Câu cá mùa thu

ngan trang

New member
Ngày soạn: 09 tháng 9 năm 2007
Tuần 02 (Từ tiết 05 đến tiết 08)
Tiết 05
CÂU CÁ MÙA THU
(THU ĐIẾU)
Nguyễn Khuyến

A.MỤC TIÊU BÀI HỌC
Hướng dẫn học sinh cảm nhận được vẻ đẹp của cảnh sắc mùa thu và tâm hồn thanh tao của nhân vật trữ tình. Thấy được sự tinh tế tài hoa trong cách miêu tả cảnh thiên nhiên, cách bộc lộ tâm trạng của tác giả.

B.PHƯƠNG TIỆN THỰC HIỆN
-Sách GK, sách GV
-Thơ Nguyễn Khuyến
-Giáo án lên lớp cá nhân

C.CÁCH THỨC TIẾN HÀNH
Giáo viên tổ chức giờ dạy theo cách kết hợp các phương pháp: hướng dẫn học sinh đọc, trao đổi thảo luận, trả lời các câu hỏi.

D.TIẾN TRÌNH LÊN LỚP
1.KIỂM TRA BÀI CŨ:
Đọc diễn cảm bài thơ Tự tình (bài số 2)
2.GIỚI THIỆU BÀI MỚI:


HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS
YÊU CẦU CẦN ĐẠT

I.TÌM HIỂU CHUNG
1.TIỂU DẪN
Hs đọc Sgk
Chỉ ra nội dung chính của phần tiểu dẫn ?
+Chùm thơ thu của Nguyễn khuyến gồm ba bài: Thu điếu, thu ẩm và thu vịnh.
+Cả ba bài thơ đều thể hiện được những sắc thái riêng của mùa thu ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.

Hs đọc Sgk và nêu được các ý
sau đây:
2.VĂN BẢN
v Vị trí và đề tài:
Chùm thơ thu đều viết về đề tài mùa thu.
Mùa thu là đề tài quen thuộc của thi ca phương Đông (Đỗ Phủ có tám bài...)

Theo em? chùm thơ thu được tác giả viếtvào thời điểm nào?
v Hoàn cảnh sáng tác:
Chùm thơ thu được sáng tác khi Nguyễn Khuyến đã cáo quan, về ẩn tại quê nhà.
Căn cứ vào các ý thơ:
“Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” (Thu vịnh)
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được” (Thu điếu)
“Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe” (Thu ẩm)
Nêu bố cục bài thơ?
vBỐ CỤC
+Cách 1: Bố cục truyền thống (4 phần)
+Cách 2: Ba phần 2-4-2
Hai câu đầu:giới thiệu cảnh câu cá mùa thu
Bốn câu tiếp: Cảnh thu ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.
Hai câu cuối: Tâm sự của tác giả.

Xác định chủ đề của bài thơ?
vCHỦ ĐỀ:
Bài thơ miêu tả cảnh thu ở đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời bộc lộ tâm sự kín đáo của tác giả trước thời cuộc.

II.ĐỌC-HIỂU VĂN BẢN.
1.CẢNH THU
Xác định điểm nhìn miêu tả cảnh thu của tác giả?
+Điểm nhìn:
Từ ao thu lạnh lẽo, nhà thơ quan sát và ghi lại cảnh thu.
Cảnh thu được miêu tả bằng những chi tiết nào?
+Cảnh thu:
-Sóng biếc gợn rất nhẹ
-Một chiếc lá vàng rụng theo gió khẽ khàng
-Trời thu xanh, cao, mây lơ lửng.
-Các lối đi vào làng tre mọc xanh tốt
Gam màu chủ đạo của cảnh thu trong bài thơ?
+Sắc màu:
Màu xanh của sóng -> sóng biếc
Màu xanh của tre -> ngõ trúc quanh co
Màu xanh của trời -> trời xanh ngắt
Có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá
rụng, khẽ đưa vèo theo chiều gió.
Âm thanh của cảnh thu?
+Âm thanh:
Tĩnh lặng: gió khẽ khàng thổi nên sóng biếc gợn tí, lá khẽ đưa vèo, khách vắng teo...

Tâm trạng của tác giả được thể hiện đằng sau bức tranh mùa thu ấy như thế nào?
2.TÌNH THU
+Tình cảm thiết tha, gắn bó với quê hương làng cảnh Việt Nam
+Một tấm lòng yêu nước thầm kín, nhưng gợi chút buồn
Theo em vì sao tác giả lại buồn?
+Từng làm quan, nhưng trở về ẩn tại quê nhà
có tài năng nhưng chưa giúp được gì cho dân

cho nước, bi kịch của người tri thức Nho học
+Nỗi buồn ấy giúp ta hiểu được nhân cách
thanh tao của cụ “Tam nguyên Yên Đổ”...

& Chia nhóm, cho học sinh
thảo luận:
III.TỔNG KẾT
+Điểm khác nhau trong ba bài thơ thu?
Khác nhau ở điểm nhìn cảnh thu của nhân vật trữ tình.
+Điểm giống nhau:
-Hình ảnh bầu trời thu
-Gió thu
-Tâm trạng buồn của nhân vật trữ tình
-Tài năng trong cách sử dụng ngôn từ.

Hướng dẫn Hs thảo luận
Cái hay của nghệ thuật dùng từ ngữ trong bài thơ ?
1LUYỆN TẬP
+Tả sắc màu
+Tả cử động, chuyển động
+Sử dụng ngôn từ tinh tế tài hoa...

4 Hướng dẫn học bài, chuẩn bị bài sau:
Phân tích đề, lập dàn ý, bài văn NL
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Mùa thu vốn là một đề tài quen thuộc trong thơ ca Việt Nam. Thu thường mang đến cho thi sĩ một nỗi buồn man mác, gợi nhớ hay nuối tiếc về một cái gì đó xa xôi, đầy bí ẩn. Dường như không ai vô tình mà không nói đến cảnh thu, tình thu khi đã là thi sĩ! Đến với Nguyễn Khuyến, chúng ta sẽ thấy được điều đó. Cảnh mùa thu trong thơ ông không phải là mùa thu ở bất cứ miền nào, thời nào, mà là mùa thu ở quê ông, vùng đồng chiêm Bắc Bộ lúc bấy giờ. Chỉ với bầu trời “xanh ngắt” (Thu vịnh), với cái nước “trong veo” của ao cá (Thu điếu), và cái “lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, làn ao lóng lánh bóng trăng loe” ( Thu ẩm). Nguyễn Khuyến đã làm say đắm lòng bao thế hệ! Khi nhận xét về bải thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu có viết: “Bài thơ thu vịnh là có thần hơn hết, nhưng ta vẫn phải nhận bài Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Vậy ta thử tìm hiểu xem thế nào mà “Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”?

Nếu như ở Thu vịnh, mùa thu được Nguyễn Khuyến đón nhận từ cái không gian thoáng đãng, mênh mông, bát ngát, với cặp mát hướng thượng, khám phá dần các tầng cao của mùa thu để thấy được: “ Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”, thì ở Thu điếu, nhà thơ không tả mùa thu ở một khung cảnh thiên nhiên rộng rãi, không phải là trời thu, rừng thu hay hồ thu, mà lại chỉ gói gọn trong một ao thu: ao chuôm là đặc điểm của vùng đồng chiêm trũng, vùng quê của Nguyễn Khuyến:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Câu thơ đầu tồn tại hai vần “eo”, câu thơ thể hiện sự co lại, đọng lại không nhúc nhích, cho ta một cảm giác lạnh lẽo, yên tĩnh một cách lạ thường. Không có từ “lẽo” và từ “veo” cũng đủ cho ta thấy cảnh tĩnh, nhưng thêm hai từ này lại càng thấy cảnh tĩnh hơn nữa. Khung ao tuy hẹp nhưng tác giả lại không bị giới hạn mà mở rộng ra nhiều chiều, trong cái không khí se lạnh đó dường như làm cho làn nước ao ở độ giữa thu, cuối thu như trong trẻo hơn. Những tưởng trong “ao thu lạnh lẽo” ấy, mọi vật sẽ không xuất hiện, thế mà thật bất ngờ: Khung ao không trống vắng mà có “một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Có khung cảnh thiên nhiên và có dấu vết của cuộc sống con người, khiến cảnh thu thêm được phần nào ấm cúng. Chiếc thuyền “tẻo teo” trông thật xinh xắn. Câu thơ đọc lên, làm cho đối tượng miêu tả trở nên gần gũi và thân mật biết bao!Với hai câu mở đầu, nhà thơ sử dụng những từ ngữ gợi hình ảnh, tạo độ gợi cao: “lẽo”, “veo”, “tẻo teo” mang đến cho người đọc một nỗi buồn man mác, cảnh vắng vẻ, ít người qua lại. Và rồi hình ảnh:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Càng làm cho không khí trở nên tĩnh lặng hơn, nhà thơ đã dùng vcái động của “lá vàng trước gió” để miêu tả cái tĩnh của cảnh thu làng quê Việt Nam. Những cơn gió mùa thu đã xuất hiện và mang theo cái lạnh trở về, khiến ao thu không còn “lạnh lẽo”, không còn tĩnh lặng nữa vì mặt hồ đã “gợn tí”, “lá vàng khẽ đưa vèo”, cảnh vật dường như đã bắt đầu thay đổi hẳn đi! Cơn “sóng biếc” nhỏ “hơi gợn tí” và chiếc lá “trước gió khẽ đưa vèo” tưởng như mâu thuẫn với nhau, nhưng thật ra ở đây Nguyễn Khuyến đã quan sát kĩ theo chiếc lá bay trong gió, chiếc lá rất nhẹ và thon thon hình thuyền, chao đảo liệng đi trong không gian, rơi xuống mặt hồ yên tĩnh. Quả là phải có một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống thật sâu sắc thì Nguyễn Khuyến mới có thể cảm nhận được những âm thanh tinh tế, tưởng chừng như chẳng ai để ý đến như thế! Như trên đã nói: mở đầu bài thơ, tác giả sử dụng vần “eo” nhưng tác giả không bị giới hạn mà đã mở rộng không gian theo chiều cao, tạo nên sự khoáng đạt, rộng rãi cho cảnh vật:

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Bầu trời thu xanh ngắt xưa nay vẫn là biểu tượng đẹp của mùa thu. Những áng mây không trôi nổi bay khắp bầu trời mà “lơ lửng”. Trước đây Nguyễn Du đã từng viết về mùa thu với:

Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng

Nay Nguyễn Khuyến cũng thế. Mở ra không gian rộng, cảm hứng Nguyễn Khuyến lại trở về với khung cảnh làng quê quen thuộc cũng vẫn hình ảnh tre truc, vẫn bầu trời thu ngày nào, vẫn ngõ xóm quanh co…tất cả đều thân thương vè nhuốm màu sắc thôn quê Việt Nam. Chỉ đến với Nguyễn Khuyến, chúng ta mới thấy được những nét quê tĩnh lặng, êm ả như vậy. Trời sang thu, không khí giá lạnh, đường làng cũng vắng vẻ. “Ngõ trúc quanh co” cũng “vắng teo” không bóng người qua lại. Sau này Xuân Diệu trong bài Đây mùa thu tới cũng đã bắt đựơc những nét điển hình đó của sông nước ở vùng quê, khi trời đã bắt đầu bước vào những ngày giá lạnh:

Những luồng run rẩy rung rinh lá…

… Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò
Cùng với: Cành biếc run run chân ý nhi (Thu)


Thế rồi trong cái không khí se lạnh đó của thôn quê, những tưởng sẽ không có bóng dáng của con người, ấy vậy mà thật bất ngờ đối với người đọc:
Tựa gối buông cần, lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Hai câu thơ kết thúc đã góp phần bộc lộ đôi nét về chân dung tác giả. Tôi nhớ không lầm dường như đã có tài liệu cho rằng: “tựa gối, ôm cần lâu chẳng được”, “ôm” chứ không phải là “buông”. Theo Việt Nam tự điển thì “buông” hay hơn, phù hợp với tính cách của nhà thơ hơn. Trong những ngày từ quan lui về ở ẩn, mùa thu câu cá, đó là thú vui của nhà thơ nơi làng quê để tiêu khiển trong công việc, để hoà mình vào thiên nhiên, mà quên đi những bận lòng với nước non, cho tâm hồn thanh thản. “Buông”: thả lỏng, đi câu không cốt để kiếm cái ăn (hiểu theo đúng nghĩa của nó), mà để giải trí, cho nên “ôm” không phù hợp với hoàn cảnh. Từ “buông” mang đến cho câu thơ hiệu quả nghệ thuật cao hơn.

Tóm lại, qua Thu điếu, ta phần nào thấy được tấm lòng của nhà thơ đối với thiên nhiên, đối với cuộc sống: chỉ có những ao nhỏ, những “ngõ trúc quanh co”, màu xanh của bầu trời, cũng đã làm say đắm lòng người. Thì ra mùa thu ở thôn quâ chẳng có gì là xa lạ, mùa thu ở thôn quê chính là cái hồn của cuộc sống, cái duyên của nông thôn. Câu cuối này là thú vị nhất, vừa gợi được cảm giác, vừa biểu hiện đựơc cuộc sống ngây thơ nhất với sự việc sử dụng những âm thanh rất trong trẻo có tính chất vang ngân của những cặp vần, đã chiếm được cảm tình của độc giả, đã đọc qua một lần thì khó mà quên đựơc.
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top