Cách mạng tháng Tám/1945

  • Thread starter Thread starter ismile
  • Ngày gửi Ngày gửi

ismile

New member
Xu
0
Các bạn cho tớ xin một số thông tin về cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945 nhé!
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
CÁCH MẠNG THÁNG 8: THẮNG LỢI CỦA KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN.

Cách mạng tháng tám 1945 được nhà sử học Dương Trung Quốc ví như cột mốc chia đôi thế kỷ, từ tối sang sáng đưa Việt Nam từ bùn lầy nước đọng của ngàn năm phong kiến, trăm năm thực dân trở thành một quốc gia độc lập. Sức mạnh làm nên thắng lợi đó là sức mạnh của lòng yêu nước, của một Đảng lãnh đạo chân chính, một đường lối cách mạng đúng đắn và hơn hết là sức mạnh của tình đoàn kết toàn dân.


Lịch sử đã chứng minh, đoàn kết trong việc trị thuỷ vốn là một trong những yếu tố quan trọng hình thành nên các quốc gia cổ đại phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Và chính sức mạnh của tình đoàn kết đã giúp Việt Nam vượt qua ngàn năm Bắc thuộc, chiến thắng biết bao kẻ thù xâm lược… Nhận thức được sức mạnh to lớn của tình đoàn kết nên trong suốt gần 100 năm đô hộ nước ta, núp dưới chiêu bài của "sứ mệnh khai hoá văn minh” thực dân Pháp đã thực thi chính sách “chia để trị” rất thâm độc, hòng khoét sâu thêm những dị biệt vốn có, làm cho các mâu thuẫn và những xung đột nội bộ trong lòng dân tộc Việt Nam ngày càng trở nên gay gắt hơn, làm cho khối đoàn kết dân tộc của người Việt Nam không thể nào được khôi phục và phát triển được nhằm dễ bề cai trị.

Để cứu nước, từ rất sớm các lãnh tụ yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh…đã sớm nhận ra rằng: chừng nào toàn dân tộc ta chưa thự sự đồng tâm, đoàn kết dưới một ngọn cờ thì chừng đó dân tộc ta chưa thể tự mình giải phóng khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Vì thế, các cụ không ngừng kêu gọi lòng “ái quốc” và sự “đồng tâm”. Những lời kêu gọi thống thiết của các cụ đã châm mồi dấy lên một phong trào yêu nước mạnh mẽ. Song vì thiếu một cơ sở lý luận, thiếu những phương tiện, biện pháp cụ thể nên khối đại đoàn kết dân tộc chưa thể phát huy hết sức mạnh vốn có. Cũng vì thế mà các phong trào yêu nước lúc đó chưa thể thành công.

Cho đến khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tìm đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, học thuyết cách mạng tiên tiến nhất của thời đại thì Người đã tìm ra được con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam. Từ đó Người tích cực chuẩn bị cho “ngày hồi sinh” của dân tộc. Ngay từ những bài học đầu tiên, Người đã chỉ ra rằng: "Kách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người" (Đường kách mệnh). Vì thế, khi ở trong nước xuất hiện 3 tổ chức cộng sản hoạt động ảnh hưởng lẫn nhau, Người đã kịp thời xuất hiện, với uy tín và tài năng của mình đã đứng ra thống nhất các tổ chức cộng sản và lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3/2/1930 lãnh đạo phong trào đấu tranh cứu nước.

Điểm thứ nhất trong “Năm điểm lớn” được Nguyễn ái Quốc đưa ra, coi như nguyên tắc để gạt bỏ các bất đồng trước đó và đi tới thống nhất phong trào cộng sản Việt Nam là: "Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương.” Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào đấu tranh cách mạng diễn ra sôi nổi. Tuy nhiên sức mạnh tổng hợp của đoàn kết toàn dân chưa thực sự được phát huy cho đến khi mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng Minh (gọi tắt là Việt Minh) ra đời. Mặt trận Việt Minh có chủ trương “Việt Minh chủ trương liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn".

Hội nghị Trung ương VIII của Đảng và sự ra đời của mặt trận Việt Minh đánh dấu một bước ngoặt trong đường lối lãnh đạo cách mạng hướng tới việc mở rộng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, quy tụ và phát huy cao độ nội lực dân tộc. Lần đầu tiên chủ trương đoàn kết dân tộc của Đảng được đặt trên cơ sở của chính chủ nghĩa yêu nước, lời kêu gọi đoàn kết dân tộc đã được thay thế cho lời kêu gọi đoàn kết giai cấp và đấu tranh giai cấp. Như vậy, Mặt trận Việt Minh không chỉ làm cho khối đại đoàn kết dân tộc được mở rộng mà còn góp phần nâng lực lượng của khối đại đoàn kết ấy lên gấp bội bằng việc biến khối đại đoàn kết thành một tổ chức có sức chiến đấu cao. Điều đó cho thấy, dân tộc ta đã biết cách đoàn kết hiệu quả nhất. Bởi quyền lực và sức mạnh đều thuộc về nhân dân. Chính quyền tự do, dân chủ đã tạo cơ hội, tạo không gian cho mỗi cá nhân phát huy được tối đa tiềm năng của mình. Cách mạng tháng 8 thành công vang dội, đánh đuổi thực dân Pháp, đưa nước ta thoát khỏi ách nô lệ, nhân dân ta được sống trong hoà bình, tự do là minh chứng hùng hồn cho sức mạnh to lớn ấy.

Khi thời cơ cách mạng tới, nghe tin Nhật Hoàng đã chấp nhận đầu hàng Đồng Minh, ngay đêm 13/8/1945, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc đã phát lệnh tổng khởi nghĩa. Ngày 15/8, tin Nhật đầu hàng chính thức được công bố. Theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, ngày 16/8 Quốc dân Đại hội họp thông qua đề nghị tổng khởi nghĩa của mặt trận Việt Minh là tượng trưng cho ý chí, nguyện vọng và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, . Ở các điạ phương, trên cơ sở các chỉ thị trước đó, đa số cán bộ Đảng và Việt Minh cơ sở đã mau chóng tự quyết định khởi nghĩa giành chính quyền, không bỏ lỡ thời cơ. Và điều quan trọng hơn, quyết định đó được tuyệt đại đa số quân chúng nhân dân mọi tầng lớp ủng hộ, kể cả các lực lượng vốn đứng ngoài mặt trận Việt Minh. Kết quả là chỉ trong vòng khoảng hai tuần lễ sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc đã giành lại được độc lập, tự do cho nước nhà.

Có thế nói, Cách mạng tháng Tám 1945 là cuộc hồi sinh vĩ đại của một dân tộc đoàn kết: thực sự đoàn kết, biết đoàn kết và đoàn kết đúng lúc, kịp thời.


 
THỜI CƠ TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM


Thời cơ là một khái niệm rất quan trọng, gắn liền với sự thành bại của mỗi cá nhân, của các đảng phái chính trị và của mỗi cộng đồng với những quy mô khác nhau. Bài học thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn là bài học đi cùng năm tháng, nếu chúng ta muốn thành công và không muốn tụt hậu.

Hồ Chí Minh đã xác định tầm quan trọng có tính khái quát của khái niệm thời cơ qua hai câu thơ của bài thơ “Học đánh cờ” trong tác phẩm “Nhật ký trong tù”:

Lạc nước, hai xe đành bỏ phí,

Gặp thời, một tốt cũng thành công.

Trong cuộc sống thường nhật, chúng ta còn bắt gặp một số khái niệm khác có ý nghĩa tương tự như “vận hội”, “cơ hội”. Liên quan tới chủ đề Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đang bàn ở đây, xin được dùng khái niệm phổ biến và thông dụng nhất là “thời cơ”.

Một cuộc khởi nghĩa hoặc tổng khởi nghĩa muốn thắng lợi đòi hỏi phải hội đủ những điều kiện bên trong và bên ngoài (chủ quan và khách quan) mà chúng ta thường gọi là điều kiện chín muồi. Trong lịch sử cận - hiện đại Việt Nam, các phong trào, các cuộc khởi nghĩa không thành công, trước hết đều bắt nguồn từ việc chưa hội đủ các điều kiện cần thiết. Chẳng hạn, sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân Đảng vào đầu tháng 2-1930 là một ví dụ điển hình về việc thời cơ chưa xuất hiện. Khi đó, những người đứng đầu Việt Nam Quốc dân Đảng đã coi khởi nghĩa như một giải pháp tình thế, như một trò chơi - “không thành công cũng thành nhân”. Thế hệ cách mạng Việt Nam tiếp theo liền rút ra bài học: Không được đùa với khởi nghĩa.

Thời cơ là một thành tố khách quan, hoàn toàn không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của một cá nhân nào, của một tổ chức chính trị nào. Nó xuất hiện một cách bất ngờ và tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định. Nói như vậy không có nghĩa là thời cơ là một cái gì đó không thể biết trước được, không thể đoán định được. Tuy nhiên, điều lý thú là ở chỗ, nó có mà không có và ngược lại. Vì thế, không phải ai cũng có thể dự báo được thời cơ, theo dõi, nắm bắt nó và cuối cùng là lợi dụng nó để đạt tới cái đích của mình.

Chúng ta hãy ngược dòng lịch sử xem Đảng Cộng sản Việt Nam, một tổ chức chính trị mạnh mẽ và rộng lớn nhất lúc đó, đã dự báo thời cơ cho cuộc vùng dậy xung thiên vào tháng 8-1945 từ bao giờ. Có thể từ tháng 5-1941, trong Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Quyền Tổng Bí thư Trường Chinh, tại Pắc Bó, Cao Bằng. Nghị quyết đã dự báo một cách chính xác về cuộc chiến tranh thế giới thứ hai và hệ lụy của nó: “Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó cách mạng nhiều nước thành công…”(1). Xin nhớ là, Nghị quyết này được thông qua vào tháng 5-1941, khi Liên Xô chưa tham chiến; một tháng sau, tháng 6-1941, phát-xít Đức bất ngờ tấn công Liên Xô.

Như vậy, thời cơ sẽ đến với nhiều nước trên thế giới khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phần thắng nghiêng về Liên Xô và phe dân chủ. Đó là một khả năng làm xuất hiện thời cơ có lợi cho cách mạng nhiều nước, trong đó có cách mạng nước ta. Như chúng ta đã biết, dự báo đó hoàn toàn chính xác, đặc biệt là đối với châu Âu. Ở đó, chủ nghĩa xã hội từ một nước trở thành một hệ thống. Việt Nam ở châu Á đang rên xiết dưới ách thống trị của phát-xít Nhật và thực dân Pháp, chịu ảnh hưởng bởi chiến trường Thái Bình Dương, nơi mà cuộc chiến Mỹ - Nhật đang bước vào giai đoạn chót.

Từ rất sớm, Đảng ta, với sự phân tích chính xác, khoa học mâu thuẫu trong hàng ngũ kẻ thù, đã dự báo cuộc đảo chính của Nhật ở Đông Dương và vạch ra những kế hoạch hành động khi tình hình mới tới. Bài báo đầu tiên dự báo về cuộc đảo chính của Nhật ở Đông Dương là bài “Bóc trần mưu gian của đế quốc Nhật! Thống nhất hành động đánh đổ thù chung!” của Tổng Bí thư Trường Chinh, đăng trên Báo Cờ Giải phóng, số 3, ngày 15-2-1944. Trong bài báo đó, sau khi phân tích mâu thuẫn ngày càng tăng trong hàng ngũ kẻ thù, tác giả đã đi tới một nhận định đúng đắn là, sớm hay muộn cuộc đấu súng giữa chúng với nhau nhất định sẽ xảy ra: “Sự xung đột giữa Nhật - Pháp ngày thêm sâu sắc. Cho nên Nhật gấp rút”.

Từ đó, trong suốt năm 1944 và những tháng đầu năm 1945, trên những tờ báo, trong những văn kiện chính thức của Đảng ta, vấn đề “cuộc đảo chính của phát-xít Nhật” luôn luôn được nhắc tới nhằm hướng công tác chuẩn bị của Đảng và phong trào cách mạng của quần chúng chủ động đón nhận nó. Vì thế, khi cuộc đảo chính của Nhật nổ ra vào đêm 9-3-1945, Đảng ta không bị động trước thời cuộc mà trái lại, chủ động vạch ra những nhiệm vụ chiến lược sát đúng để đưa cách mạng tiếp tục tiến lên. Ngay trong đêm Nhật - Pháp bắn nhau, từ chập tối, Hội nghị Thường vụ mở rộng, dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường Chinh, đã khai mạc tại chùa Đồng Kỵ, Bắc Ninh. Sợ bị lộ, Hội nghị chuyển sang làng Đình Bảng họp tiếp. Trên đường đi, bỗng nghe tiếng súng nổ dồn từ phía Hà Nội, các đồng chí dự Hội nghị dồn bước tới địa điểm mới, họp tiếp và ra ngay Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” vào ngày 12-3-1945. Bản Chỉ thị đó lập tức được chuyển tới nhà in bí mật của Đảng tại làng Tráng Việt, huyện Mê Linh, Hà Nội. Ông Nguyễn Lương Hoàng phụ trách nhà in, đã cấp tốc cho in hàng nghìn bản và theo những đường giây bí mật chuyển đi các nơi.

Bản Chỉ thị nhận định, cuộc đảo chính của Nhật ở Đông Dương đã tạo ra cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi, tuy vậy cũng đã tạo ra những tiền đề cần thiết thúc đẩy cuộc khởi nghĩa chóng tới. Trong Bản Chỉ thị đó, Ban Chấp hành Trung ương, ngoài việc xác định kẻ thù mới và đề ra khẩu hiệu đấu tranh mới, còn dự báo hai khả năng làm xuất hiện thời cơ cho nhân dân ta vùng dậy giành chính quyền trên cả nước, đó là: 1. Quân Đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật; và 2. Nhật đầu hàng Đồng minh.

Dưới ánh sáng của bản Chỉ thị lịch sử đó, các cấp bộ đảng từ trung ương đến địa phương đã theo dõi sát sao diễn biến mặt trận Thái Bình Dương. Sau khi Hồng quân Liên Xô tiêu diệt một triệu quân Quan đông của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc và Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hi-rô-si-ma và Na-ga-sa-ki, ngày 9-8-1945, Hội đồng tối cao chiến tranh của Nhật Bản đã họp bàn về các điều kiện đầu hàng theo Tuyên bố Pô-xđam. Sau những cuộc thương lượng giữa Nhật Bản và Đồng minh, ngày 14-8-1945, Hội đồng tối cao chiến tranh và nội các Nhật Bản với sự hiện diện của Nhật hoàng đã nhóm họp và thông qua quyết định đầu hàng Đồng minh.

Đúng giữa trưa ngày 15-8-1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng các lực lượng Đồng minh trên sóng phát thanh của Nhật Bản. Như vậy, thời cơ xuất hiện như khả năng thứ hai mà Đảng ta đã dự báo. Tin đó đến với lãnh tụ Hồ Chí Minh rất sớm qua bản tin đài BBC mà Người nghe được ở lán Nà Lừa, Tân Trào (Tuyên Quang). Thời cơ có một không hai đã đến với dân tộc chúng ta, bởi vậy, “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được tự do độc lập!” (Lời của lãnh tụ Hồ Chính Minh nói với đồng chí Võ Nguyên Giáp ở lán Nà Lừa). Lập tức, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra quân lệnh số 1, trong đó có đoạn viết: “Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh! Cơ hội có một cho quân, dân Việt Nam cùng giành lấy quyền độc lập của nước nhà… Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!... Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta!”(2).

Tiếp đó, Hội nghị Đảng toàn quốc và Quốc dân Đại hội nhóm họp tại Tân Trào quyết định phát động cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả nước.

Như trên đã nói, thời cơ xuất hiện và tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định. Trong Cách mạng Tháng Mười Nga, thời cơ chỉ tồn tại trong vòng 24 giờ. Vậy, trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của chúng ta, thời cơ tồn tại trong bao lâu? Trong Cách mạng Tháng Tám, thời cơ tồn tại một cách khách quan trong vòng hai mươi hôm, bắt đầu từ khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng (ngày 15-8) và kết thúc khi quân Đồng minh vào tước khí giới quân Nhật trên đất nước ta theo Hiệp định Pô-xđam (ngày 5-9). Nếu phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc trước ngày 15-8 và sau ngày 5-9 đều không có khả năng thành công, bởi trước ngày 15-8, quân Nhật còn mạnh và sau ngày 5-9, trên đất nước có nhiều kẻ thù (từ vĩ tuyến 16 trở ra là quân Tưởng - Mỹ và sau đó là những kẻ “theo đóm ăn tàn”, và từ vĩ tuyến 16 trở vào là quân Anh và sau nó là quân Pháp trở lại xâm lược). Chỉ có thể giành chính quyền thắng lợi trong ngưỡng thời gian khắc nghiệt đó.

Cuộc Cách mạng Tháng Tám mà Đảng và Mặt trận Việt Minh phát động, như cơn sóng thần, đã cuốn phăng chính quyền phát-xít Nhật và tay sai. Ngày 30-8, vua Bảo Đại đọc chiếu thoái vị và tuyên bố “thà làm dân một nước tự do, còn hơn làm vua một nước nô lệ”. Trên đống đổ nát đó, chúng ta bắt tay xây dựng chế độ cộng hòa dân chủ bằng việc công bố trước quốc dân Việt Nam và nhân dân thế giới bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa tại vườn hoa Ba Đình, ngày 2-9-1945. Như vậy, mọi việc được chúng ta hoàn tất trước ba ngày để ngày 5-9-1945, với tư cách là chủ nhà, Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đón tiếp quân Đồng minh vào tước khí giới quân Nhật trên đất nước ta.

Trong những bài học về thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, thì bài học về dự báo thời cơ, theo dõi và lợi dụng nó là bài học quan trọng nhất, xét trên cả bình diện lý luận và thực tiễn, và vì thế, nó vẫn đi cùng năm tháng.

Đảng ta đã thấu triệt bài học đó và đặc biệt, đã vận dụng thành công bài học đó trong những thời đoạn lịch sử không thể nào quên của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cũng như trong thời kỳ xây dựng nước Việt Nam “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Cuối năm 1974, đầu năm 1975, khi so sánh lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường miền Nam, Đảng ta thấy có sự thay đổi mau lẹ, có lợi cho cách mạng. Cụ thể, quân ta đã giành thắng lợi vang dội trong chiến dịch đường 14 - Phước Long. Chiến thắng Phước Long như là phép thử sự phản ứng của chính quyền Sài Gòn và Mỹ - sự suy yếu và bất lực của quân đội Sài Gòn và sự hạn chế của Mỹ trong việc can thiệp trở lại. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị đã đề ra kế hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976. Tuy nhiên, Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh, “cả năm 1975 là thời cơ”, và chỉ rõ, “nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”. Sau thắng lợi chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế - Đà nẵng, Bộ Chính trị thấy rõ thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam đã xuất hiện: “Thời cơ chiến lược đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam”, và xác định quyết tâm cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân là “phải tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí, kỹ thuật và vật chất giải phóng miền Nam trước mùa mưa (trước tháng 5-1975)”.

Thời cơ đã đến, cả nước xốc tới với khí thế xung thiên. Vào 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, lá cờ cách mạng tung bay trên dinh Độc lập, báo hiệu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh.

Trong thời kỳ đổi mới, trên nền tảng ổn định chính trị, Đảng ta đề ra đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, theo phương châm “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước”. Đường lối đối ngoại cởi mở đó đã tạo ra những cơ hội tốt đẹp, trong đó có việc thu hút vốn của các nước vào Việt Nam, nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế ngày một cao. Việt Nam là thành viên của Liên hợp quốc, của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) và mới đây, ngày 7-11-2006, là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Những bước tiến thần kỳ của đất nước thời kỳ đổi mới có một phần là do Đảng ta nắm vững và vận dụng bài học thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945./.

______________________ PGS.TS.Phạm Xanh

(1) Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t 7, tr 100

(2) Văn kiện đã dẫn, t 3, tr 140-141
 
Các bạn cho tớ xin một số thông tin về cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945 nhé!

Phân tích thời cơ tổng khởi nghĩa trong cách mạng tháng 8 năm 1945.


Cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 diễn ra và giành thắng lợi trên phạm vi cả nước trong vòng hai tuần (từ 14-8 đến ngày 28-8-1945).

Thực tế, do đây là một cuộc cách mạng có quá trình chuẩn bị trong một thời gian dài, diễn ra trong một không gian rộng, trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế có nhiều biến động lớn. Cuộc Tổng khởi nghĩa nổ ra vào thời điểm rất đặc biệt: Pháp chạy, Nhật hàng, chính phủ thân Nhật tê liệt, triều đình phong kiến Nhà Nguyễn bất lực, trong khi đó quân đồng minh chưa vào. Có thể nói đây là thời điểm vô cùng thuận lợi cho cuộc tổng khởi giành chính quyền trên phạm vi cả nước. Vì vậy các lực lượng vũ trang và quân dân Việt nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, đã tận dụng thời cơ “có một không hai” đưa lại để giành chính quyền, và chúng ta đã nhanh chóng bắt tay vào công cuộc chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa.

Tháng 9 – 1939, chiến tranh Thế giới lần 2 nổ ra. Tháng 6-1940, nước Pháp bị phát-xit Đức chiếm đóng. Trước tình hình này, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở nước ngoài, đã nhận định: “Việc Pháp mất nước là một cơ hội rất thuận tiện cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ. Là người có tầm nhìn chiến lược, có dự cảm thiên tài, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cho rằng, thời cơ giành độc lập đã đến với vận mệnh dân tộc. Người quyết định trở về nước đầu năm 1941, sau gần 30 năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài.

Tháng 5 – 1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8, do lãnh tụ Hồ Chí Minh chủ trì, đã khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được. “Hội nghị còn xác định những vấn đề cụ thể của cuộc khởi nghĩa; dự kiến những điều kiện để khởi nghĩa nổ ra và thắng lợi, trong đó có điều kiện phe dân chủ đại thắng ở Thái Bình Dương, Liên Xô đại thắng, cách mạng Pháp hay cách mạng Nhật nổi dậy, quân Anh - Mỹ tràn vào Đông Dương,..

Hội nghị Trung ương 8 đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm mục đích giành độc lập dân tộc. tại Hội nghị này, Đảng ta đã đề ra những chính sách và biện pháp cụ thể xây dựng chính trị, lực lượng vũ trang cơ sở quần chúng và căn cứ địa cách mạng, coi đó là điều kiện chủ yếu, quyết định tạo tiền đề cách mạng, để khi có thời cơ thuận lợi từ bên ngoài đưa lại, Tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

Ngày 7-5- 1944, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị sửa đổi khởi nghĩa, trong đó nhận định thời cơ thuận lợi cho nhấn dân ta giành chính quyền sắp tới,

“Song thời cơ không phải tự nó đến, một phần lớn do ta sửa soạn nó, thúc đẩy nó”.

Tháng 10-1944, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc gửi Thư kêu gọi đồng bào toàn quốc. Trong thư, Người chỉ rõ: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng Minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh”.

Ngày 9-3 -1945, phát- xit Nhật đảo chính thực dân Pháp, độc chiếm Việt Nam và Đông Dương. Ngày 12-3, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Về vấn đề thời cơ, Chỉ thị cho rằng, “Mặc dù tình hình chính trị khủng hoảng sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương hiện nay chưa được chín muồi.” Vì thế, phải phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Cao trào ấy có thể bao gồm từ hình thức bất hợp tác, bãi công, bãi thị, phá phách, cho đến những hình thức cao như biểu tình, thị uy võ trang, du kích, sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa một khi đã đủ điều kiện. Chỉ thị còn xác định:”ngay bây giờ phát động du kích, chiếm căn ứ địa, duy trì và mở rộng đấu tranh du kích, phải là phương pháp duy nhất của dân tộc ta để đóng vai chủ động trong việc đánh đuổi quân ăn cướp Nhật Bản ra khỏi nước, chuẩn bị hưởng ứng quân Đồng Minh một cách tích cực”. “Song dù sao ta không thể đem việc quân Đồng Minh đổ bộ vào Đông Dương làm điều kiện tất yếu cho cuộc Tổng khởi nghĩa của ta; vì như thế là ỷ vào người và tự bó tay trong khi tình thế biến chuyển thuận tiện…. nếu giặc Nhật mất nước như Pháp năm 1940, và quân đội viễn chinh của Nhật mất tinh thần,thì khi ấy dù quân Đồng Minh chưa đổ bộ, cuộc Tổng khởi nghĩa của ta vẫn có thể bùng nổ và thắng lợi”.

Chủ trương của Đảng đã được các lực lượng vũ trang và quần chúng nhân dân quán triệt trong việc tổ chức các đội vũ trang, gây cơ sở chính trị, mở rộng căn cứ địa, lập khu giải phóng, thực hành khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền ở một số địa phương. Những kết quả đạt được trong quá trình vận động cách mạng, chuẩn bị lực lượng, đã chủ động góp phần tạo ra thời cơ, tình tiết cách mạng trực tiếp, chứ không do điều kiện khách quan quyết định.

Tháng 5-1945, phát-xit Đức đầu hàng Đồng Minh. Đầu tháng 8-1945, đạo quân chủ lực Quan Đông của Nhật, bị Liên Xô đánh cho tơi tả, khiến Nhật phải tính chuyện đầu hàng. Chớp thời cơ đó, ngày 13-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng, họp tại Tân Trào (Tuyên Quang), quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước trước khi quân Đồng Minh vào Đông Dương. Hội nghị nhấn mạnh: Tình thế vô cùng khẩn cấp. Tất cả mọi người đều phải nhằm vào những việc chính. Thống nhất - thống nhất về mọi phương tiện quân sự, chính trị, hành động, không bỏ lỡ cơ hội. Ngay trong đêm 13-8, Uỷ ban khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1: “Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh! cơ hội có một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà!... Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!... Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta”!.

Trong giờ phút khẩn trương và quyết định này, khi thời cơ lớn đã xuất hiện, lãnh tụ Hồ Chí Minh khẳng định quyết tâm: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.

Quốc dân đại hội họp tại Tân Trào trong hai ngày 16 đến 17-8-1945, sau khi tán thành và thông qua quyết định Tổng khởi nghĩa, cũng nhấn mạnh: ” Không phải Nhật bại là nước ta tự nhiên được độc lập”. Nhiều sự gay go, trở ngại sẽ xảy ra. Chúng ta phải luôn khéo và kiên quyết. “Khôn khéo” để tránh những sự không lợi cho ta. ”Kiên quyết để giành được nền độc lập. Một dân tộc quyết tâm và nhất trí đòi quyền độc lập thì nhất định được độc lập”. Trong thư kêu gọi đồng bào sau khi Uỷ ban dân tộc giải phóng việt Nam được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh đất nước đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức mình mà tự giải phóng cho ta …Chúng ta không thể chậm trễ”.

Phần nêu khái quát trên cho thấy, quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và chuẩn bị Tổng khởi nghĩa của Đàng, lãnh tụ Hồ Chí Minh và toàn dân ta đã diễn ra trong nhiều năm, luôn quán triệt phương châm “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Đây là một phương châm đúng đắn, sáng suốt, coi nội lực, nhân tố chủ quan là quyết định, hoàn toàn không dựa vào sự “ăn may” từ nhân tố khách quan (bên ngoài) đưa lại.

Thời điểm phát động Tổng khởi nghĩa mà Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí minh đưa ra là thời điểm có một không hai về nghệ thuật tạo dựng và đoán thời cơ ở cả nước và quốc tế.Trước tình hình các nước Đồng Minh như Mỹ, Anh và chính phủ lâm thời Pháp điều thừa hiểu, sớm, muộn Nhật cũng lật Pháp để độc chiếm Đông Dương, để phòng trừ hậu họa. Mặc dù biết như vậy, nhưng Mỹ và Anh đều không thể ngăn chặn được do không đủ khả năng đánh bại Nhật tại khu vực này vào thới điểm đầu năm 1945, và do còn có những mục tiêu khác quan trọng, cần kíp hơn. Vì vậy, sau này Nhật đảo chính Pháp, lực lượng Pháp ở Việt Nam hoàn toàn bị tê liệt, phần lớn bị bắt giam, một số ít chạy thoát sang Lào, Trung Quốc, số còn lại tổ chức “kháng chiến” chống lại quân Nhật, song không có kết quả. Chính phủ Đờ Gôn chỉ đưa ra một bản tuyên bố ngày 14-3-1945, nhắc lại chủ quyền của Pháp ở Đông Dương và tổ chức được vài đơn vị ở Xrilanca, Ấn Độ, Trung Quốc để chuẩn bị đưa sang Đông Dương. Cho đến mãi ngày 17-8, tức là khi cuộc Tổng khởi nghĩa của nhân dân Việt Nam đã và đang diễn ra, Chính phủ Pháp mới có quyết định bổ nhiệm tướng Lơcléc làm Tổng chỉ huy đạo quân viễn chinh và Đô đốc Đácgiăngliơ làm Cao uỷ, để chuẩn bị sang Đông Dương. Thêm nữa, đến tận ngày 12-9-1945, nửa tháng sau ngày cuộc Tổng khởi nghĩa thắng lợi, đại hội đầu tiên của quân Pháp mới theo chân quân Anh tới sài Gòn. Thực chất, vào thời điểm cuộc Tổng khởi nghĩa nổ ra, thực dân Pháp không có vai trò đáng kể nào ở Việt Nam. Đối tượng của cuộc Tổng khởi nghĩa là phát-xít Nhật và Chính phủ Trần Trọng Kim do Nhật hậu thuẫn. Điều này đã được Chủ Tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong tuyên ngôn độc lập: sự thực, nhân dân ta giành chính quyền từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp.

Vì vậy có thể nói, cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 của nhân dân ta được tiến hành và diễn ra trong bối cảnh thật đặc biệt. Điều cần nhấn mạnh là, bối cảnh quốc tế lúc đó không phải chỉ thuận lợi đối với riêng Việt Nam mà còn thuận lợi đối với một số nước trong khu vực Đông Á- Nam Á. Tuy nhiên, chỉ có cuộc Tổng khởi nghĩa ở Việt Nam giành được thắng lợi nhanh chóng và triệt để. Điểm mấu chốt để lý giải vì sao nhân ta được thắng lợi là gì? Đó chính là do thực lực của chúng ta, do Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh sớm đề ra đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc một cách đúng đắn, sáng tạo, tạo dựng được cơ sở, nền tảng cách mạng vững chắc (nhân tố chủ quan) và sớm nắm bắt thời cơ khách quan thuận lợi để phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền. Nếu không xây dựng được lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng, không tập dượt cho các lực lượng này trong thực tế đấu tranh từ thấp đến cao, thì khi điều kiện khách quan thuận lợi xuất hiện, khi thời
cơ tới, cũng không thể tận dụng được để tiến hành khởi nghĩa thắng lợi.
 
Sửa lần cuối:

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top