Câu chuyện Trí Thức

  • Thread starter Thread starter liti
  • Ngày gửi Ngày gửi

liti

New member
Trí thức luôn là câu chuyện thời sự, chẳng phải bây giờ người ta mới sôi nổi luận bàn mà đây là chủ đề xuyên thời gian. Thì các cụ ta xưa chẳng luôn bận tâm răn dạy con cháu “nhân bất học bất tri lý” đó sao. Có phải vì thế mà trong thang bậc giá trị xã hội, các cụ để kẻ sĩ đứng đầu. Nguyễn Công Trứ thì còn hào hùng hơn, trong “Luận kẻ sĩ”, ông khẳng định “Có giang san thời sĩ đã có tên”.

Tác giả của “Luận kẻ sĩ” ấy từng là bậc kinh bang tế thế, một danh tướng cầm quân dẹp cường khấu ở Lạng Sơn, bắt Phiên tặc ở thành Trấn Tây, trừ Hải tặc ở ngoài Đông Hải … đồng thời cũng là người chỉ huy công cuộc lấn biển mở đất ở Kim Sơn Tiền Hải, đắp đê ngăn mặn ở Hải Dương vùng châu thổ Sông Hồng, rồi khơi dòng Mê kông ở Long Xuyên vùng đồng bằng sông Cửu Long…Cũng là một người “lầy chính đạo” để chống tham nhũng ngay giữa triều đình. Quả thật đúng như ông tâm nguyện “Trong lăng miếu ra tài lương đống, Ngoài biên thùy rạch mũi can tương”.Về thơ văn, con người ấy cũng chiếm riêng một góc độc đáo trong lịch sử văn hóa nước nhà.

Với tám mươi tuổi đời, tuyên ngôn của ông “Trong vũ trụ đã đành phận sự, Phải có danh mà đối với núi sông” đã được sự nghiệp của ông chứng minh. Đương nhiên phải hiều chữ “danh” ông nói đây theo nghĩa rộng, vượt khỏi “vòng danh lợi” hạn hẹp và có khi thấp kém, mà “danh” là sự nghiệp làm nên sử sách, là sự cống hiến cho giang sơn tổ quốc. Cái “danh” ấy được khởi nguồn từ một ý tưởng cao cả : “Vũ trụ chi gian giai phận sự”, xem việc trong trời đất là phận sự của mình.

Ý tưởng của “kẻ sĩ” Việt Nam thế kỷ XIX bắt gặp quan điểm của J.P Sartre, triết gia người Pháp thế kỷ XX : “trí thức là người làm những việc chẳng ăn nhập gì đến họ, (s’occupe de ce qui ne le regarde pas). Kỹ sư thì không lo xây cầu, thầy thuốc thì không lo khám bệnh, kinh tế gia thì không lo cộng trừ nhân chia với cái thống kê. Tại sao họ lại xớ rớ vào những chuyện không liên quan gì đến họ vậy, tại vì họ cho đó chính là chuyện của họ. Chuyện không phải là của họ mà họ thấy là của họ. Cái thấy đó làm họ trở thành trí thức. * Phải chăng đây cũng là một cách diễn đạt cái ý vũ trụ chi gian giai phận sự?

Thật ra thì có nhiều cách diễn đạt sứ mệnh của người trí thức đích thực, chăng hạn như cách nhà dịch giả trí thức Cao Xuân Hạo đòi hỏi “mỗi người trong chúng ta phải có đủ nhiệt huyết để dám tự thiêu hủy trong đấu tranh thì Chân mới thắng được Ngụy, Thiện mới thắng được Ác” cũng là một cách nói đến một phẩm tính nổi bất của người trí thức. Từ nhận thức đó mà ông yêu cầu phải sửa lại cách dịch câu thơ của Nadim Hikmet cho đúng với tinh thần của nó :

Nếu tôi không cháy lên
Nếu anh không cháy lên
Thì làm sao
Bóng tối
Có thể trở thành
Ánh sáng?


Ánh sáng trí tuệ từ khối óc và trái tim của người trí thức chân chính, nói như Sartre, “người ý thức được sự xung đột xảy ra trong lòng họ và trong lòng xã hội”*, sẽ góp phần xua tan bóng tối đè nặng lên cuộc sống, góp phần vực con người đứng dậy, đi về phía trước. Chính vì thế có người nhấn mạnh rằng, trí thức là người truyền bá tư tưởng, Tư tưởng đó có thể là của chính họ, hay là các ý tưởng của những người khác mà họ tâm đắc, coi là của chính mình. Phải truyền bá tư tưởng vì tư tưởng một khi thâm nhập vào quần chúng sẽ trở thành sức mạnh vật chất.

Cho nên, một người có bằng cấp cao chưa hẳn đã là một trí thức nếu ông ta không gắn kết công việc chuyên môn của ông với vận mệnh của đất nước, ông không quan tâm gì đến số phận của nhân dân mình mà chỉ biết có sự nghiệp riêng mình, chăm chút riêng cho tổ ấm gia đình mình. Lại không thiếu những người “thức thời” song chán nản trước thời cuộc, “mũ ni che tai”, thì cũng không phải là người trí thức theo nghĩa chân chính của nó. Chính vì vậy, dựa vào ý của C.Mác, người ta đã đưa ra một cách định nghĩa khác về người trí thức : “trí thức là người nói sự thật, phê bình không nhân nhượng về những gì đang hiện hữu. Không nhân nhượng với nghĩa rằng họ không lùi bước trước kết luận của chính mình, hoặc trước xung đột với quyền lực, bất cứ quyền lực nào”.

Hình như trong Dự thảo ban đầu đưa ra để lấy ý kiến về trí thức có đặt câu hỏi : liệu Cụ Hồ Chí Minh, ông Lê Duẩn, ông Võ Văn Kiệt …có là trí thức hay không? Theo cách hiểu này họ là trí thức, là các trí thức lớn. Còn hiểu theo dự thảo của đề án thì họ không là trí thức, vì họ chẳng có “bằng cấp” nào cả hay không được đào tạo theo các trường lớp “chính quy” nào cả. Cái cách “duy danh định nghĩa” căn cứ vào bằng cấp theo lối “chuẩn hóa” cán bộ đã phải trả giá cho việc mua bằng, bán điểm để đẻ ra hàng loạt những trí thức rởm, những “tiến sĩ giấy” làm rối loạn hệ thống giá trị xã hội.

Chạy theo cái giả, khước từ cái thật, căn bệnh nguy hiểm này khởi nguồn từ nhiều nguyên nhân phức tạp khác mà trong phạm vi bài viết về câu chuyện trí thức khó để nói kỹ. Đã là “trí thức rởm”, “tiến sĩ giấy” mà lại được trọng dụng thì hệ lụy của nó sẽ khó mà lường hết được. Mua phải hàng giả thì tốn tiền, song có thể nhanh chóng phát hiện và vứt bỏ, ăn phải của giả thì nguy hiểm hơn một chút nhưng rồi có thể tìm cách mà tẩy độc. Nhưng dùng trí thức rởm, tiến sĩ đi mua hay do “chạy” mà có thì nguy hại phải nhân lên cấp số nhân! Chẳng những thế, khi vướng phải tình huống “nhả chẳng ra cho, nuốt chẳng vào” trót đã đặt họ vào những ghế theo một “quy trình chặt chẽ”, thì muốn chuyển họ ra khỏi cái ghế ấy thì “quy trình” cũng lại phải chặt chẽ không kém. Mà đáng lo ngại còn ở chỗ, của giả lại dê kiếm, trí thức thật lại khó tìm. Vì, người trí thức đích thực lại không chịu “bán rao”!

Phải chăng vì thế, tuy biết rất rõ sự nghiệp phát triển đất nước rất cần trí thức, song không ít những người cầm quyền thiếu bản lĩnh đã không dám hoặc không thích dùng những trí thức, “người nói sự thật và phê bình không nhân nhượng” ấy. Vì vậy, trong việc “xây dựng cơ chế, chính sách mới nhằm phát huy có hiệu quả tiềm năng của đội ngũ trí thức hiện có, vừa xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ trí thức đến năm 2020” mà Hội nghị TƯ kỳ này bàn thảo, cần lưu ý đến vấn đề xây dựng bản lĩnh cần thiết để mạnh dạn sử dụng và phát huy tiềm lực trí thức, trong đó, có việc dám lắng nghe và biết lắng nghe những ý kiến đóng góp tâm huyết và trung thực của những trí thức chân chính.

Những ý kiến trung thực sở dĩ được xem là tâm huyết của người trí thức chân chính, vì đó là những ý kiến xuất phát từ động cơ không vụ lợi, không vụ danh mà chỉ vì muốn đóng góp vào sự nghiệp chung của đất nước, xem việc đóng góp đó là sứ mệnh của người trí thức xem “Vũ trụ chi gian giai phận sự, Nam nhi đáo thử vị hào hùng” việc trong trời đất là phận sự của mình, làm trai đến thế mới tài giỏi như “luận về kẻ sĩ” đã chỉ ra. Đương nhiên “nữ nhi” cũng phải thế!

Chính vì thiếu một bản lĩnh cần thiết để mạnh dạn sử dụng và phát huy tiềm lực trí thức, trong đó, có việc không dám lắng nghe và không biết lắng nghe những ý kiến đóng góp tâm huyết và trung thực của những trí thức chân chính cho nên đã hạn chế rất lớn sự đóng góp của trí thức.

Ấy thế mà bản lĩnh ấy đã từng được phát huy lên đến đỉnh cao với tầm nhìn và phong cách của Hồ Chí Minh trong việc đánh giá vai trò của trí thức, hết sức trân trọng và tìm mọi cách sử dụng, phát huy tiềm năng của trí thức. Do đó, tri thức đã có sự đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng và kháng chiến. Cứ nhìn vào thành phần Chinh phủ Hồ Chí Minh năm 1946 cũng có thể hiểu được Hồ Chí Minh đã biết cách sử dụng và phát huy vai trò của trí thức như thế nào. Hoặc nhớ lại tên tuổi của những trí thức lớn từ bỏ cuộc sống giàu sang với triển vọng phát huy tài năng chuyên môn trong những môi trường thuận lợi ở nước ngoài để theo Bác Hồ về nước tham gia kháng chiến như Trần Đại Nghĩa, Trần Đức Thảo, Lê Văn Thiêm, Đặng Văn Ngữ…đã nói lên điều đó.

Trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh, những nhà lãnh đaọ chủ chốt của trung ương cục ở Miền Nam đã biết trân trọng đón nhận và tìm mọi cách phát huy tài năng, tâm huyết của các trí thức nhân sĩ rời bỏ mọi tiện nghi sang trọng của cuộc sống của lớp người giàu có, tham gia kháng chiến như Phạm Văn Bạch, Nguyễn Văn Hưởng, Phạm Ngọc Thuần, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo…Những trí thức ấy đã đóng một vai trò như thế nào trong kháng chiến thì lịch sử đã chứng minh.

Đáng tiếc là sau đó , nhất là từ sau “cải cách ruộng đất”, “chỉnh đốn tổ chức” với mô hình giáo điều, “tả” khuynh bị áp đặt từ bên ngoài, nống cuộc “đấu tranh giai cấp” lên, xa rời tư tưởng Hồ Chí Minh luôn khẳng đinh động lực to lớn và duy nhất của đất nước là chủ nghĩa dân tộc. (khái niệm chủ nghĩa ở đây cần hiểu là tinh thần). Lịch sử cách mạng và kháng chiến đã từng chứng tỏ : lúc nào xác định rõ được động lực dân tộc, lúc ấy cách mạng thắng lợi. Lúc nào đưa vấn đề đấu tranh giai cấp làm động lực, lúc ấy cách mạng gặp khó khăn. Từ những năm 20 của thế kỷ này, khi khẳng định “ chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn nhất của đất nước”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng phân tích “ cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương tây… nếu nông dân chỉ sống bằng cái tối thiểu cần thiết thì đời sống của địa chủ cũng chẳng có gì là xa hoa…. Người thì nhẫn nhục chịu số phận của mình, kẻ thì vừa phải trong sự tham lam của mình. Sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu. Điều đó không thể chối cãi được”.

Đó là một sự thật lịch sử rõ như ban ngày, thế nhưng do nhiều lý do, sự thật ấy không được trình bày một cách minh bạch, công khai và sòng phẳng. Điều này có ý nghĩa tác động trực tiếp đối với việc nhìn nhận và đánh giá vai trò của trí thức trong sự nghiệp cách mạng, đặc biệt là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Cách nhìn thiển cận về lý lịch, thành phần đã đẩy tới những sai lầm nguy hiểm trong việc sử dụng và phát huy năng lực của trí thức. Đấy là chưa nói đến việc nhục mạ trí thức, đối xử bất công với trí thức, trong đó có những trí thức lớn như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Lê Văn Thiêm, Đào Duy Anh…

Đãi ngộ trí thức cũng là điều cần, vì xét đến cùng, sự đãi ngộ đó là vì lợi ích của đât nước, lợi ích của nhân dân, vì sự “đãi ngộ” xứng đáng là một cách tỏ rõ thái độ trân trọng trí thưc của nhà cầm quyền, của xã hội, điều đó sẽ động viên người trí thức cống hiến hết sức mình. Tuy nhiên, với người trí thức chân chính thì sự “đãi ngộ” mà họ cần nhất là tạo một môi trường tự do suy nghĩ và sáng tạo, tạo điều kiện để trình bày những suy nghĩ đó, đê tranh luận nhằm đi đến chân lý, từ đó mà những ý tưởng đúng được thực hành, chân lý được sáng tỏ, góp được vào đường lối chính sách, đưa sự nghiệp phát triển đất nước đi tới. Nói cụ thê hơn, đó là tôn trọng sự độc lập tư duy, tự do trong suy nghĩ và tranh luận, dân chủ và công bằng trong thảo luận, cổ vũ cho sự tìm tòi sáng tạo mà không khuôn cứng vào những kêt luận đã có sẵn từ bên trên, nghiêm chỉnh thực hiện những điều luật đã được ghi trong Hiến pháp về tự do ngôn luận, xuất bản và báo chí.

Nhắc đến chuyện nhìn nhận và sử dụng trí thức, người ta thường dùng khái niệm “cầu hiền” và hay nhắc đến chuyện Lưu Bị cầu Khổng Minh. Cũng nên lưu ý một điều, trong bộ truyện “Tam quốc diễn nghĩa”, đoạn “Lưu Huyền Đức tam cố thảo lư” là một trong những đoạn được người đời cho là hay nhất. Mà hay nhất là vì trước đó, có đoạn “Tào Tháo luận anh hùng”. Khi Tháo nói rằng, “Anh hùng là người trong bụng có chí lớn, có mưu cao, có tài bao trùm cả vũ trụ, có chí nuốt cà trời đất” để kết luận rằng “Anh hùng thiên hạ bây giờ chỉ có sứ quân và Tháo mà thôi”, nghe vậy Lưu Bị sợ mất vía, đánh rơi cả thìa đũa đang cầm trên tay. Sợ mất vía, vì như vậy cũng có nghĩa là Tào Tháo sẽ phải giết mình theo cái lẽ “bất độc, bất anh hùng”, anh hùng thì chỉ có một và chỉ một mà thôi. Trong cuộc tranh bá đồ vương, người tài đi tìm được minh chủ quả thật là khó. Cũng chính vì thế, các bậc danh sĩ trong thiên hạ thường tìm cách ẩn mình để nghe ngóng, chờ thời, chờ người. Muốn cầu người hiền, Lưu Bị phải ba lần gội tuyết, đội gió đến lều cỏ của Khổng Minh để cầu hiền là vì thế.

Mà đâu chỉ một Khổng Minh. Chỉ riêng trên đất Dĩnh, nơi Khổng Minh ở ẩn, cũng đã có đến bốn người tài, trong đó có Từ Thứ, đấy là chưa nói đến Tư Mã Huy, người đã giảng giải cho Lưu Bị nhiều điều về cái lẽ hiền tài nơi đất Dĩnh ấy, và khi ra khỏi cửa đã ngẩng mặt lên trời mà than rằng : “Ngọa Long tuy gặp chủ, nhưng không gặp thời, tiếc lắm thay!”. Thật có lý khi người đời cho rằng Tư Mã Huy mới đích thực là một cao danh ẩn tích, đã quá thấu hiểu chữ “thời” nên không chịu dấn thân. Vì nhiều hiền tài không chịu dấn thân, nên người thật sự muốn gây nghiệp lớn phải khổ công tìm kiếm và thật tâm cộng tác.

Không phải mượn đến chuyện cổ bên Tàu, ở ta cũng không thiếu. Lê Thái Tổ, sau mười năm nằm gai nếm mật để lấy lại giang sơn lên ngôi đại định, liền ban chiếu cầu hiền. Chiếu có đoạn : “Nay trẫm gánh vác trách nhiệm nặng nề, sớm khuya kính cẩn lo sợ, như đứng bờ vực thẳm, chỉ vì chưa tìm kiếm được người hiền tài giúp đỡ trị nước…Nhân tài ở đời cố nhiên là không ít, nên đường lối tìm người tài không chỉ có một phương. Nếu có ai ôm ấp tài lược kinh bang tế thế, nhưng phải chịu khuất ở hàng quan thấp, không có người tiến cử cho, cùng là những hào kiệt bị vùi dập ở bụi bờ, hay lẫn lộn trong quân ngũ, nếu không tự đề đạt thì trẫm làm sao biết được?...Khi chiếu này ban ra, các quan hãy đem hết lòng thành, lo việc tiến cử. Còn như kẻ hàn vi ở chốn hương thôn, cũng chớ cho thế là phải đem ngọc bán rao mà hổ thẹn, để trẫm phải thở than vì thiếu nhân tài”.

Phải tầm cỡ văn tài và đức độ của Nguyễn Trãi mới soạn nổi tờ chiếu đó. Dự phòng phải tránh chuyện “đem ngọc bán rao” là để chạm được đến chỗ sâu kín trong tâm lý tự trọng của “kẻ sĩ” phải là sự uyên bác của nhà văn hóa lớn đi liền với sự trải nghiệm sâu sắc của nhà chính trị lớn. Hiểu được điều đó, có được đức độ đó cho nên, ngay khi chính quyền cách mạng còn trong trứng nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thiết tha kêu gọi : “trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bậc tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận”. Phải có cái tâm vì nước vì dân và cái tầm nhìn của người lãnh đạo biết rõ ngọn nguồn sức mạnh của mình được dồn góp và chưng cât từ trí tuệ và khát vọng của quần chúng nhân dân mới dám nhận lấy cái lỗi nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bậc tài đức không thể xuất thân.

Xưa nay kẻ sĩ có thực tài và biết tự trọng thường chọn cách ứng xử “dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng” (được dùng thì ra làm việc, không được dùng thì lui về) thể hiện một quan niệm sống, một thái độ sống. Quyết định chuyện “xuất” và “xử” của “kẻ sĩ” gắn liền với thời cuộc, “thiên hạ hữu đạo tắc hiện, thiên hạ vô đạo tắc ẩn”, có đạo thì ra, vô đạo thì ẩn. Bởi lẽ “gặp lúc nước hữu đạo mà nghèo và hèn là đáng thẹn, gặp lúc nước vô đạo mà giàu sang là đáng thẹn”. Hữu đạo và vô đạo nói ở đây có nội hàm khá rộng.

Song trực tiếp nhất và cập nhật trong bối cảnh “hiện đại”, chính là cái tâm của người lãnh đạo có thật lòng trọng dụng hiền tài, trọng dụng trí thức không. Vả chăng, “đường lối tìm người tài không chỉ có một phương”. Sức nam châm có lực hút hiền tài, trí thức là độ rộng mở của dân chủ và công khai trong việc tao ra môi trường để cho những tài năng thật sự có thể phát huy trong sự nghiệp phát triển đất nước.

Khi độ rộng mở của dân chủ và công khai trong việc trọng dụng trí thức chưa đáp ứng dược đòi hỏi của cuộc sống, khi cái tâm của người lãnh đạo thật lòng trọng dụng hiền tài, trọng dụng trí thức chưa được thực tế chứng minh, thì mọi chủ trương chính sách đều chưa đi vào cuộc sống. Chỉ riêng một việc rất nhỏ, trong một cuộc tranh luận trên diễn đàn có sự hiện diện của một vị lãnh đạo, diễn giả lại thẳng thừng chất vấn mà không có “dạ thưa anh” đã khiến cho vị ấy phật lòng, thế rồi nghe đâu đã có nhận xét “tay này là cực đoan, quá khích lắm đây, hãy thận trọng”!

Vì thế, thật chí lý và đáng mừng khi người đứng đầu Chính phủ trong cuộc trao đổi trực tuyến với nhân dân đã khẳng định rằng “phải thật sự công tâm, khách quan và đặc biệt là phải thật sự dân chủ; vì không dân chủ, hay chỉ dân chủ hình thức thì không chọn được người tài”. Thật không dễ để thấy ra được : “Có cạnh tranh, có cơ chế thị trường thật sự thì mới xem xét được ai là người tài. Người tài không chỉ thể hiện ở bằng cấp hay ở lời nói, mà quan trọng là ở việc làm ” **. Nhận thức đó bắt gặp được sự vận động của thực tiễn.

Người trí thức đích thực, sẽ không là những nguời chạy theo những hư danh hay những “đãi ngộ” vật chất, mà là những người lấy việc tìm tòi nghiên cứu nhằm nâng cao sự hiểu biết về một chuyên ngành mình theo đuổi để cống hiến cho xã hội bằng những ứng dụng thực tế từ những tìm tòi nghiên cứu ấy. Dù không ngồi vào cái ghế quyền lực, họ cũng có thể sống được và sống có ích cho xã hội bằng cái vốn kiến thức chuyên môn của họ, vì thế họ có thể vận dụng cách ứng xử “dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng” xưa kia theo một phương thức mới, phù hợp với thời đại mới. Phải chăng cũng vì thế mà nhiều khi họ phải gánh chịu thân phận không mấy dễ chịu của người nói sự thật và phê bình không nhân nhượng!

Mà xem ra, chuyện này thì không có gì khó hiểu, xưa nay không thiếu những dẫn chứng tiêu biểu, cho dù thất nghiệt ngã : Nguyễn Trãi, bậc đại trí thức, từng ngậm ngùi đúc kết thân phận trí thức theo sự trải nghiệm của ông khi nhắc đến câu thơ của Tô Đông Pha : “Cổ kim thức tự đa ưu hoạn. Pha lão tằng vân ngã diệc vân”, người trí thức (người biết chữ) xưa nay vẫn nhiều hoạn nạn, ông già Tô Đông Pha đã nói vậy và ta cũng nghĩ vậy!

Nguyễn Công Trứ người mà “Kinh luân khởi tâm thượng, Binh giáp tàng hưng trung”, cách sắp xếp việc nước đã định sẵn trong lòng, Đồ binh giáp để đánh giặc (tức là tri thức quân sự) đã định sẵn trong bụng ấy cũng là người đã năm lần bị cách chức, giáng chức, trong đó có lần bị án “trảm giam hậu”, có lần cách tuột làm lính trơn đày đi xa. Về hưu lúc bảy mươi tuổi với hai bàn tay trắng, trước khi chết, cụ để lại di chúc từ chối mọi nghi lễ chính sách của triều đình, dặn chôn ngay tại huyệt đã đào sẵn dưới chõng tre, rồi trồng bên mộ một cây thông với lời bi phẫn : “Kiếp sau xin chớ làm người; Làm cây thông dứng giữa trời mà reo”.

Đành rằng vào thời buổi ấy những bậc đại trí thức kiểu Nguyễn Công trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Trãi, Chu Văn An…đều có thể lấy triết lý Lão Trang để di dưỡng phẩm tính làm người : “ Ôi nhân sinh là thế ấy. Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao..”. Vang bóng một thời ấy chỉ là một hoài niệm có giá trị cảnh báo vì thời đại đã đổi thay. Nói giá trị cảnh báo, là cảnh báo cho một tầm nhìn hạn hẹp của những người nắm trong tay bộ máy quyền lực không biết tôn trọng trí thức, cũng là cảnh báo cho chính những người trí thức cần phải có bản lĩnh biết vượt lên mọi hoàn cảnh để đảm đương sứ mệnh cao quý của người trí thức chân chính.

Những tiền đề mới đã xuât hiện, điều mà ông cha ta trước đây chưa hề nhận biết. Người trí thức đích thực phải biết tận dụng những điều kiện mà thời đại mới đã tạo ra. Những ai chần chừ, còn tin rằng tương lai chỉ sẽ là sự tiếp tục đơn giản của quá khứ, sẽ sớm thấy mình bị hụt hẫng trước sự thay đổi. Họ sẽ bị buộc phải suy nghĩ lại : sẽ đi đến đâu và bằng cách nào đi đến đó, khi mà có lẽ đã quá muộn để tránh được điều không thể tránh khỏi.

Hướng đột phá quan trọng của khoa học thế kỷ XXI là những nghiên cứu khám phá về bộ não con người mà những thành tựu của nó tạo tiền đề cho xã hội loài người bước vào nền văn minh trí tuệ. Thế kỷ XXI là thế kỷ của sự khai thác những tiềm năng cực lớn của bộ não. Khi mà con người bắt đầu thổi hồn vào những vật vô tri vô giác gồm những thanh nhỏ của trí tuệ, liên kết chúng lại thành một sân chơi toàn cầu và nối kết trí tuệ của họ thành một hệ thống, thì cái gì sẽ xảy ra? Đây là sự kiện lớn nhất, phức tạp nhất và kỳ lạ nhất trên trái đất. Với việc đan dệt những sợi dây trí tuệ từ kính và sóng radio, loài người bắt đầu nối kết tất cả các khu vực, tất cả các quá trình, tất cả các khái niệm thành một hệ thống khổng lồ. Từ nền tảng mạng lưới trí tuệ phôi thai đó đã ra đời một nền tảng hợp tác mới cho nền văn minh mới. Trong đó, vai trò quyết định của người trí thức, bất chấp mọi thiển cận và hạn hẹp, sẽ được khẳng định. Điêu này gắn liền với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Câu chuyện trí thức chắc còn dài dài vì sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước là một sự nghiệp dài lâu, trong đó, trí thức có một vị trí không thể thay thế.

_________________
* Dẫn lại theo Cao Huy Thuần “Thế giới quanh ta”.NXB Đà Nẵng.2006, tr.61, 62
 
Sỹ phu, trí thức nước nhà xưa và nay

Không ai nâng cao được vai trò của trí thức nếu giới trí thức của chúng ta không tự khẳng định được mình! Không ai san sẻ trách nhiệm với trí thức được; chỉ có trí thức mới thi hành được thiên chức của mình; vinh quang và cay đắng gắn liền với thiên chức ấy cũng chỉ dành riêng cho giới trí thức mà thôi!
Trí thức, anh là ai?


Ở nước ta hiện nay có một số khá đông người được xã hội, hoặc tự mình, coi là trí thức. Nhưng “thế nào là một trí thức?” thì hình như chưa bao giờ được cắt nghĩa một cách rõ ràng.

Có thể đã có nhiều cá nhân trí thức, nhưng những con người đơn lẻ ấy đã quy tụ lại (chủ yếu là thông qua diễn đàn, dư luận) thành một giai tầng của xã hội như là tầng lớp trí thức chưa? Đặc điểm, tính cách của trí thức Việt Nam là gì? Vai trò và trách nhiệm của trí thức trước vận mệnh của dân tộc ta trong thời đại mới – thời đại kinh tế tri thức, thời đại hội nhập toàn cầu, là như thế nào?

Mỗi câu hỏi trên đây đều đặt ra một vấn đề thảo luận rất nghiêm túc và lý thú, có ý nghĩa quan trọng đối với việc huy động sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong quá trình đổi mới – hội nhập – phát triển. Để đi đến đồng thuận chắc cần phải có thời gian. Ở đây chúng tôi chỉ xin đặt vấn đề và gợi mở, mong các bạn đọc cùng chia sẻ.

Ai là trí thức? Đã từ lâu ở nước ta đã tồn tại một khái niệm đơn giản: Những người lao động trí óc là trí thức, chỉ cốt để phân biệt với những người lao động chân tay như công nhân và nông dân. Một quan niệm bớt đơn giản hơn một chút thì cho rằng hễ có trình độ học vấn từ cấp cao đẳng, đại học trở lên là trí thức.

Thật ra ngay từ khi từ “tầng lớp trí thức" (intelligentsia) xuất hiện lần đầu tiên ở Nga vào nửa đầu thế kỷ 19 [1], và sau đó là từ “người trí thức” (intellectuel) xuất hiện ở Pháp sau công xã Paris (1871) [2], đã mang một ý nghĩa khá rõ ràng: đó là những người không chỉ có học vấn hay trình độ chuyên môn cao, mà hơn hết phải là những người quan tâm và có chính kiến trước những vấn đề chính trị – xã hội nóng bỏng của thời cuộc.

Cũng trong tinh thần cách mạng ấy Karl Max đã coi trí thức là những người có đủ tri thức để quan tâm và có chính kiến riêng đối với các vấn đề của xã hội nên họ phải là những người: “phê bình không nhân nhượng những gì đang hiện hữu, không nhân nhượng với nghĩa rằng họ không lùi bước trước kết luận của chính quyền hoặc trước xung đột với chính quyền, bất cứ chính quyền nào”. [3]

Với những hiểu biết trên đây, chúng ta có thể suy ra rằng tầng lớp trí thức của xã hội có thiên chức sau: Tiếp thu và truyền bá tri thức hoặc/và văn hóa; Sáng tạo các giá trị mới của tri thức hoặc/và văn hóa; Đề xuất, phản biện một cách độc lập các chủ trương chính sách và biện pháp giải quyết các vấn đề của xã hội; Dự báo và định hướng dư luận xã hội.



Sỹ phu, trí thức nước nhà xưa và nay



Quan niệm về trí thức trên đây là phổ quát đến với các xã hội văn minh cận, hiện đại. Riêng ở nước ta, từ khi có lịch sử thành văn cho đến Cách mạng tháng 8 năm 1945, quan niệm này có lẽ chỉ thích hợp trong một giai đoạn phát triển ngắn ngủi, từ đầu đến giữa thế kỷ 20, khi xuất hiện tình huống giới trí thức mới (dùng chữ quốc ngữ) có cơ hội trở thành một tầng lớp xã hội khá độc lập với chính quyền về hoạt động nghề nghiệp và chính kiến. Ngoài giai đoạn này, chúng tôi e rằng chưa bao giờ ở nước ta thực sự có một tầng lớp trí thức như cách hiểu thông thường của thế giới.

Thường ở ta trí thức được gán một cách không đúng cho những người gọi là “có học”, chỉ xuất hiện ở xã hội Việt Nam ở buổi đầu công nguyên từ khi nhà Hán du nhập Nho giáo vào Việt Nam với mục đích giáo hóa và đào tạo quan lại bản xứ.

Sau khi giành được độc lập vào năm 939 các triều đại phong kiến ngày càng tôn sùng Nho giáo; và đến đời nhà Trần (thế kỷ 13) thì Nho giáo đã được coi là hệ tư tưởng chính thống cho đến hết các triều Nguyễn (đầu thế kỷ 20). Suốt gần một nghìn năm ấy chỉ có một thứ được dậy và được học (một cách có hệ thống) là Nho giáo (khác với sự chuyên biệt hạn hẹp của Phật giáo và Đạo giáo).

Các Nho sỹ sau khi đỗ đạt sẽ được bổ nhiệm làm các quan lớn, nhỏ trong hệ thống cai trị của Nhà nước phong kiến. Các Nho sỹ thi trượt thì trở lại làng quê vừa dạy “chữ thánh hiền” như một kế sinh nhai, vừa “dùi mài kinh sử” đợi kỳ thi sau, đợi được đi làm quan để “cả họ được nhờ”!

Cái cơ hội “đổi đời” dường như duy nhất ấy đã tạo ra, một mặt là cái mà chúng ta vẫn thường tự ca ngợi là truyền thống hiếu học của dân ta, mặt khác, quan trọng hơn đã tạo nên sự lệ thuộc đến nô dịch của những người “có học” vào Nhà nước phong kiến.

Và do đó, có thể nói rằng dưới các triều đại phong kiến ở nước ta chưa bao giờ tồn tại một tầng lớp trí thức theo cách hiểu đúng đắn của từ này. Các sĩ phu là những người “có học” có danh tiếng của các thời đại phong kiến, do vậy hầu hết cũng chỉ là các “quan văn” mang sứ mệnh “phò chính thống” mà thôi - họ không hẳn là người trí thức, hoặc tầng lớp trí thức.

Đến giữa thế kỷ 19 cùng với sự hèn yếu của Triều Nguyễn, sự xâm lược của thực dân Pháp và bước đầu tiếp cận với nền văn minh công nghiệp phương tây, tầng lớp Nho sỹ ở nước ta đã phân hóa sâu sắc và xuất hiện những nhóm sỹ phu tiến bộ có đầu óc canh tân - tiền thân của nhóm trí thức đầu tiên của nước ta nửa đầu thế kỷ 20.

Những nhân vật điển hình có thể kể đến là Vũ Tông Phan (1800 - 1851, cùng với Hội Hướng thiện); Nguyễn Trường Tộ (1828 -1871); Nguyễn Lộ Trạch (1852 - 1895); Nguyễn Tư Giản (1823 - 1890); Phạm Phú Thứ (1820 - 1883)v.v...

Đấy chính là những sỹ phu có đầu óc canh tân đầu tiên trong lịch sử nước ta, đặt nền móng cho cuộc vận động giải phóng dân tộc vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, dù là theo đường lối bạo lực như các phong trào Cần vương (Phan Đình Phùng, 1844-1895), và Đông Du (Phan Bội Châu, 1867-1940); hay chủ trương tiến hành một cuộc cách mạng văn hóa - giáo dục như phong trào Duy Tân (Phan Châu Trinh, 1872-1920) và Đông kinh nghĩa thục (Lương Văn Can, 1854-1927).

Vào những năm đầu của thế kỷ 20, cùng với sự suy tàn của chế độ phong kiến và sự thiết lập chế độ thực dân cua Pháp trên cả nước, ảnh hưởng của tư tưởng Dân chủ tư sản và Khoa học - Kỹ thuật phương tây đã tràn vào xã hội Việt Nam thông qua Nhật Bản và Trung Hoa.

Trong bối cảnh đó phong trào Duy Tân và Đông Kinh nghĩa thục đã quy tụ được một tầng lớp sỹ phu - trí thức bao gồm các nho sỹ cách tân (Huỳnh Thúc Kháng, 1876-1947; Trần Quý Cáp, 1870-1908; Đào Nguyên Phổ, 1861-1907 v.v...), và các trí thức mới dùng quốc ngữ và tiếng Pháp (Phan Khôi,1887-1960; Nguyễn Văn Vĩnh,1882-1936; Phạm Quỳnh, 1892-1945,v.v...). Đây chính là tầng lớp trí thức đầu tiên của nước ta.

Hoàn cảnh lịch sử đã tạo ra cho một số người điều kiện có chỗ đứng khá độc lập với chính quyền, có thể sống bằng nghề lao động trí óc của mình chứ không nhất thiết phải ra “làm quan”, và tiếng nói của họ càng ngày càng có uy tín trong xã hội. Họ phần đông là những người hành nghề tự do như bác sỹ, kỹ sư, luật sư, thầy giáo, nhà báo, nhà văn, họa sỹ, nhạc sỹ và nghệ sỹ....

Những phần tử ưu tú trong số đó chính là tầng lớp trí thức mới, và nhiều người đã đóng vai trò nòng cốt trong các tổ chức văn hóa hoạt động công khai. Đó là các hội, chẳng hạn Trí Tri, Khai trí Tiến đức, Truyền bá Quốc ngữ và Tự lực Văn đoàn v.v...Là các báo hoặc tạp chí, chẳng hạn Đông Dương, Nam Phong, Tiếng Dân, Tri Tân, Thanh Nghị, Khoa học v.v...Hay các Nhà xuất bản, chẳng hạn Nam Kỳ, Tân Dân v.v...

Tình trạng này đã tiếp diễn cho đến năm 1945 khi cách mạng tháng 8 thành công. Sau đó là một thời kỳ phát triển đặc biệt của tầng lớp trí thức Việt Nam mà chắc là còn phải tốn nhiều thời gian và công sức để nghiên cứu một cách nghiêm túc và đánh giá một cách khách quan vị trí và vai trò của họ trong xã hội.

Ngày nay trong cụm từ “Liên minh Công – Nông – Trí” tôi ngờ rằng chúng ta đã dùng từ “trí” để chỉ những người lao động trí óc (kỹ sư, bác sỹ, nhà văn, họa sỹ, v.v.) chứ không phải là trí thức theo cách hiểu thông thường của thế giới hiện đại. Nước ta có hai tổ chức được coi (gần như mặc nhiên) là các hội của giới trí thức, đó là Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam và Liên hiệp các hội Văn học và Nghệ thuật Việt Nam.

Thật ra không hoàn toàn như vậy. Đó thực chất là các hội của những người thực hành chuyên môn của mình chủ yếu bằng trí óc. Trong số rất đông đó chỉ có một số là trí thức thực thụ mà thôi. “Một số” này đã quy tụ lại (chủ yếu là thông qua diễn đàn, dư luận) thành một tầng lớp trí thức với đúng nghĩa của nó hay chưa vẫn còn là một vấn đề cần được thảo luận.

Tuy nhiên tạm thời chúng ta có thể nhất trí với nhau rằng “một số” khá đông này là tầng lớp trí thức của nước ta. Tầng lớp này ngày càng rõ nét và mạnh dần lên cùng với quá trình đổi mới của Đất nước.

Đã là trí thức thì ở nước nào cũng vậy, thời đại nào cũng vậy, đều có tính cách chung là: Tôn thờ lý tưởng Chân – Thiện – Mỹ; Độc lập tư duy; Hoài nghi lành mạnh; và Tự do sáng tạo. Tuy nhiên mỗi dân tộc đều có tính cách riêng, tầng lớp trí thức của mỗi dân tộc cũng có bản sắc riêng.

Chúng ta thường nghe nói: trí thức Trung Hoa thâm thúy (thâm nho), trí thức Nhật khiêm tốn (đến khách khí), trí thức Nga sâu sắc đôn hậu, trí thức Mỹ thực dụng, trí thức Anh lạnh lùng tỉnh táo, trí thức Pháp hào hoa phong nhã, v.v. Vậy trí thức Việt Nam có đặc điểm gì? Tôi đã từng nghe ông K.G. nói đến tính cách “phò chính thống”; bà P.T.H. nói đến tính cách “quan văn”, tựu chung lại là tính “thích được chính quyền sử dụng”.

Có nhiều người nói là tính cách “tùy thời”, nghe có vẻ dễ chịu hơn chữ “cơ hội” hay là “hèn” mà một số bạn đồng nghiệp của chúng ta không ngại ngần khẳng định. Nguyên cớ gì mà phải “hèn”? Đã “hèn” làm sao có nhân cách? Thiếu nhân cách liệu có xứng đáng là trí thức? Nhiều ý kiến cho rằng bi kịch của giới trí thức Việt Nam chính là ở chỗ này! Nhưng như vậy có lẽ chưa được công bằng cho lắm!

Bởi lẽ, còn có một thực tế khác nữa cần phải xem xét. Đó là tính cách uyển chuyển, kết hợp “hành” và “tàng” của Sỹ phu – Trí thức nước nhà” [4] Điều kiện cho phép thì bung ra hoạt động; lúc khó khăn thì tạm ẩn dật chờ thời, có khi “tàng” ngay trong lòng cường quyền với tâm trạng “cấp lưu, dũng thoái” (trước giòng nước xiết, can đảm thoái lui).

Thế nhưng gianh giới giữa thái độ đúng đắn này với cái sự hèn thật là mong manh; chỉ “tự mình, mình biết cho mình” chứ khó lòng mà phán xét từ phía ngoài. Vậy thực sự trí thức Việt Nam có phẩm tính gì?

Ngày nay, khi đất nước ta đang bước sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiếp tục đổi mới toàn diện, hội nhập vào nền kinh tế tri thức toàn cầu thì vai trò và trách nhiệm của tầng lớp trí thức càng quan trọng và nặng nề hơn. Đổi mới càng sâu sắc và toàn diện càng đòi hỏi phải đổi mới tư duy triệt để; muốn vậy phải có tầm trí tuệ rất cao. Tầm trí tuệ cao ấy phải có sự can dự của tầng lớp trí thức ưu tú của dân tộc.

Toàn cầu hóa buộc chúng ta phải hội nhập một cách ngang tầm trong mọi lĩnh vực. Trí thức Việt Nam cũng phải phấn đấu để có thể ngang tầm với tầng lớp trí thức của các nước tiên tiến khác. Điều đó thật không dễ dàng nếu chúng ta thẳng thắn và dũng cảm nhìn vào thực trạng đội ngũ trí thức nước nhà. Không ai nâng cao được vai trò của trí thức nếu giới trí thức của chúng ta không tự khẳng định được mình! Không ai san sẻ trách nhiệm với trí thức được; chỉ có trí thức mới thi hành được thiên chức của mình; vinh quang và cay đắng gắn liền với thiên chức ấy cũng chỉ dành riêng cho giới trí thức mà thôi!


Đã đăng trên VietnamNet

-------------------
Ghi chú:
(1) Dimitri Likhachev, Phẩm tính trí thức, Bản dịch và chú thích của La Thành, Talawas 2007.
(2) Cao Huy Thuần, Thế giới quanh ta, Nhà xuất bản Đà Nẵng 2006, xem trích dẫn
(3) –nt-
(4) Vũ Thế Khôi, Hội Hướng thiện đền Ngọc Sơn – Một cội nguồn văn hóa xã hội sâu xa của phong trào Duy Tân và Đông Kinh nghĩa thục, Hội thảo về Đông Kinh nghĩa thục, Aix-en-Provence (Pháp) 2007.
 
Để có lớp trí thức xứng đáng

1. Vấn đề trí thức nói cho cùng là vấn đề giáo dục.
Khi góp ý kiến về chính sách trí thức cách đây không lâu tôi có đề nghị không nên đi sâu phân tich các yếu kém khuyết điểm của trí thức đang làm hạn chế sự đóng góp của họ vào công cuộc chấn hưng đất nước, mà nên suy nghĩ xem vì đâu dân tộc VN vốn thông minh không kém nhiều dân tộc khác, mà chí khí kiên cường càng không nhường ai, lại chưa có được một lớp trí thức xứng đáng ? Thời thế tạo anh hùng thì cũng thời thế, cơ chế tạo ra phẩm chất người trí thức. Nói rõ hơn là hoàn cảnh chính trị xã hội, là bản lĩnh, tài năng các nhà lãnh đạo quốc gia, và một phần chính yếu, là môi trường giáo dục đương thời.

Sau nhiều năm Phần Lan nổi lên với những thành thựu kinh tế, khoa học, công nghệ làm cả thế giới khâm phục, người ta phát hiện ra cái gốc của sự thịnh vượng ấy là giáo dục. Ba phần tư thế kỷ qua, nước Mỹ đã chiếm vị trí số một trên hầu hết mọi lĩnh vực khoa học, công nghệ then chốt. Nếu nói trí thức là nói tài năng thì không đâu tài năng nở rộ nhiều như ở Mỹ. Nhiều người chúng ta bất bình, phẫn nộ chính đáng với một sô chính sách nước lớn có khi quá tàn bạo của giới cầm quyền Mỹ, song vẫn chưa bao giờ hết ngưỡng mộ trí tuệ và tài năng của trí thức Mỹ mà những mầm mống thịnh vượng đã nẩy nở từ những đại học đầu tiên khi Mỹ mới lập quốc. Đọc thư của Tổng Thống Pháp gửi các nhà giáo Pháp, đọc bài diễn văn nhậm chức của bà Chủ Tịch ĐH Havard, càng thấy rõ vấn đề trí thức nói cho cùng là vấn đề giáo dục. Nước Pháp muốn khôi phục truyền thống văn hóa rạng rỡ của mình từ Thế kỷ Ánh Sáng, nước Mỹ muốn tiếp tục dẫn đầu trong thế kỷ văn minh trí tuệ, đều thấy cần dựa vào trụ cột giáo dục. Mà trong giáo dục thì quan trọng trước hết là tư duy cơ bản về giáo dục, tức là triết lý giáo dục, đương lối giáo dục.

2. Về triết lý giáo dục.
Nhìn lại lịch sử hình thành lớp trí thức VN qua các thế hệ, tôi vẫn băn khoăn một câu hỏi lớn: tại sao trong hơn 80 năm qua, hình như chưa có thế hệ trí thức nào vượt qua được về tài năng, trí tuệ và cả phẩm chất nhân cách, thế hệ trí thức những năm 30-45 thế kỷ trước – thời kỳ Tự Lực Văn Đoàn, trào lưu Thơ Mới, có các nhạc sĩ Văn Cao, Đặng Thê Phong, có các nhà khoa học, giáo dục hiện đại Đặng Thai Mai, Hoàng Xuân Hãn, Tạ Quang Bửu, Lê Văn Thiêm, Tôn Thất Tùng, Hồ Đắc Di, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Văn Huyên, Trần Đức Thảo, có những nhà hoạt động chính trị Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Phan Thanh, v.v. Hầu hết những trí thức này đều học trường Pháp ra, mà sao tinh thần dân tộc rất cao và năm 1945 tuyệt đại bộ phận họ đều đứng trong hàng ngũ cách mạng để chống lại thực dân Pháp. Điều đó tựa hồ mâu thuẫn với quan niệm phổ biến xưa nay là nhà trường thực dân chỉ cốt đào tạo ra những người làm tay sai cho thực dân.

Trong khi đó, các thế hệ trí thức được đào tạo sau này ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũ một cách bài bản, lớn lên trong nền giáo dục thấm nhuần lý tưởng xã hội chủ nghĩa cao đẹp, hàng ngày được gián tiếp hay trực tiếp bồi dưỡng tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu lao động, ghét bóc lột, xả thân vì dân vì nước, v.v.. mà sao có vẻ như phẩm chất không được như ta kỳ vọng. Dường như có cái gì không thật, có cái gì chưa ổn lắm, cho nên gặp hoàn cảnh không thuận lợi thì bộc lộ nhiều nhược điểm. Chúng ta có nhiều tiến sĩ, giáo sư và gần đây rộ lên cả mấy tá viện sĩ (chức danh này chưa có ở VN, nhưng nếu muốn trưng ra thì cả nước hiện nay cũng có thể trưng ra cả nghìn viện sĩ kiểu này chứ không it), rồi lại có cả những “bộ óc vĩ đại thế kỷ 21”, nhiều nhân vật trí thức xuất chúng đến nỗi đang có kế hoạch phải dành 25 hecta đất vào thời buổi đất quý hơn vàng, để xây một Văn Miếu hiện đại mới đủ chỗ vinh danh bấy nhiều bậc đại trí. Thế nhưng có ai dám chắc cái gia tài trí thức lớn ấy sau này sẽ được con cháu hoan nghênh khi đất nước đến hồi hưng thịnh ?

Đó là cái nghịch lý cần phân tích và lý giải khi bàn về giáo dục và đào tạo. Riêng tôi nghĩ rằng nền giáo dục, văn hóa Pháp mà thế hệ trí thức tiền bối 30-45 đã được hưởng thật sự là một nền giáo dục tiên tiến thời đó. Cái phần thực dân trong nền giáo dục ấy chỉ là cái vỏ ngoài do bọn thực dân áp đặt ở thuôc địa mà cũng chỉ có tác dụng rất hạn chế, còn cái phần nhân văn, cái phần văn hóa cơ bản, cái phần thật sự là tinh túy trong triết lý giáo dục của nó thời đó thì ai tiếp thu được đều tốt cho họ, cho đất nước họ, cho nhân dân họ, không cứ là cho người Pháp, cho nước Pháp. Có lẽ chính vì nhìn thấy điều ấy mà Phan Chu Trinh đã sáng suốt đề ra : hưng dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Giờ đây khi mà văn hóa, giáo dục đã lệch pha quá xa với kinh tế, đã đến lúc chúng ta phải suy nghĩ nghiêm túc vê đường lối, triết lý giáo dục, chứ không phải chỉ bàn chuyện nay “hai không”, mai “năm không”, v.v. Những việc này cũng cần làm để khởi động dạo đầu cho công cuộc cải cách, nhưng sa đà vào đó mà quên đi cái côt lõi sẽ có tác dụng ngược lại.

Không thể máy móc vơ đũa cả nắm, nhưng có một sự thật là dường như phần lớn những cán bộ được đào tạo ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây đều thiếu căn bản về văn hóa phổ quát. Tư duy của họ chỉ phát triển theo một đường ray mà hễ ai trật ra là nguy hiểm. Cho nên trừ những người ý thức được điều đó, còn số khá đông thường chỉ là những chuyên viên kỹ thuật được trang bị một số vốn kiến thức kỹ thuật, chuyên môn hẹp nào đó, ở thời đó, và cũng rất mau lạc hậu, nhưng thiếu một nhãn quan rộng, thiếu một tầm nhìn ra ngoài ngành nghề hẹp của mình, cho nên bị hạn chế ngay trong việc phát triển chuyên môn, và càng bị hạn chế đứng trước những vấn đề xã hội, văn hóa không thuộc phạm vi chuyên môn hẹp của mình. Hầu như mỗi người chỉ biết việc của mình, chỉ lo cho mình, it khả năng và cũng không thich thú hợp tác với bạn bè đồng nghiệp. Dễ bị lâm vào thế ếch ngồi đáy giếng, dễ mắc bệnh vĩ cuồng, không hòa nhập vào dòng chảy văn minh của thời đại, không chấp nhận luật chơi quốc tế, rồi ngày càng tụt hâu mà vẫn tự ru ngủ mình, tự đánh lừa mình, và đánh lừa nhân dân mình với những thành tich không có thật. Chạy theo danh hão, chạy theo quyền lực, chạy theo chức tước, là căn bệnh thời đại của trí thức VN. Chưa bao giờ trong xã hội ta có nhiều Xuân Tóc Đỏ như bây giờ. Tôi nói có vẻ bi quan, nhưng thà nhìn khắt khe môt chút để biết người biêt ta, còn hơn nhắm mắt chủ quan một cách lố bịch.

3. Những sai lầm làm tha hóa giáo dục.
Trở lại vấn đề giáo dục hiện nay của ta, điều tôi lo lằng nhất là sự tha hóa trầm trọng của nó. Nói khủng hoảng nhưng nét chính của khủng hoảng ấy là sự tha hóa, biến chất. Giáo dục có nguy cơ trở thành phản giáo dục. Có nhiều nguyên nhân nhưng trực tiếp làm tha hóa giáo dục có ba sai lầm lớn có thể gọi là sai lầm hệ thống trong quản lý giáo dục.

Sai lầm đầu tiên tai hại nhất là chính sách đối với người thầy dựa trên quan niệm lệch lạc về sứ mạng và vai trò người thầy trong nền giáo dục hiện đại. Phê phán tư duy lạc hậu trong nhà trường cũ gán cho thầy quyền uy tuyệt đối, biến giáo dục thành quá trình truyền đạt và tiếp thu hoàn toàn thụ động, là đúng.. Nhưng từ đó đã xuất hiện tư duy cực đoan ngược lại, phủ nhận vai trò then chốt của thầy đối với chất lượng giáo dục. Với cách hiểu giáo dục thô sơ nặng về cảm tính, khi thì nhấn mạnh một chiều “học sinh là trung tâm”, khi khác tôn chương trình, sách giáo khoa lên địa vị “linh hồn giáo dục”, nhận định chất lượng đại học thấp “không phải do thầy mà do chương trình”, v.v. dẫn đến hoàn toàn xem thường việc xây dựng đội ngũ thầy giáo theo chuẩn mực chuyên môn và đạo đức hiện đại. Trong mọi khâu từ đào tạo, tuyển chọn đến sử dụng và bồi dưỡng người thầy, khâu nào cũng phạm sai lầm lớn. Đặc biệt tệ hại là chính sách lương. Ngay từ đầu đã bỏ qua kinh nghiệm muôn thuở “có thực mới vực được đạo”, trả lương cho thầy cô giáo dưới mức sống hợp lý, lấy cớ ngân sách eo hẹp (thật ra chỉ là do tham nhũng và sử dụng ngân sách không hợp lý), bỏ mặc các thầy cô “tự cứu” kiếm thêm thu nhập bằng mọi cách (dạy thêm, làm thêm, đến nỗi không hiếm giảng viên đại học dạy sô trên 30 giờ/tuần). Có thê nói không quá đáng tất cả những căn bệnh trầm trọng: gian dối, tiêu cực, dối trá, lãng phí, quan liêu… hiện đã đi vào xương tủy của giáo dục mà không một phong trào “nói không” nào có thể chữa trị được đều có nguồn gốc sâu xa liên quan tới cái lỗi hệ thống cơ bản này.

Sai lầm thứ hai là tập trung tất cả việc dạy và học vào thi cử, nói rõ hơn là thay vì thi, kiểm tra thường xuyên nghiêm túc từng học phần để bảo đảm kết quả học tập vững chắc và thực chất thì dồn hết cố gắng vào các kỳ thi tốt nghiệp, thi “quốc gia” nặng nề, căng thẳng, rất hình thức mà thiếu nghiêm túc, sinh ra hội chứng thi rất đặc biệt của giáo dục VN: gần thi mới lo học, học đối phó, học nhồi nhét chỉ cốt để thi, thi cái gì học cái nấy, thi thế nào học thế ấy, chủ yếu là học thuộc lòng các loại bài mẫu, các đáp án mẫu. Trước đây thi theo bộ đề thi cho sẵn, nay bộ đề thi biến tướng thành các bảng “cấu trúc đề thi”. Nghĩa là tư duy có thay đổi gì đâu, sau hai mươi năm trời tốn bao công nghiên cứu (có cả một cục khảo thí chuyên lo chuyện này !), cuối cùng gần như quay trở lại điểm xuất phát. Tệ hơn, tổ chức thi ngày càng rắc rối, phức tạp, tiềm ẩn nhiều bất công mới (kỳ thi THPT 2009 thí sinh sẽ phân thành it nhất bảy nhóm, với những đề thi khác nhau !). Mặc cho sự can ngăn của nhiều người, hình thức thi trắc nghiệm vẫn được áp dụng vào một số môn thi tốt nghiệp THPT, rồi giữa lúc thầy giáo và học sinh đang vất vả học làm quen với hình thức thi này thì đùng một cái cấm dùng hình thức trắc nghiệm vào thi học kỳ. Không hiểu giáo dục là cái gì mà quản lý có thể tùy hứng như thế. Đem buộc việc học vào việc thi, rồi tổ chức thi thay đổi xoành xoạch, biến thi chứ không phải học trở thành hoạt động giáo dục chủ yếu. Có thể nói không ngoa cứ mỗi mùa thi là cả xã hội đi thi với con em mình. Từ đó đẻ ra những dich vụ kỳ lạ hiếm thấy: kỹ nghệ “phao” thi, thi thuê, viết luận án thuê, làm bằng giả, bằng thật nhưng học giả, v.v. Chưa kể nếu tính hết mọi khoản chi trực tiếp và gián tiếp phục vụ cho các kỳ thi thì lãng phí lên tới con số khủng khiếp, bình thường đã khó chấp nhận, với tình hình kinh tế suy giảm càng khó chấp nhận hơn. Cho nên chừng nào còn học và thi kiểu nầy thì xã hội sẽ còn phải trả giá nặng nề cho sự tụt hậu của giáo dục. Nhiều nước như Trung Quốc hay Hàn Quốc, thi còn nhẹ nhàng hơn ta mà họ đã phê phán cái “địa ngục thi cử” của họ, còn thi cử như ta không biết phải gọi là cái địa ngục gì.

Sai lầm thứ ba là chạy theo số lượng, hy sinh chất lượng, bất chấp mọi chuẩn mực, thông lệ và kinh nghiệm quốc tế, khiến việc hội nhập khó khăn và không cạnh tranh nổi ngay với các nước trong khu vực. Đây chính là bệnh thành tích, chứ không là gì khác. Phát triển số lượng thì dễ, nhất là khi người dân khao khát học tập như trong xã hội ta. Chỉ đảm bảo chất lượng mới khó, vậy nên cứ chọn cái dễ mà làm, dễ gây ấn tượng, dễ báo cáo thành tich. Trên đã vậy thì làm sao chống được bệnh thành tích ở dưới. Trong khi chất lượng rớt thê thảm mà có người còn muốn làm quân sư bênh vực bệnh thành tích, viện lẽ chỉ nhấn mạnh chất lượng lúc này là xa xỉ (!), thì không biết theo hướng phát triển đó giáo dục và khoa học sẽ thoái hóa đên chừng nào. Nguy hại nhất là căn bệnh này đã đẻ ra hàng nghìn tiến sĩ giấy, hàng trăm GS, PGS hữu danh vô thực, dần dần xóa nhòa ranh giới giữa thật và giả, giữa người có thực tài với kẻ bất tài, tạo điều kiện cho loại sau dần dần chiếm các vị trí then chốt trong các cơ quan quyền lực ở mọi ngành. Trong thời đại toàn cầu hóa, muốn hội nhập quốc tế mà không hiểu biết và tôn trọng luật chơi, trước hết là các quy tắc, chuẩn mực, thông lệ quốc tế, thì thất bại là chắc chắn. Thế nhưng từ các chuẩn mực thông thường nhất về cơ sở vật chất, đội ngũ giảng dạy, cho đến tuyển sinh thạc sĩ, tiến sĩ, đánh giá công trinh nghiên cứu khoa hoc, đánh giá GS, PGS, đánh giá các đại học v.v. phần lớn đều không theo những chuẩn mực quốc tế mà dựa vào những tiêu chí tự sáng tác, nặng về cảm tính thô sơ, rất thấp và rất khác so với quốc tế. Trong tình hình những cơ quan quản lý chất lượng then chốt đều thiếu chuyên nghiệp mà lại ồ ạt lao vào việc kiểm định thì liệu kết quả kiểm định có ích gì, không khéo chỉ là một việc hình thức nhưng ngốn một khoản ngân sách không nhỏ. Còn nhớ có lần Thụy điển làm một cuộc kiểm định về khoa học đã phải bỏ tiền mời các chuyên gia ngoại quốc, mà trình độ họ đâu có kém ai, còn Pháp hơn hai mươi năm về trước khi kiểm định đại học đã thành lập cả một ủy ban quốc gia gồm những nhà khoa học hàng đầu của các ngành, đủ thấy không thể coi thường việc này. Không phải điều gì Mỹ làm được thì ta cũng phải làm y như họ. Sự thiếu hiểu biết và coi thường các chuẩn mực quốc tế còn thể hiện trong nhiều chủ trương khác, từ việc xây dựng đại học đẳng cấp quốc tế đến mục tiêu năm 2020 lọt vào top 200 trên thế giới (có vị còn nôn nóng muốn đạt mục tiêu ấy trước 2020 !). “Điếc không sợ súng” đó là căn bệnh cố hữu của ngành giáo dục, xưa nay vẫn đồng hành với bệnh thành tích.

Tất cả các sai lầm hệ thống nêu trên khiến giáo dục dần dần biến chất, xuống cấp, xa rời tất cả những giá trị cao quý còn sót lại từ quá khứ. Xu hướng tha hóa ấy nếu cứ phát triển sẽ có nguy cơ dẫn đến những quái thai giáo dục, trường chẳng ra trường, thầy chẳng ra thầy, đến lúc ấy sự sụp đổ hoàn toàn khó có thể cứu vãn.

Đã trích đăng trên Tia Sáng
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top