Cảm nhận về bài thơ Thương vợ của Tú Xương - Ngữ văn 11

ButNghien

Học tập suốt đời!
Thành viên BQT
Xu
46
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương

Bài làm:
Nhan đề Thương vợ không biết có phải do tác giả hay người đời sau đặt tên cho bài thơ? Thế nhưng có một điều chắc chắn rằng bài Thương vợ được xem là một trong những bài xuất sắc nhất trong mảng thơ viết về người vợ của Tú Xương.

Thơ xưa viết về người vợ đã ít, mà viết về người vợ khi đang còn sống lại càng hiếm hoi. Các thi nhân thường chỉ làm thơ khóc vợ khi bạn trăm năm của mình qua đời. Bà Tú Xương dù có phải chịu nghiệt ngã của cuộc đời nhưng bà lại có một niềm hạnh phúc mà bao kiếp người vợ xưa không có được, đó là bà bước vào địa hạt thi ca của ông Tú: Bà bước vào thơ ca của ông Tú với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chồng. Tình thương vợ sâu nặng của Tú Xương thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi vất vả gian lao và phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ - bà Tú.

Câu thơ mở đầu nói hoàn cản làm ăn buôn bán của bà Tú. Hoàn cảnh vất vả, lam lũ gợi lên qua cách nói thời gian, địa điểm:

Quanh năm buôn bán ở mom sông

Quanh năm là suốt cả năm, không trừ ngày nào dù nắng hay mưa, dù ấm hay lạnh. Quanh năm còn là năm này tiếp năm khác đến chóng mặt, đến rã rời chứ đâu phải chỉ một năm. Còn địa điểm và Tú buôn bán là mom sông, cái doi đất nhô ra ngoài sông ấy chính là ngọn sóng, trắc trở, bà Tú phải vật lộn. Hình ảnh và Tú tần tảo tất bật, ngược xuôi.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng.
Hình ảnh con cò trong ca dao đã tội nghiệp đến hình ảnh con cò trong thơ Tú Xương còn tội nghiệp hơn. Bởi lẽ con cò trong thơ Tú Xương không chỉ xuất hiện trong cái rợn ngợp của không gian mà còn trong cái rợn ngợp của thời gian, không gian heo hút. Khi quãng vắng diễn tả được cả không gian, thời gian chứa đầy âu lo nguy hiểm. Cách đảo ngữ - đưa từ lặn lội lên đầu câu (so với câu ca dao) Con cò lặn lội bờ sông, cách thay từ con cò bằng thân cò làm tăng thêm nỗi vất vả gian truân của bà Tú, đó còn là sự sáng tạo nghệ thuật thi ca của Tú Xương.

Nếu câu thơ thứ ba gợi nỗi vất vả đơn chiếc thì câu thơ thứ tư lại làm rõ sự vật lộn với cuộc sống của bà Tú:

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Câu thơ gợi lên cảnh chen chúc, bươn bả trên sông nước của người buôn bán nhỏ. Sự cạnh tranh chưa đến mức sát phạt nhau nhưng cũng không thiếu lời qua tiếng lại. Buổi đò đông là nỗi lo âu, nguy hiểm không kém phần so với khi quãng vắng. Buổi đò đông không chỉ có những lời phàn nàn, mè nheo, cáu gắt, những sự chen lấn xô đẩy mà còn chứa chất những bất trắc, hiểm nguy. Hai câu thực đối nhau về tù ngữ.

Khi quãng vắng >< Buổi đò đông

Nhưng lại là tiếp nhau về ý để làm nổi bật sự vất vả gian truân của bà Tú: đã vất vả đơn chiếc, lại thêm sự buôn bả trong cảnh chen chúc làm ăn. Hai câu thực nói thực cảnh bà Tú đồng thời cho ta thấy thực tình của Tú Xương với tấm lòng xót thương da diết.

Cuộc sống vất vả gian truân càng làm ngời lên phẩm chất cao đẹp của bà Tú. Bà là người đảm đang, tháo vát.

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Chúng ta chú ý các từ ngữ: Nuôi đủ, năm, một. Như vậy bà Tú nuôi đủ sáu người. Chúng ta thấy thấp thoáng nụ cười tự hào của nhà thơ qua cách tính đếm của ông: Năm con với một chồng. Mỗi chữ trong câu thơ Tú Xương đều chứa chất bao tình ý. Từ đủ trong nuôi đủ vừa nói về số lượng, vừa nói về chất lượng.

Trong hai câu luận, Tú Xương một lần nữa cảm phục sự hi sinh rất mực của vợ:

Năm nắng mười mưa dám quản công
Nắng mưa chỉ sự vất vả, năm, mười là số lượng phiếm chỉ, để nói số nhiều, được tách ra tạo nên một thành ngữ chéo trong câu thơ năm nắng mười mưa. Vừa nói lên sự vất vả gian lao, vừa thể hiện được đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú.

Nhà thơ không chỉ cảm phục, biết ơn sự hi sinh rất mực của vợ mà ông còn tự trách, tự lên án bản thân. Ông không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm. Bà Tú lấy ông là do duyên nhưng duyên một mà nợ hai.

Một duyên hai nợ âu đành phận.
Tú Xương tự coi mình là cái nợ đời mà bà Tú phải gánh chịu. Nợ gấp đôi duyên, duyên ít nợ nhiều. Ông chửi thói đời bạc bẽo vì thói đời là một nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú phải khổ. Nhưng Tú Xương cũng không đổ vấy cho thói đời. Sự hờ hững của ông đối với vợ con cũng là một biểu hiện của thói đời bạc bẽo. Câu thơ Tú Xương tự rủa mát mình cũng là lời tự phán xét, tự lên án.

Có chồng hờ hững cũng như không.
Ở cái thời mà xã hội phong kiến đối xử với người phụ nữ theo kiểu xuất giá tòng phu, phu xướng, phụ tuỳ thế mà có một nhà nho – Tú Xương dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám tự nhận mình là quan ăn lương vợ, không những đã biết nhận ra thiếu sót, mà còn dám tự nhận khiếm khuyết. Một con người như thế chẳng dũng khí lắm sao. Một nhân cách như thế chẳng đẹp làm sao.

Thương vợ - nhan đề chưa nói hết được cái sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối vợ cũng như chưa thể hiện được đầy đủ vẻ đẹp nhân bản của hồn thơ Tú Xương bởi lẽ nhà thơ không chỉ thương vợ mà còn ơn vợ, không chỉ lên án thói đời mà còn tự trách mình. Nhà thơ dám tự nhận khuyết điểm, càng thấy khiếm khuyết của mình càng thương vợ, quý trọng vợ hơn. Tình thương yêu quý trọng bà Tú của ông có phần mới mẻ trong thời kì văn học trung đại. Nó là những vần thơ, hình ảnh gần gũi với mọi người, có gốc rễ từ tâm hồn dân tộc.


NGUỒN: Diễn Đàn Kiến Thức
- Trích từ Sách 100 bài làm văn hay lớp 11*

 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top