàn dù ở ngã ba Bà Quẹo, đánh chiếm phân chi khu Vĩnh Lộc, trung đoàn tiến vào ngã tư Bảy Hiền, đập tan kháng cự của địch ở đây và phát triển theo đường Lê Văn Duyệt, đánh chiếm biệt khu Thủ đô, bắt sống tướng ngụy Lâm Văn Phát. Trục thứ hai trung đoàn 3 tiến công tiêu diệt sở chỉ huy liên đoàn 8 và tiểu đoàn biệt động quân 88 trên tuyến vành đai Đại Hàn; tiếp đó đánh tan tiểu đoàn bảo an 327 ở nam Vĩnh Lộc, tiến công chốt của tiểu đoàn 317 bảo an, tiêu diệt chi khu Bà Hom, đánh chiếm trường đua Phú Thọ và có một bộ phận sang hợp điểm ở dinh Độc Lập.


Trên mũi tiến công của trung đoàn 24, lúc 5 giờ 30 phút, trung đoàn cùng đặc công tiến công diệt đồn ngã ba Đình Hưng Đông, sau đó chiếm cầu Nhị Thiên Đường, cầu chữ Y. 10 giờ 30, đánh chiếm bộ tư lệnh cảnh sát quốc gia và đưa một bộ phận sang hợp điểm ở dinh Độc Lập. Trung đoàn 88, từ 5 giờ 30 đến 8 giờ, tiến công tiêu diệt đồn và phân chi khu Bà Phước, sau đó phát triển tiến công làm chủ đồn Ông Thìn, ngã ba An Phú, khu Nhà Bè. Trung đoàn 16, lúc 6 giờ 30, chiếm ga An Lộc, 11 giờ 30, chiếm cầu Bình Điền, sau đó có một bộ phận phát triển vào nội thành.

Sư đoàn 5, từ 5 giờ đến 12 giờ, tiến công tiêu diệt và bức hàng toàn bộ sư đoàn 22 và các liên đoàn biệt động quân, cùng lực lượng tại chỗ đánh chiếm thị xã Tân An, chi khu Thủ Thừa. Các đơn vị đặc công; 8 giờ, chiếm quận Tân Bình, 10 giờ, chiếm quận Bình Chánh; 12 giờ, chiếm được khu Rừng Sát.

Như vậy đến 11 giờ 30 ngày 30 tháng 4, ta đã đánh chiếm xong 5 mục tiêu chủ yếu và trong ngày cũng đã làm chủ toàn bộ các mục tiêu quân sự, chính trị, hành chính, kinh tế trong nội thành Sài Gòn. Sau hơn 3 ngày đêm chiến đấu thần tốc, dũng mãnh, chiến dịch Hồ Chí Minh đã toàn thắng.

Quân dân khu 8 và khu 9 đã nắm vững thời cơ chiến lược, chủ động phối hợp với chiến trường chính ở miền Đông Nam bộ, tiến công quân địch, nổi dậy làm chủ. Đến sáng ngày 1 tháng 5, đã tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn quân đoàn 4, quân khu 4 địch, giải phóng Đồng bằng sông Cửu Long.

Kết quả, trong chiến dịch Hồ Chí Minh ta đã tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng chủ lực, địa phương, cảnh sát thuộc quân khu 3 địch, lực lượng tổng trù bị còn lại và tàn quân của quân đoàn 1, quân đoàn 2. Đập tan hệ thống ngụy quyền từ Trung ương đến cơ sở, giải phóng hoàn toàn TP Sài Gòn - Gia Định và các tỉnh Tân An, Gò Công, Hậu Nghĩa, Tây Ninh, Bình Dương, Biên Hòa, Long Khánh, Bà Rịa, Vũng Tàu. Tổng số lực lượng địch bị tiêu diệt và tan rã khoảng 250.000 tên (trong đó khoảng 160.000 tên bị bắt và đầu hàng. 15.700 tên bị diệt). Tính đến ngày 10 tháng 10 năm 1975, có thêm hơn 700.000 tên ra trình diện (có 30 tướng, hơn 400 đại tá, hơn 200 trung tá, hơn 5.000 thiếu tá, gần 60.000 cấp úy). Số đơn vị bị diệt gồm: 7 sư đoàn bộ binh (có 3 sư đoàn mới khôi phục), 5 lữ đoàn dù, kỵ binh thiết giáp và pháo binh, 4 sư đoàn không quân, 90 đơn vị hải quân... Ta đã thu 500 khẩu pháo, hơn 400 xe tăng, xe thiết giáp, hơn 800 máy bay, 600 tàu chiến, 270.000 khẩu súng, 3.000 xe các loại, thu toàn bộ kho tàng và trang thiết bị ở các căn cứ của địch.

Chiến dịch Hồ Chí Minh - chiến dịch quyết chiến chiến lược cuối cùng toàn thắng đã đưa cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ của ta đến thắng lợi cuối cùng. Từ đây, nhân dân ta đã giành được độc lập tự do, tiến tới thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Về nghệ thuật chiến dịch, chiến dịch Hồ Chí Minh có nhiều phát triển mới. Trước hết Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã kịp thời nắm bắt đúng thời cơ chiến lược, hạ quyết tâm chiến dịch chính xác và kịp thời. Sau thắng lợi vang dội ở Tây Nguyên, ta đã chỉ đạo nhanh chóng tiêu diệt quân khu 1 và bộ phận còn lại của quân khu 2 địch, không cho chúng co cụm về Sài Gòn; nhanh chóng tập trung lực lượng trong một thời gian ngắn (khoảng 1 tháng) với lực lượng lớn chưa từng có trong lịch sử chiến tranh cách mạng nước ta (15 sư đoàn) và một khối lượng vật chất, trang bị kỹ thuật rất lớn tạo ưu thế về lực, thực hiện thắng lợi trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975; đồng thời đã tăng cường sự lãnh đạo tại chỗ của Bộ Chính trị đối với chiến dịch, tăng cường bộ máy chỉ đạo và chỉ huy cho chiến dịch, huy động sức người và vật chất ở mức độ cao nhất cho chiến trường, tạo điều kiện cho Bộ Tư lệnh chiến dịch đã nắm chắc ý đồ của trên, hạ quyết tâm chiến dịch chính xác và kịp thời, chuẩn bị chu đáo, thực hành chiến dịch trong một thời gian ngắn, đánh bại ý đồ kéo dài cuộc chiến tranh của địch.

Việc tạo thời cơ, nắm bắt và tranh thủ thời cơ phụ thuộc rất lớn vào thế và lực của ta trên chiến trường. Về thế, trước khi bước vào chiến dịch ta đã có một thế trận chiến tranh nhân dân phát triển đến trình độ cao. Đó là thế trận của hai lực lượng, ba thứ quân, thế trận đảm bảo cho thực hiện hai đòn tiến công chiến lược là tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng. Bằng một loạt các hoạt động quân sự của ta trước chiến dịch, ta đã tạo được thế bao vây chia cắt Sài Gòn, lập được hành lang chiến lược nối từ hậu phương trực tiếp đến chiến trường, hành lang đó ngày càng được mở rộng và hoàn chỉnh. Các lực lượng ba thứ quân của ta đã đứng chân được ở những vị trí xung yếu. Về lực, với thắng lợi của các đòn quân sự trước chiến dịch trên toàn Miền, ta đã làm suy giảm lực lượng địch bằng những trận tiêu diệt lớn (địch đã bị thiệt hại tới 35% quân số, 40% cơ sở hậu cần, 40% binh khí kỹ thuật).

Ta đã thực hiện chia cắt chiến lược giữa Đồng bằng sông Cửu Long và Sài Gòn. Do có ý đồ chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược từ trước nên ta đã xây dựng được các binh đoàn chủ lực mạnh. Về so sánh lực lượng địch, ta lúc này, ta đã đạt tỷ lệ áp đảo 1,7 trên 1 với chủ lực và 3 trên 1 với số đơn vị tập trung. Về binh khí kỹ thuật ta đã tập trung được 516 khẩu pháo mặt đất, 550 tên lửa và pháo phòng không, 1 đại đội máy bay A37, 320 xe tăng, xe thiết giáp, 1.600 xe kỹ thuật chiến đấu, hơn 10.000 xe vận tải, 60.000 tấn vật chất (15.000 tấn đạn). Về lực lượng nổi dậy ta đã tăng cường 1.700 cán bộ cho vùng ven và nội thành, có hơn 1.200 đảng viên và 10.000 quần chúng nòng cốt, 40 lõm chính trị với 7.000 quần chúng làm chủ có mức độ, 400 tổ chức công khai với 25.000 người do ta nắm. Rõ ràng cả thế và lực ta đều áp đảo địch.

Từ nghiên cứu kỹ thực tế chiến trường Bộ tư lệnh chiến dịch đã đi đến kết luận rất đúng về hai đối tượng tác chiến chủ yếu của chiến dịch là các sư đoàn chủ lực của chúng bố trì ở vòng ngoài và cơ quan đầu não về quân sự chính trị ở nội đô. Hai đối tượng này có quan hệ mật thiết với nhau, đối tượng thứ nhất bị tiêu diệt thì đối tượng thứ hai sẽ mất chỗ dựa chủ yếu, mất ý chí đề kháng, tan rã hoặc đầu hàng. Ngược lại nếu đối tượng thứ hai bị tan rã hoặc đầu hàng sớm, thì đối tượng thứ nhất sẽ như rắn mất đầu và nhanh chóng bị tiêu diệt. Từ nhận định trên Bộ tư lệnh chiến dịch đã xác định cách đánh chiến dịch, chiến thuật trong chiến dịch rất linh hoạt và sáng tạo đó là kết hợp với thế trận đã được chuẩn bị trước, hình thành thế trận hợp vây lớn, chia cắt hiểm, kết hợp chặt chẽ và phát huy cao độ uy lực của các binh đoàn chủ lực, của lực lượng vũ trang tại chỗ và nổi dậy của quần chúng.

Dùng từng bộ phận lực lượng thích hợp trên từng hướng, đủ sức bao vây chia cắt, chặn giữ quân địch lại, không cho chúng rút chạy về Sài Gòn. Tiêu diệt và làm tan rã tại chỗ các sư đoàn bộ binh phòng thủ vòng ngoài của địch; đồng thời sử dụng một lực lượng chủ lực cùng lực lượng tại chỗ đánh chiếm các địa bàn then chốt ở vùng ven, mở đường cho các binh đội được cơ giới hóa và trang bị mạnh, đánh địch trong hành tiến, thọc sâu theo các trục đường, nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu chủ yếu, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ tập đoàn phòng ngự lớn của địch tại trung tâm đầu não của chúng.

Chiến dịch Hồ Chí Minh cũng là một điển hình về sự hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng, cả binh chủng và quân chủng, sự kết hợp trên quy mô lớn ba mũi giáp công, tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng. Chiến dịch Hồ Chí Minh - chiến dịch tiến công quy mô lớn nhất của ta, thực sự là đỉnh cao của nghệ thuật chiến dịch tiến công hiệp đồng quân binh chủng, bước phát triển nhảy vọt lớn nhất về sức mạnh và nghệ thuật chiến đấu của toàn quân và toàn dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.

(Theo Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975) của Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân)
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top