Chương I
Nguyên Lý Sáng Lập Ðạo Phật
…Đời sống quốc gia dân tộc với hoàn cảnh địa lý và ảnh hướng khí hậu, thiên thiên, đã tạo dựng cho Ấn Độ có một lịch sử khác với các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Đó là sự cố đặc biệt của xứ Ấn Độ xưa và nay. Nơi có những rừng núi thâm u, tục gọi là lục địa xanh (Pays bleus), đã ảnh hưởng nhiều tới luồng tư tưởngnhân bản, tiến bộ và giải thoát sớm được xuất hiện. Thật vậy, bất cứ tôn giáo, học thuyết, chủ nghĩa nào, khi mới sinh khởi, đều là phản ánh (không nhiều thì ít) của hoàn cảnh, khí hậu, địa dư, xã hội, chủng tộc mà tạo dựng cả. Nếu người ta xét nó ngoài hoàn cảnh thực tại lẽ dĩ nhiên không thể thấu hiểu nổi. Văn hóa đạo Phật cũng do nhân duyên hội ngộ như thế mà nảy mầm và thúc đẩy, tiến hóa…
* Hình Thể Địa Dư
Địa lý xứ Ấn Độ mang một dấu tích đặc biệt, phía tây có nguyên Béloutchistan và các dãy núi thuộc phía tây bắc; phía tây bắc có rặng núi Himalayas cao vút, gồm hai dãy chạy song song nối liền và kéo dài tới tận biên giới Miến Điện với nhiều nhánh tua tủa. Ấn Độ có 3.500 km núi chạy dài từ tây sang đông và 800 km chạy từ bắc xuống nam; đấy là chưa kể phía duyên hải miền tây hoàn toàn là các núi đá lởm chởm. Rặng núiHimalayas sừng sững cao ngất trời phương bắc đã ngăn chặn các làn gió từ trung ương Á Châu thổi tới và giử lại các làn gió lưu tích sự ẩm ướt của gió mùa. Phần lớn các băng tuyết của núi này đã tạo ra các giòng thủy lưu nuôi sống vùng bình nguyên Ấn Hà. Các đường thông thương với vùng Thượng Huyền đều nằm ở phía tây bắc Ấn Độ. Cả vùng tây và bắc Ấn Độ đều có các núi cao và cao nguyên. Mùa đông cực rét. Mùa hè, băng tuyết tan. Sông ngòi đều có thủy lưu cháy xiết. Về phía nam có gió mùa đem mưa từ Ấn Độ Dương vào lục địa. Vì vậy, Ấn Độ như có các biên giới thiên nhiên để được sống yên bình, phát triển văn minh thành thị. Nếu không nhờ có năm nhánh sông Jhelam, Chenab, Ravi, Béas và Satlédj hợp lại với sông chính Industhì cả vùng phía tây bắc Ấn Độ chỉ là sa mạc mà thôi. Vùng đất phì nhiêu nhất hiện nay của Ấn Độ là hai trung nguyên Ấn Độ hà và Hằng hà, vì nơi đây dân cư đông đúc, xóm làng trù phú. Mọi sinh hoạt đều bắt rễ từ đấy rồi tỏa ra khắp nơi trong nước. Địa bàn Dèkkan và Kashmir là hai cực nam, bắc đã phân định hình thể địa dư bản xứ. Toàn cõi Ấn Độ có một diện tích rộng lớn là trên ba triệu km2, bằng 3,4% diện tích đất của địa cầu (không phải 3,4% diện tích địa cầu), gồm có 3.268.090km2 (Ấn Độ) 935.000km2 (Hồi Quốc), bằng hơn 7 lần diện tích nước Pháp hay bằng hơn cả Âu Châu, trừ nước Nga. Và Ấn Độ đứng hàng thứ hai về dân số (1984: 688.600.000 người), bằng 1/5 tổng số nhân loại, bằng 10 lần dân số nước Pháp[1]. Thủ đô hiện nay là New Dehli. Nói về địa thế Ấn Độ thật hùng vĩ, phía bắc có dãy núi Himalayas bao bọc, phía nam là một đại hải mênh mông bát ngát... như cuốn hút tất cả tinh hoa của trời đất tụ lại. Giòng sông thiêng Gangelinh tú trong xanh lững lờ đổ nguồn về vịnh Bengale làm tươi mát cả một vùng đất rộng lớn. Và, hơn nữa; Ấn Độ được coi như là trung điểm của địa cầu. Sở dĩ nền văn hóa, văn minh vĩ đại của Ấn Độ có được vị thế độc tôn là do ảnh hưởng của hoàn cảnh, khí hậu, thiên nhiên mà có. Nền văn hóa, văn minh ấy có một sắc thái khác hẳn các tư trào văn hóa, văn minh hiện hữu trên thế giới (xin sẽ bàn đến trong mục Văn Hóa ở dưới). Một khu vực có những che chở thiên nhiên, có núi cao, biển rộng, sông dài... Đấy cũng là lẽ tất yếuđã giúp Ấn Độ sớm nảy nở một nền văn hóa siêu đẳng: Văn hóa Đạo Phật.
* Hoàn Cảnh Xã Hội
Khi muốn biết trình độ tiến hóa của một dân tộc, người ta căn cứ vào từng giai đoạn và sự biến thiên của lịch sử dân tộc ấy, để thẩm định giá trị của nó. Sau thời đại thái cổ, xã hội Ấn Độ tuy đã thoát qua thời kỳ man dã, bán khai, tiến sang thời kỳ văn minh; nhưng... dân chúng nơi đây vẫn luôn luôn sống trong tình trạng đói khổ và bị áp bức, đời sống con người do đấy mà bị chi phối về mọi mặt.
- Về Nhân Chủng, Cách nay khoảng bốn, năm nghìn năm, những người đầu tiên (Adivâsis) ở bình nguyên Indus và ở rải rác trong xứ, gồm có các nhóm nhân chúng (groupes ehtniques) Négroĩdes và ProtoAustraloides. Các người Négroides thì sinh tụ ở các rặng núi Cochin và Travancore, có màu da gần như đen, đầu dài hoặc trung bình, tóc quăn thành các xoáy trôn ốc dài. Còn các người Proto-Australoĩdes thì ở miền trung (Ấn Độ) và một số ở rải rác về phía bắc Ấn Độ. Ngày nay nếu nói đến người bản xứ Ấn Độ là nhắc đến loại người đã chiến thắng được các người Négroĩdes, tức là người Proto-Australoĩdes “Dravidiens”[2]. Về nguồn gốc người bản xứ Ấn Độ Dravidiens thì chúng ta rất it biết chắc chắn lắm. Có nhiều giả thuyết đã được nêu lên. Rất hữu lý thì chúng ta phải nên chấp nhận nguồn gốc người Dravidien phát tích từBéloutchistan. Ngày nay người ta còn thấy các người Brahuis ở vùng biên giới Béloutchistan còn nói một thổ ngữ Dravidien. Có thể họ đã ở Ấn Độ rồi sau này bị các người Aryens đẩy xuống phía nam Ấn Độ. Cũng có thể họ đã ở khắp Ấn Độ trước khi người Aryens vào đây. Có nhiều nhà bác học nhân chủng cho rằng các người Paléo-Méditerranéens là những người bản xứ Ấn Độ ngày nay. Nhưng cũng có người cho rằng họ hãy còn ở nam bán đảo Dekkan và là giống người căn bản cho Đông Nam Á, từ quần đảo Andanans tới quần đảoIndonésiens. Người Dravidien vốn sinh trưởng từ trước ở Ấn Độ, có nước da ngăm ngăm, tóc quăn, vóc người tầm thước. Người Aryens thì sáng nước da, cỡ người to lớn, mũi thẳng, khôn ngoan hơn đã đột nhập tại lưu vực Ấn Độ hà; mãi về sau từ phía tây bắc vượt qua các thung lũng dõi theo núi Tuyết (Himalaya) vào khai lập ở lưu Ngũ Hà[3]. Có một sự kiện mà chúng ta nên lưu ý là có vài bộ lạc mang huyết tố Dravidien lại nói thổ ngữ gốc Aryen, như trường hợp các người Bhil thuộc bộ lạc Mounda, hiện lưu cư tại miền cao nguyên Dekkan. Trước hết, ta nên để ý các giống người Paléo-Méditerranéens có một vị tri địa dư nhân chủng rất lớn cũng như khi ta nói đến nhân chủng Négroĩde đấy mới chỉ là đứng về phương diện nhân chủng mà xét, như vậy là đã ngoại trừ các yếu tố quốc gia, chính trị... Nói tóm, Ấn Độ gồm có 5 nhóm nhân chủng chính: đó là các người da đen Phi châu; như các người Proto-Australoĩdes, thuộc giống Úc Châu. Ngoài hai loại người này còn có giống người Paleo-Méditerranéens, các người Austro-Asiatiques (Nam A), các ngườiArmenoĩdes và Alpins... Về nhân số thì nước Cộng Hòa Ấn Độ hiện nay có khoảng trên sáu trăm triệu người.
- Về Kinh Tế: Ấn Độ là dải đất “phì nhiêu” rộng lớn rất thuận tiện cho sự trồng trọt, canh tác của người bản xứ. Về Canh Nông là nghề chính của các dân tộc chịu ảnh hưởng nền văn hóa thảo mộc đông phương, do đó mà người Ấn Độ rất cần cù, nhẫn nại. Nông sản chính là lúa gạo và lúa mì, nhưng theo lối canh tác cổ xưa, dụng cụ thô sơ, sự thu hoạch rất kém cỏi... nên dân Ấn Độ rất nghèo! Để bù vào sự thiếu hụt đó, các sản vật khác cũng giúp cho sự mưu sinh đỡ phải chật vật, như bông, đay, gai, mía, chè và các nghệ chăn nuôi súc vật... Về Kỹ Nghệ, Ấn Độ có kỹ nghệ cổ truyền, như làm đồ gốm, luyện kim, thuộc da, đan đồ dùng bằng tơ, dệt vải v.v... Có chì, kẽm, dầu hỏa và có nhiều mỏ than, sắt là những nguồn tài nguyên giàu có của quốc gia này. Về Thương Mại, các đường thông thương tiện lợi vẫn là phía tây bắc Ấn Độ với vùng Thượng Huyền. Ngay từ bản sơ, ta có thể xếp Ấn Độ đứng hàng thứ hai thứ ba trên hoàn cầu. Vì hầu hết các đô thị lớn đều tiện đường giao thương, có rất nhiều đường bộ và thủy thuận tiện cho sự xuất, nhập cảng như Calcutta,Bombay, Karatchi, Madras là nơi có những hải cảng quan trọng...
Đáng lý với hoàn cảnh thuận tiện ấy, dân chúng Ấn Độ không đến nổi nghèo khổ suốt đời phải lao lực, bận bịu trong những kẻ mưu sinh vụn vặt, tầm thường mới phải, nhưng, tại sao dân chúng vẫn nghèo khổ, so với các quốc gia khác trên thế giới? Ta hãy nhìn vào hoàn cảnh xã hội sinh hoạt chính trị từng thời đại để tìmnguyên nhân
- Về Chính Trị: từ nghìn xưa, xã hội Ấn Độ có truyền thống là một xã hội đẳng cấp, nhất là sau cuộc di dân vĩ đại của những người Aryens thẩm nhập và đồng hóa dân tộc này. Với mục đích chia để trị, họ đã phân định xã hội Ấn Độ thành bốn đắng cấp cách biệt hẳn nhau. Bốn đẳng cấp ấy là: 1. Brahmanes, những thầy tu (giáo sĩ Bà La Môn) giữ việc lễ nghi cúng hiến; 2. Ksatryas (Sát Đế Lị), giòng dõi những người quyền quí, nắm giữ chính quyền, cai trị dân chúng; 3. Vaisyas (Phệ xá), những người buôn bán, làm ruộng, suốt đời cày thuê làm mướn; 4. Sudras (Thủ Đà La), giống thổ dân ở những nơi rừng núi thâm u và làm tôi mọi suốt đời... Dòng tình cảm đồng loại bị chia cắt. Sự tranh chấp giữa các đẳng cấp trong xã hội có khi ngấm ngầm, có khi bộc phát, làm cho bầu không khí nghẹt thở, khó chịu, mỗi ngày thêm căng thẳng, trầm trọng. Những người thiệt thòi nhất trong xã hội là hai lớp người Vaisyas và Sudras. Họ không có một tia hy vọng nào được giải phóng cả. Ngoài bốn đẳng cấp ấy, còn một hạng người man rợ - hạng người Parias đời sống của họ khổ hơn con vật, không bao giờ biết có ánh sáng mặt trời! Thật là cảnh địa ngục ở trần gian. Tại sao cùng là một kiếp người lại sự chênh lệch đến thế?!
Và... còn biết bao sự đau khổ dày vò thể xác lẫn tâm hồn, họ đành phải nhận chịu một phần do ảnh hưởng xã hội đế chế phong kiến cổ thời và một phần chính do tư tưởng Bà La Môn giáo gây ra... Điều này ta không lấy làm lạ. Khi dòng Bà La Môn đã tạo được lực lượng tôn giáo, lẽ tất nhiên họ sẽ tìm đủ mọi cách giữ gìn địa vị của mình, và muốn mãi mãi duy trì chế độ đắng cấp, nên đã vin vào những thần thuyết mơ hồ, thiếu căn cứ, đặt ra một bộ luật có tính cách nữa chính trị, nửa tôn giáo, bộ luật Manou, có những đều: cấm chỉ sự hôn phối giữa những người thuộc đẳng cấp khác nhau. Đạo đức, tôn giáo lúc này chỉ còn là hình thức, đời sống hỗn độn, con người không có tự do, thiếu sinh khí, không biết gì là hứng thú sống còn! Suốt đời họ phải nai lưng ra làm việc để kiếm miếng ăn manh áo mặc cũng không đủ, lại còn phải đóng góp đủ thứ sưu cao thuế nặng để cung phụng cho bọn cai trị mình thụ hưởng một cách phi lý. Cuộc sống của họ thật cơ cực, vất vả, thiếu thốn... Một chế độ đẳng cấp (système des castes) bất bình đẳng đương nhiên không thể đứng vững được. Chỉ có những hạng người bạc nhược, thụ động, ích kỷ mới chịu thu hình trong một hoàn cảnh đã rồi. Những người có tâm hồn thức giác, biết nhìn xa, trông rộng, có chí khí sắt đá, chỉ chờ cơ hội là cuộc cách mạng tương lai bộc phát. Phong trào “phản kháng” mỗi ngây thêm tỏ rõ, mãnh liệt...!![4]
- Về Văn Hóa: Ngay từ buổi rạng đông, Ấn Độ đã sớm có một nền văn minh, những ngôn ngữ, văn tự (Phạm văn = Sanskrit và Pali) riêng, đại biểu xứng đáng cho nền Văn Hóa Nhân Bản Toàn Diện: đó là sự ưa sống trầm hùng, đượm sắc thái Tự do, giải thoát. Người Ấn Độ rất thông minh và giàu tình cảm. Đứng về phương diện quốc gia thì, văn minh Ấn Độ có rất nhiều nhân chủng tạo dựng. Đại loại người ta chia ra làm hai. Đó là văn minh bắc Ấn, thuộc nền văn minh của người da trắng Aryens, và văn minh nam Ấn, thuộc người da màu. Văn minh da màu có trước văn minh da trắng. Nền văn minh này còn gọi là văn minh tiềnAryenne (Civilisation pré-Aryenne). Nhưng đứng về thời gian mà nói, nền văn minh tiền Aryenne được gọi lànền văn minh bán xứ.
Để tránh ngộ nhận ta gọi là văn minh Dravidienne (Civilisation Dravidienne). Văn minh Dravidienne chịu ảnh hưởng của các nền văn minh khác. Nói thế tức có nghĩa nền văn minh nhân chủng Dravidienne là một sự tổng hợp khá bền chặt giữa các mối liên lạc của các vùng Địa Trung Hải và Cận Động. Văn minh bản xứ Ấn Độ cũng rất huy hoàng không kém các vùng khác, trái lại còn có nhiều điểm ưu thắng hơn. Người Aryens đã không đóng góp gì vào nền văn minh thành thị nguyên thủy Ấn Độ, hay nói khác là nền văn minh tiền Aryenne, tức là nền văn minh tây bắc Ấn Độ, vùng sông Indus. Văn minh này có các biên giới thiên nhiên che chở. Phía bắc có rặng núi Himalayas; tây nam có biển Oman; đông nam có vịnh Bengale.
Do đó Ấn Độ là vùng đặc thù của phần đất thuộc văn minh Âu - Á (Eurasie). Ấ Độ có cửa ngõ gần như duy nhất để tiếp xúc với vùng Âu Á ở tại phía bắc. Nơi đây các dân cư Ấn Độ và các vùng lân cận giao tiếp theo hai ngả đường. Ngả thứ nhất bằng con sông Caboul, qua Khaĩber. Ngả thứ hai bằng các thung lũng của hai con sông Kouran và Gounal, qua Waziristàn. Khaĩber là cửa ngõ đưa vào bắc Pendjab. Waziristàn là đại lộ vào vùng trung Pendjab. Ta có thể nói được là vùng tây bắc, vùng sông Indus, chính là cuống họng đưa chất dinh dưỡng hay độc tố vào nội địa Ấn Độ; người Aryens vào khoảng giữa đô thị thiên niên kỷ, ngườiMacédoniens do đại đế Alexandre le Grand năm 326 và năm 180 TTL; người Grecs Bactriane; người Indo -Scythes vào khoảng thời đại Jésus. - Christ; người Hung Nô (Huns) vào khoảng 450 TTL; người Turco - Afghans từ năm 1.000 TL, người Grands Moghols từ 1526 TL, đều qua ngả tây bắc để vào Ấn Độ. Bất luận vào thời đại nào, dù văn minh phế hưng ra sao, Ấn Độ vẫn mang đặc tính thế giới sử là nhờ vào các cửa ngõ ở phía tây bắc Ấn. Các cửa ngõ này đã quyết định cường độ văn minh bình nguyên Ấn Hằng nhiều nhất và có tính cách trực tiếp, rồi từ đó ảnh hưởng lan dần xuống cao nguyên Dekkan ở phía nam Ấn Độ.
Nền văn minh Ấn Độ có vẻ trầm lặng nhưng oai hùng hơn các vùng khác; tuy cùng mang một đặc tính “định cư, nông nghiệp, thành thị”. Cái đặc tính trầm lặng này của Ấn Độ ngày nay vẫn còn.
Nền văn minh cổ nhất và có tính cách ngoạn mục mới được khai quật gần đây, nằm trong vùng tây bắc Ấn Độ, thuộc Khaipur ở Pendjab.
Địa danh này mang tên Kot Diji. Kot Diji hợp với Mohenjo-daro và Harappa, thành địa danh văn minh tối cổ của Ấn Độ. Kot Diji đứng vào hàng cổ nhất.
Ta có thể nói là từ năm nghìn năm nay, bình nguyên sông Indus là nơi đắc địa cho các nền văn minh đầu tiên của Ấn Độ khai mở. Nghệ thuật, thủ công nghệ và cả hệ thống chữ viết nữa đã đạt tới mức vô cùng sáng sủa. Tiếng Hindia thuộc dòng những tiếng Indo Européenne, cùng một nguồn gốc ngữ tộc với tiếng Phạm, nghĩa là của những dân tộc có tổ tiên là người Ấn Âu. Người Ấn Độ bản xứ là hậu duệ của giống dân da sậm có liên lạc huyết thống (xa hay gần) với nhân chủng Négroĩdes và Proto-Australoĩdes... Như vậy ta có thể kết luận tiếng Phạm đứng hàng đầu trong loại Indo-Européenne.
Ba khu vực có giống người gây thành xã hội trên thế giới:
1. Lưu vực giữa hai con sông Dương Tử và Hoàng Hà.
2. Đồng bằng sông Nile.
3. Đồng bằng sông Hằng.
Ba khu vực có ba luồng từ tưởng khác nhau và là căn bản của nhân loại. Từ đồng bằng sông Dương Tử thuộc một thứ tiếng khác hẳn, loại tiếng liên âm của những người phi châu, còn hầu hết loại đa âm đều thuộc dòng Indo-Européene, trừ những dụng ngữ hằng ngày để sống, từ khu vực khác nhau, còn những ngữ thuật (termes savants) để biểu lộ tư tưởng lúc đầu (thời thượng cổ) phần lớn loại đa âm đều mượn ở Phạm văn.
Các học giả chia làm tám nghành của Indo-Européenne
1. Nghành Aryenne hay indo - iranienne gồm các tiếng Ấn, Ba Tư và Phạm, Arabe v.v…
2. Nghành Arménien, một phần nước Nga.
3. Hi Lạp (cổ và kim), Ionien, Altique, Dorien v. .v..
4. Albanie, giáp giới Nga và Trung Ðông.
5. Nghành Italique, gồm Ý, La Mã, La Tinh v.v..
6. Nghành Celtique, phần nhiều là từ - ngữ, gồm Pháp, một phần Anh, Bồ.
7. Nghành Germanique. gồm Ái Nhĩ Lan. Scandinave, các tiếng Đức, Phổ, Anh và Anglo- Saxon
8. Nghành Balto-Slave. Lithuanie. Nga. Ba Lan. Tiệp. Bulgarie, các dân tộc Nam Tư (sevbo- croate).
Văn minh Phạm còn có một công trình lớn là đầu tiên dùng chữ số như chữ số ngày nay ta viết, nhớ lại con số của người Trung Hoa hay La Mã không thể nào đặt con tính được, chữ Ai Cập cũng vậy, Phạm văn đầu tiên đã dùng số hệ (Syetème numérique) nhân mười như ngày nay, và nghĩ ra con số “không” (Zézo), trong chữ số, ta có thể nhờ đó mới có toán học. Tiếng Phạm thuộc trong những loại đa âm hiện có trên thế giới nhưng tiếng phổ thông mà ngày nay dân chúng Ấn Ðộ bắt-buộc-phải-dùng-để-thống-nhất-ngôn-ngữ là tiếng Hindi, có gốc từ chữ Phạm và ngôn ngữ Ấn Âu hơn là những tiếng địa phương có gốc từ
tiếng Moundari vàdravidien[5], còn về lối chữ cổ Ấn độ như ta biết theo lối tượng hình, giống lối chắp A.B.C... Ngày nay đại đa số các nước tiên tiến đều dùng lối chữ trên, và cả các việc ấn loát, tốc ký và điện tín cũng dựa vào lối viết ấy. một dân tộc có quá trình tiến hóa như Ấn Ðộ, lẽ dĩ nhiên những tư tưỡng về tôn giáo, triết học cũng sớm được nảy mầm, giờ đây ta hãy đi vàolĩnh vực ấy để tìm hiểu...
Tư tưởng siêu nhiên:
Thời đại hồng hoang, bất cứ dân tộc nào, xã hội loài người cũng sùng bái thiên nhiên. Ngoài tư trào tôn giáo, họ chưa có ý thức về triết học hoặc luân lý. Nhân đứng trước bầu trời mặt đất rộng lớn, với cảnh tượng kỳ lạ như sắm chớp, trăng sao núi sông... họ sinh lòng tín ngưỡng tôn giáo, triết học và mê tín ở Ấn Ðộ cũng như hầu hết các dân tộc khác ở trên thế giới khi ý thức con người vừa chớm nở, đều không vượt ra ngoài ra công lệ ấy. Những bài ca tán tụng tôn giáo do đó mà làm ra, mục đích là để cầu phúc, tiêu tai, sau lâu trở thành những lời sấm bí truyền, nhằm giải thích sự linh ứng của thần và sự tế tự, cầu đảo của người ta, đấy là nguyên nhân chính để tạo lập ra bộ thánh kinh Véda. Véda là một bộ thánh kinh cổ nhất của xứ Ấn Ðộ. (Véda, dịch là “minh trí: trí sáng” nghĩa là kinh này làm cho sáng suốt, tỏ rỏ sự thật) kinh điển Véda gồm có 4 loại chính: 1. Rig-Véda chép những bài ca tán tụng tôn giáo; 2. Sama-véda, chép những bài văn tế, giải thích các lối nghi thức quan hệ; 3. Yajur-Véda, chép những văn chú thuật tướng truyền, 4. Atharva-Véda, chép những lời giải đáp về các bí quyết, ma thuật v.v.. .
Kể từ khi người Aryens xâm chiếm dùng bắc Ấn Ðộ thì lịch sử thánh kinh cũng bắt đầu được kiến lập.
Ngay từ buổi ban sơ, người Aryens đã nghĩ đến sự bỏ củ thay mới, và tạo lập một lý thuyết có tính chất kỳ thị và trục lợi làm nền tảng cho các bộ máy hành chính sau này. Ðó là thứ lý thuyết lãnh đạo chỉ huy tổng quát tất cả cơ cấu của xã hội, một thứ hiến pháp bất thành văn: thứ hiến pháp được xây dựng trên căn bản của bộ thánh kinh Phệ Ðà (Véda) về sau, thánh kinh cũng được sáng tác thêm. Các thần cũ chỉ còn là một bóng mờ đối với những vị mới được tân chế các bộ thánh kinh Véda nhường chỗ cho các bộ mới ra đời. Đó là các bộ: Tế Nghi Thư (Brahmana) Sâm Lâm Thư (Aranyaka) và Áo Nghĩa Thư (U panishad).Vào thời kỳ Tế Nghi Thư thì có Tạo vật chủ Prajapati, và thời kỳ Áo Nghĩa Thư có thần Atman. Hệ thống kinh điển thần học và xã hội học được giải thích mỗi lúc thêm khó hiểu, và do đó mới có nhiều nguồn tự do tưởng giải thích thánh kinh[6].
Sau thời đại Véda tư tưởng Ấn Ðộ bắt đầu chuyển biến, Triết học do đấy được manh nha. Con người không còn tin vào thần thoại nữa. Muốn hiểu vũ trụ con người đã vận dụng đến trí năng mình để khảo sát nó và, bắt nguồn từ đấy, các phái triết học tiếp nhau ra đời. Trong những phái triết học, hoặc dung hợp nhau, nhưng… tất cả đều là hướng tìm cái nguồn gốc của vũ trụ. Có phải cho rằng “Phạm Thiên” (Brahma) là căn bản của vũ trụ, vạn hữu. Nhưng phái khác lại cho rằng “Ðất” là gốc của vạn hữu; phái lại cho rằng “Nước” là gốc; phái cho rằng “Lữa” là gốc; phải cho rằng “Gió” là gốc v.v... Tiến bộ một nấc nữa, người ta bỏ vật chất (đất, nước, gió, lửa…) mà hướng về chổ trừu tượng, nên có những phái lập ra “Thời Gian Luận”, “Phương Hướng Luận”, “Không Gian Luận” v.v... rồi nào Chủ Quan, Khách Quan, Trừu Tượng, Cụ Thể, Nhất Nguyên, Ða Nguyên, Chủ Ðộng, Chủ Tĩnh… bao nhiêu tư tưởng khởi xướng trở thành một thời đại hết sức hỗn độn!
Có thể nói thời kỳ này các tư tưởng gia Ấn Ðộ sinh hoạt rất náo nhiệt. Kinh Phật ghi sổ mục có chín mươi hệ phái thần học, triết học khác nhau, nhưng nổi bật nhất, vẫn là sáu triết phái, đó là.
1. Phái Ajita Kesakambali, chủ trương “Duy Vật Luận” con người là do các yếu tố vật chất kết hợp tạo thành, không có quả dị thục các nghiệp thiện ác, không có sự kết sinh tương tục trong đời mai sau, con người chết là hết, thuyết này có tính cách chống lại thần cách siêu hình của Bà La Môn giáo, không nhận có Thượng Ðế (Brahma) sáng tạo vũ trụ và loài người, và lấy sự hưởng thụ vật chất làm mục đích cứu cánh cuộc đời.
2. Phái Pakudha Kaccayana thì chủ trương thuyết “Vạn Vật Thường Tồn” vạn sự vạn vật ở đời chẳng qua là do các yếu tố nhân duyên tạo thành vậy ta không nên quan tâm tới chúng, vì nếu không, chỉ nhận lấy sự đắng cay phiền não vô ích.
3. Phái Purana Kasspa, chủ trương “Ngẫu Nhiên Thuyết”, cho rằng vạn vật có ở đời, chỉ là ngẫu nhiên. Không tin có luật nhân quả. Phủ nhận đạo đức chẳng phải tôn thời, sùng bái gì cả. Nói khác, đạo đức là không tưỏng, cần phải phá bỏ, vì mọi liên hệ cuộc đời là ngẫu nhiên. .
4. Phái Makkhali Gosala lại chủ trương “Tự Nhiên Thuyết”, con người sinh ra đời là bởi tự nhiên. Mọi sự họa phúc, vui hay khổ cùng là tự nhiên, nó không bị ảnh huởng bất cứ một nguyên nhân nào chi phối cả.
5. Phái Sanjaya Belathiputta chủ trương “Hoài Nghi Thuyết”, ngụy biện rằng chân lý không phải là không biến đổi, việc trước mắt ta vừa thấy đó, ví dụ các hoa chẳng hạn, thoạt nhìn tưởng là nó vẫn y nguyên nhưng sự thực thì, nó đã biến đổi từng chớp mắt, từ màu hống thẫm chuyển sang màu hồng lợt đối với sự vật cũng thế, ta không thể không hoài nghi về sự hiện hữu của chúng.
6. Phái Nigantha Nataputta, chủ trương thuyết “Tương Ðối”, nghĩa là không có cái gì tuyệt đối cả. mọi con người sinh ra đời, lớn lên, làm việc… rồi chết! vậy bất cứ giải quyết vần đề gì, ta cũng nên chú ý đến các yếu tÍnh tâm lý ngã - tha, để khỏi bị va chạm làm bẩn kiếp sống con người trên cõi đời này, như: không gây ra các tội lỗi, phát triển lòng từ, và điều cần yếu là biết luyện thân khắc khổ để cầu giải thoát… Kiếp sống này chẳng ra gì (vì là tương đối). Thôi thì mong để một khi chết yên vui ở kiếp sau...
Tiếp sau đó, còn có những học phái khác lần lượt ra đời. Ðó là sáu học phái:
1. Nỳaya
2. Vaisésika
3. Samkhya
4. Yoga
5. Mimansa và
6. Védanta
Tư tưởng của sáu học phái này chịu ảnh hưởng, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp, của ba thời kỳ Rig-Véda, Bràhmana và Upànishad, phần nội dung của nói chỉ là khai triển điều (đã có) trong các thánh thư. Ðôi khi cũng có phát triển những điều mới lạ nhưng là để chứng minh cho những thuyết lý của các thánh thư được sáng tỏ mà thôi.
Kiểm điểm lại, ta thấy, tư tưởng Ấn Ðộ đã tuần tự phát triển một cách nhịp nhàng. Thoạt đầu, con người còn sùng bái ánh sáng thiên nhiên, về sau, sấm, chớp, gió, mưa, cũng được coi là có thần linh chi phối, cai quản. Ðó là từ Ðộc Thần
Giáo (monothéisme) chuyển qua thời kỳ Đa Thần Giáo (Polythéisme). Rồi từ Ða Thần Giáo đi đến Phiếm Thần Giáo (Panthéisme) về sau tư tưởng càng ngày thêm sáng đạt, người ta lại nảy ra những nghi ngờ và tự hỏi: Căn bản của vũ trụ là gì? -Nhân sinh do đâu mà có? Giá trị của cuộc sống ra sao? Những câu hỏi hóc búa ấy là những roi đòn đánh váo tâm thức con người, bắt phải suy nghĩ. Ðo dó, tư tưởng triết học mỗi ngày khai triển càng rộng, sâu thêm, nhằm giải đáp những mối băn khoăn, thắc mắc của con người, về siêu hình cũng như về thực tại cuộc sống, (xin xem vấn đề này ở phần Luật Thuyết ở dưới)
Nói tóm, ở Ấn Ðộ xưa, trước đời đức Phật ra đời, về tư tưởng, tôn giáo, triết thuyết cũng như về mặt chính trị, kinh tế và xã hội thật là vô cùng phức tạp, thêm vào đó, nạn kỳ thị tôn giáo cũng trầm trọng không kém. Phía tây Ấn Ðộ là địa bàn hoạt động của Bà La Môn giáo (Brahmanisme). Phía đông thì thuộc Kỳ Na Giáo(Jahĩsme). Hai tôn giáo này tranh giành ảnh hưởng với nhau, và chi phối hoàn toàn đời sống con người, không những về mặt tinh thần mà cả về phương diện vật chất nữa, có thể nói đây là một thời đại loạn của sứ Ấn Ðộ con người không còn biết tinh tưởng, bám víu vào đâu nữa cả?
Giữa lúc hoàng cảnh bế tắc ấy. đức Phật xuất hiện như một mặt trời sáng rỡ buổi sớm mai làm mất đi những bóng tối của đêm đen dày đặc, đang che phủ cuộc đời. Ngài là cứu tinh không chỉ dành riêng cho xứ Ấn Ðộ thời ấy, mà là của nhân loại chúng sinh. Thật vậy đức Phật ngày đầu tiên xướng thuyết Nhân Bản, lấy Con Người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vất đề bế tắc của thời đại cả về nhân giới, tâm giới và siêu giới. Giáo lý của đạo phật là Như Thật (chân lý), là ánh sáng của trí tuệ và là niềm tin cho con người, ở bất cứ thời gian, hoàn cảnh và nơi đâu...