Các quốc gia phong kiến thời trung kỳ trung đại (XI-XV)
CÁC QUỐC GIA PHONG KIẾN TÂY ÂU THỜI TRUNG KỲ TRUNG ĐẠI ( XI - XV )
I -THÀNH THỊ VÀ CÔNG THƯƠNG NGHIỆP TÂY ÂU
1- Sự ra đời của thành thị
- Thế kỷ XI, kinh tế Tây âu có một bước phát triển đáng kể
* Trong nông nghiệp :
Rừng rậm được khai phá, đầm lầy được tát cạn, nên diện tích canh tác được mở rộng. Phương pháp canh tác được cải tiến ( luân canh 3 khu, dùng cày nặng có bánh xe, sử dụng phân bón,...) nên thu hoạch tăng ( đạt 5, 6 lần thóc giống).
* Trong chăn nuôi :
Số lượng Bò, Ngựa tăng lên nhiều. Ðặc biệt nuôi cừu để lấy lông dệt dạ.
* Trong thủ công nghiệp :
• Nghề khai thác quặng, chế tạo đồ sắt ( công cụ sản xuất và vũ khí)
• Nghề làm đồ gốm cũng phát triển, làm xuất hiện những người làm nghề thủ công riêng biệt.
Như vậy, nhờ sự phát triển của nến kinh tế, thủ công nghiệp dần dần tách ra khỏi nông nghiệp, tuy nhiên những người thợ thủ công vẫn là nông nô và sống trong lãnh địa, nên phải nộp tô thuế cho lãnh chúa.Vì thế những người thợ thủ công bắt đầu rời khỏi lãnh địa bằng cách chuộc lại tự do thân thể hoặc bỏ trốn. Họ tìm đến những nơi thuận lợi như ngã ba sông, ngã tư đường, những chân tường của nhà thờ, tu viện,... mở xưởng thủ công để việc trao đổi mua bán được dễ dàng.
Những ngành thủ công sớm thoát khỏi nông thôn và lãnh địa là những ngành luyện kim, dệt dạ, làm đồ gốm, thuộc da, xây dựng,...Những ngành nầy yêu cầu kỹ thuật cao, cần phân công chuyên môn hóa và cần đông người , nên sớm tập trung lại.
Những nơi tập trung những người thợ thủ công dần dần lập thành thành thị.
Thành thị trung đại có 3 loại :
- Thành thị mới : Do những người thợ thủ công thoát ly khỏi nông thôn lập nên
- Thành thị cổ : Thành thị có từ thời cổ đại được phục hồi lại
- Thành thị do lãnh chuá qúi tộc phong kiến xây dựng lên cho thị dân thuê.
Các thành thị đều có thành lũy và tháp canh bao bọc chung quanh ( để ngăn ngừa chiến tranh và cướp bóc). Trong thành thị được hcia thành nhiều khu phố, mỗi khu phố tập trung những người thợ thủ công cùng ngành nghề. Nhà cửa trong thành thị thì nhỏ bé, lụp xụp, đường phố chật hẹp bẩn thỉu. Ngoài ra trong thành thị còn có những khu chợ, nhà thờ, tòa thị chính....là những nơi tập trung công cộng.
2- Hoạt động của thành thị
Cư dân sống trong thành thị gọi là thị dân (gồm thợ thủ công tự do, thương nhân tự do) . Trong buổi đầu hoạt động của thành thị gặp khó khăn do thành thị còn nằm dưới quyền thống trị của lãnh chúa PK.
Dần dần về sau hoạt động của thành thị ngày càng phồn thịnh, dân cư ở nông thôn kéo lên thành thị ngày càng nhiều, làm cho đất đai trong thành thị chật hẹp, cư dân phải xây dựng nhà cửa bên ngoài thành lũy. Như vậy thành thị ngày càng được mở rộng theo hình tròn đồng tâm.
Hoạt động thủ công nghiệp :
Thành thị là nơi sản xuất hàng hóa chủ yếu của xã hội phong kiến. Sản phẩm được chế tạo tại các xưởng thủ công của thợ thủ công.
Xưởng thủ công có qui mô nhỏ, lao động hoàn toàn bằng tay với những công cụ thô sơ, đơn giãn.
Mỗi xưởng thủ công có 1 thợ Cả ( thợ chính ) và vài ba thợ học việc ( thợ bạn ). Họ phải tự cung cấp nguyên vật liệu, dụng cụ và tự tiêu thụ hàng hóa. Quan hệ giữa thợ bạn và thợ cả là quan hệ hợp tác thầy trò hay gia trưởng.
Những người thợ thủ công cùng sản xuát một loại hàng hóa ở trong cùng một thành thị thì tập hợp lại trong một tổ chức gọi là phường hội.
Phường hội lập ra nhằm mục đích :
- Giữ độc quyền sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
- Ðảm bảo quyền lợi giữa những người thợ thủ công cùng ngành nghề
- Ngăn cản những người thợ thủ công không có chân trong thành thị cùng làm nghề thủ công đó.
- Ðấu tranh chống lại sự sách nhiễu của lãnh chúa PK.
Mỗi phường hội có một qui chế riêng gọi là phường qui . Tức những điều khoản bắt buộc người thợ phải thực hiện trong qúa trình sản xuất hàng hóa như :
- Qui định mỗi xưởng có mấy thợ.
- Mỗi ngày làm mấy giờ , dùng những công cụ sản xuất và nguyên vật liệu gì.
- Quy cách, chất lượng, giá cả sản phẩm,...
Phường hội ngoài là một tổ chức đoàn thể (có cờ hiệu) nó còn là một tổ chức quân sự (mỗi phường hội là một dội tự vệ để bảo vệ thành thị)
Hoạt động thương mại :
Trong buổi đầu của thành thị, hàng hóa được bày bán ở cửa hàng (đồng thời cũng là nhà ở của thợ thủ công), nên việc buôn bán chậm chạp,khó khăn.
Dần dần về sau xuất hiện tầng lớp thương nhân bao mua , họ đem hàng hó từ thành thị nầy đến thành thị khác hoặc về nông thôn đề bán hay trao đổi những sản phẩm khác.
Ðến thế kỷ XIII, thương mại mới bắt đầu phát triển, xuất hiện con đường buôn bán giữa các nước, nhiều đường bộ, đường sông chạy ngang dọc khắp Châu âu và từ Âu sang Á. Ðường biển cũng phát triển, xuất hiện nhiều hải cảng sầm uất từ Ðịa trung hải đến Hắc hải.
Ðể thuận tiện trong việc buôn bán, thương nhân Tây âu lập ra một tổ chức gọi là Hanse (thương hội)
Mục đích của Hanse :
Giúp đở nhau vận chuyển, bảo vệ dọc đường đi.
Ðiều chỉnh chế độ tiền tệ, cân đo lường.
Nắm độc quyền thương mại ở những khu vực nhất định.
Ðể thuận tiện cho việc buôn bán quốc tế, thương nhân còn mở hội chợ (hay chợ phiên). Hội chợ mở tại một địa điểm cố định, thương nhân các nước mang hàng đến bán , trao đổi, đặt hàng. Hội chợ còn xuất hiện những quầy đổi tiền và nhận chuyển tiền
3 - Ðấu tranh của thành thị chống lãnh chúa phong kiến
Thành thị khi mới ra đời đều nằm trên lãnh thổ của lãnh chúa PK. Do đó thành thị bị lệ thuộc vào lãnh chúa phong kiến và bị lãnh chúa sách nhiễu mọi thứ : đóng thuế thân, đi sưu dịch, binh dịch, bị xét sử bất công,...
Ðể hạn chế sự phụ thuộc vào lãnh chúa, thị dân đã lập nên những hội nghề nghiệp (Phường hội cúa thợ thủ công, Hanse của thương nhân) nhưng không mấy kết qủa.
Vì vậy, trên lãnh thổ thành thị những mâu thuẫn giai cấp của chế độ phong kiến trở nên gay gắt cực độ :
- Thị dân giàu không chịu đựng nổi sự tùy tiện của bọn phong kiến.
- Dân nghèo chống lại nạn lao dịch và sưu thuế, chống cướp đoạt và hạch sách về tòa án.
Tất cả những điều đó dẫn đến chổ bùng nổ cuộc đấu tranh giai cấp. Từ cuối thế kỷ XI, gọi là những cuộc cách mạng công xã và tiếp diễn trong các thế kỷ XII , XIII.
Hình thức đấu tranh :
Ôn hòa : Thành thị bỏ tiền ra nộp cho lãnh chúa để chuộc lại tự do cho thành thị
(hình thức nầy tránh cho thị dân khỏi đổ máu và thành thị khỏi bị tàn phá)
Vũ trang : Do thái độ tham lam của lãnh chúa, một số thành thị đã tiến hành
đấu tranh vũ trang (điển hình là thành thị Laon ở Bắc Pháp )
Kết qủa :
Qua đấu tranh lâu dài có hàng loạt thành thị được giải phóng khỏi quyền lực của lãnh chuá phong kiến , và những công xã hay quốc gia thành thị ra đời. ( Các công xã nầy có toàn quyền về chính trị, được tự do về kinh tế)
Chính quyền thành thị lúc đầu do toàn thể thị dân bầu ra, nhưng chẳng bao lâu, chính quyền đó trở thành độc quyền của một số thị dân giàu có (thương nhân, bọn cho vay lãi, chủ nhà đất lón, chủ xưởng,..) , bọn nầy có ưu thế về tiền bạc và có nhiều mánh lới về chính trị nên dễ dàng nắm được chính quyền và dần dần trở thành Thị dân qúi tộc hay Qúi tộc thành thị , họ thi hành nhiều chính sách hẹp hòi, bất công, gây thiệt hại cho thị dân lớp dưới.
4- Tác dụng của thành thị trong xã hội phong kiến TÂY ÂU
Thành thị không những đóng vai trò quan trọng về hoạt động công thương nghiệp, tham gia tích cực vào đời sống chính trị của xã hội phong kiến, thúc đẩy sự phát triển của nền văn hóa giáo dục mà còn có tác động lớn đến nông thôn phong kiến..
a- Thành thị thúc đẩy kinh tế phát triển .
b- Thành thị ra đời làm thay đổi tình trạng xã hội và tăng cường đấu tranh giai cấp.
c - Thành thị ra đời gớp phần chống phong kiến phân tán , giải phóng nông nô, thúc đẩy nhanh qúa trình chuyển biến từ chế độ phong kiến phân quyền sang tập quyền.
d- Thành thị ra đời , thúc đẩy sự phát triển của văn hóa và giáo dục.
Như vậy, thành thị trung đại tuy còn nằm trong khuôn khổ của chế độ phong kiến, nhưng nó đã phát huy tác dụng đối với chế độ phong kiến, thúc đẩy chế độ phong kiến phát triển lên.
II - GIÁO HỘI THIÊN CHÚA GIÁO & PHONG TRÀO VIỄN CHINH CHỮ THẬP
1- Tổ chức của thiên chúa giáo
- Ở thời sơ kỳ trung đại , giáo hội cơ đốc giáo ở Tây âu, đã trở thành lãnh chúa lãnh phong kiến lớn nhất Tây âu. (Chiếm hữu 1/3 tổng số ruộng đất Tây âu,có hàng vạn nông nô phụ thuộc.)
- Từ năm 1054, giáo hội cơ đốc giáo phân hóa thành hai giáo phái riêng lẽ.
+ Giáo hội Thiên chúa giáo ở Tây âu do giáo hoàng La mã đứng đầu.
+ Giáo hội Cơ đốc giáo chính thống ở Ðông âu, đứng đầu là hoàng đế Bizantium.
2- Phong trào viễn chinh chữ thập
a- Nguyên nhân :
+ Sâu xa :
Do kinh tế ngày càng phát triển, nên nhu cầu của bọn qúi tộc ngày càng tăng lên. Họ có tham vọng về một phương Ðông giàu có.
Thương nhân Tây âu vốn vấp phải đối thủ có thế lực, đó là thương nhân Ả rập và thương nhân thổ nhĩ kỳ. Họ muốn có cuộc viễn chinh đông phương để tiêu diệt kể cạnh tranh của mình.
Nông dân Tây âu vốn bị qúi tộc PK áp bức bóc lột nặng nề, họ tham gia thập tự chinh với ý đồ tìm một nơi sống tốt ở phương Ðông để thoát khỏi cảnh sống cơ cực.
+ Trực tiếp :
Vào nững năm đầu thế kỷ XI, quân đội Hồi giáo Turk-Seljuk đe dọa Bizantium và chiếm đóng kinh thành Jerusalem, đồng thời ngược đãi những tín đồ Tây âu sang viếng mộ Chúa. Trước tình hhình đó, hoàng đế Bizantium cầu cứu giáo hoàng La mã giúp đở để chống lại Turk- Seljuk .Ðáp lời kêu gọi của hoàng đế Bizantium, tháng 11 năn 1095 giáo hoàng Urbain II triệu tập hội nghị ở Clermont (Pháp) , kêu gọi và đứng ra tổ chức cuộc chiến tranh tôn giáo để giải phóng đát thánh Jerusalem.
b- Tính chất và thành phần tham gia :
Ðây là những cuộc xâm lược cướp bóc, nhưng được ngụy trang bởi cái võ tôn giáo.Thành phần tham gia gồm giai cấp phong kiến, thị dân ,nông dân.
c - Diễn biến :
Phong trào Viễn chinh chữ thập diễn ra gần hai thế kỷ ( từ năm 1096 đến 1270) bao gồm 8 cuộc viễn chinh lớn nhỏ .
- Ðợt 1 : ( 1096 - 1099 )
Do Pie Ẩn sĩ lãnh đạo, bao gồm đông đảo nông dân Ðông và Bắc Pháp (họ mang theo gia đình, tài sản với hy vọng sẽ tìm được mãnh đất định cư ở phương đông) . Cuối cùng quân chữ thập cũng chiếm được Antiose (xứ Xiry) và thành Jerusalem , lập nên vương quốc Jerusalem và các quốc gia latinh khác ở Phương Ðông. Nhưng sau đó bị các quốc gia Hồi gíao xung quanh tấn công và thu hồi lại gần hết đất đai.
- Ðợt 2 : (1147-1149)
Gồm đạo quân của Vua Pháp Louis VII và hoàng đế Ðức Conrat III
- Ðợt 3 : ( 1147 - 1192 )
Gồm quân của hoàng đế Ðức Frederik I râu hung ; Vua Pháp Philippe II August ; Vua Anh Richard Tim sư tử . Cả hai đợt nầy do các đạo quân không thống nhất, mỗi đạo hành động theo một hướng, nên cuối cùng thất bại.
- Ðợt 4 : (1202-1204)
Do Giáo hoàng Innocento III (cầm đầu giáo hội từ năm 1198 đến 1216) đứng ra vận động và kêu gọi tổ chức, nhờ có quyền thế, nên ông đã quy động được 3.5 vạn qúi tộc tham gia.
Năm 1204, quân chữ thập chiếm được kinh thành Constantinople ( vì lúc bấy giờ triều đình Bizanium đang xung đột, nên không có lực lượng bảo vệ kinh thành) và lập ra đế quốc Latinh Constantinople .
Nhưng quân chữ thập không giữ được bao lâu, năm 1261 hoàng đế Hy lạp chiếm lại.
Sau khi chiếm được Constantinople, quân chữ thập không còn nghĩ gì đến đất thánh nữa, mà họ chỉ nghĩ đến chuyện cướp bóc. Ðể lấy lại uy tín, năm 1212 giáo hoàng Innocento III lại tổ chức tiếp đợt viễn chinh chữ thập trẻ em . Hàng vạn trẻ em châu âu được tập trung về bến Marseille (pháp) để đưa xuống tàu vượt biển. Do phương tiện vận chuyển kém, thiếu thức ăn, nước uống, thiếu dưỡng khí để thở,...đã làm cho một số trẻ em chết đi, số còn lại bị bọn chủ tàu chở sang Ai cập và Bắc Phi bán làm nô lệ.
Sau đợt 4, viễn chinh không còn thu hút sự chú ý của các tầng lớp xã hội, vì khả năng cướp bóc thuộc địa không còn, tinh thần tôn giáo cũng nhạt đi.
- Ðợt 5 ( 1217-1221)
Chỉ một mình vua Hunggary mang quân đội của mình cùng một số kỵ sĩ Ðức sang Ai cập đánh nhau được vài trận rồi rút về.
- Ðợt 6 ( 1228-1229)
Do hoàng đế Frederik II Hohenstaufen ( cháu Fredrrik râu hung) tổ chức. Vì có ác cảm với giáo hoàng, nên khi sang Jerusalem đã liên kết với quân đội Hồi giáo để chuẩn bị chống giáo hoàng.
- Ðợt 7 ( 1248-1254) & Ðợt 8 (1264-1270)
Chỉ một mình Vua Louis IX đem quân sang Ai cập đánh nhau vaì trận thì bị bắt, phải mất một số tiền lớn mới được chuộc về. Năm 1264, Ông lại đem quân sang Tuynidy, nhưng tại đây vua chết vì bệnh dịch tả.
d- Kết qủa :
Phong trào viễn chinh chữ thập hoàn toàn thất bại. Tất cả thuộc địa của quân chữ thập ở Trung cận đông, phái đoàn truyền giáo của giáo hội Thiên chuá giáo cũng không thu được kết qủa gì đáng kể. Tuy nhiên , các cuộc thập tự chinh đã có ít nhiều ảnh hưởng đến sự phát triển ở Tây âu.
_ Về kinh tế :
Thương nhân Tây âu đã phá vỡ được độc quyền thương mại của người Ả rập và Thổ nhĩ kỳ ở Trung cận đông, chuyển giao dịch thương mại ở Ðiạ trung hải cho thương nhân tây âu, làm cho hàng hóa từ phương Ðông chuyển đều đặn sang Phương Tây và nhiều hơn trước.
_ Về văn hóa , khoa học kỹ thuật :
Sau phong trào chữ thập, triết học, văn học , nghệ thuật, điêu khắc của người Hy lạp được du nhập vào Tây âu thông qua những người A rập, làm cho tầm hiểu biết của người Tây âu được mở rộng.
Lối sống xa hoa của Phương Ðông cũng được du nhập vào triều đình và bọn qúi tộc phương Tây.
Trong công nghiệp, những kỹ thuật tiên tiến của phương Ðông như luyện kim, dệt vãi bông ,nhuộm đã bổ sung cho kỹ thuật còn lạc hậu của Phương Tây.
Trong nông nghiệp, kỹ thuật làm thủy lợi, các giống cây trồng như lúa, bông,... được du nhập vào phương Tây. Ðặc biệt 3 phát minh lớn của người Trung hoa là La bàn, nghề làm giấy, thuốc súng cũng được đưa vào Tây âu thông qua các nước Trung cận Ðông.
_ Về chính trị xã hội :
Làm suy yếu quyền lực của chúa phong kiến, giúp cho việc tăng cường chính quyền quân chủ trung ương tập quyền. Tạo điều kiện để thị dân và nông nô thoát khỏi thân phận lệ thuộc.
Tuy nhiên, phong trào viễn chinh chữ thập đã tàn phá nền văn minh, tàn phá nền kinh tế và gây đau khổ cho hàng vạn người lớn và trẻ em,... làm kìm hãm sự phát triển của các nước Trung cận đông.
III. CÁC VƯƠNG QUỐC ANH - PHÁP XÂY DỰNG CHẾ ÐỘ CHÍNH TRỊ PHONG KIẾN TẬP QUYỀN
1- Ở PHÁP
Có thể nói trong các thế kỷ XI - XII, Pháp là quốc gia phong kiến phân quyền điển hình (vương quốc chia thành nhiều lãnh địa, trong đó có 14 đại lãnh địa - công quốc, bá quốc , giám mục khu...).
Trước tình hình đó năm 987, sau khi vua Louis V chết, vương triều Carolingiens ở Pháp kết thúc. Bọn bá tước Paris liên kết kại với nhau và bầu Hugnes Capet lên làn vua, lập nên triều Capetiens (triều đại nầy kéo dài đến cách mạng tư sản Pháp thì kết thúc).
Thế kỷ XII, thành thị Pháp ra đời và lực lượng thị dân ngày càng lớn mạnh, thị dân ra sức giúp vua đánh bại các thế lực PK cát cứ, do đó quyền lực của nhà vua ngày càng được tăng cường.
Sang thế kỷ XIII, các vua Pháp bằng chinh phục quân sự hay do hôn nhân thừ kế, đã xác nhập nhiều lãnh địa vào vương quôc. (lúc bấy giờ chỉ còn 4 đại lãnh địa là chưa xác nhập vào vương quốc là : FLANDER [ đông bắc Pháp] , BOURGOGNE [miền đông], BRETAGNE [tây bắc] và GUYENNE [tây nam]
Ðồng thời với việc mở rộng lãnh thổ, các vua Pháp còn chú ý đến việc xây dựng chính quyền trung ương tập quyền và tăng cường khống chế các chư hầu.
CHIẾN TRANH TRĂM NĂM GIỮA PHÁP VÀ ANH ( 1337 - 1453 )
- nguyên cớ :
Là sự tranh chấp sứ Flander giàu có , một bá quốc chư hầu cuả Vua Pháp, nhưng lại có quan hệ kinh tế chặt chẽ với Vua Anh ( sợi của Flander con thoi của Anh ).
- Nguyên nhân :
Vừa là cuộc xung đột lớn giữa hai quốc gia đang trên đường hoàn thành chế độ phong kiến tập quyền.
Vừa là cuộc đấu tranh quyết liệt để tiêu diệt thế lực cuối cùng của bọn phong kiến cát cứ.
- Diễn biến :
• Do có sự chuẩn bị trước về quân sự và ngoại giao, nên trong những trận giao tranh đầu quân đội Anh luôn luôn thắng thế ( trận thủy chiến ở Eïcluse 1340 , trận Crésy 1346 , đặc biệt là trận đại chiến ở Poitiers 1356 vua Pháp là Jean le bon cùng một số qúi tộc bị bắt làm tù binh ) .
Sau trận poitiers, tình hình nước Pháp trở nên đen tối, kinh tế bị tàn phá nặng nề, nền chính trị trở nên thối nát, đã dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế - chính trị những năm 1356 - 1358 và cuộc nội chiến 1358.
Sau cuộc nội chiến 1358, nước Pháp bị tàn phá nặng nề, buộc phải xin ký hòa ước đình chiến với Anh.
Sau hòa ước , vua Pháp Charles V khôn ngoan (1364 - 1380) được qúi tộc đem toàn lực ủng hộ, nhờ vậy vua tăng cường được quyền chuyên chế, trấn áp bọn phong kiến nổi loạn và đuổi được quân đội Anh ra khỏi nước Pháp ( vua Anh chỉ còn giữ lại được vài căn cứ : Calais, Bayon ).
Năm 1380, Charles V chết, Charles VI lên ngôi vì vua còn trẻ ( mới 14 tuổi ) nên triều đình bị bọn phong kiến nhũng loạn, đã tạo cơ hội cho chiến tranh trăm năm tái diễn, mãi đến năm 1453 mới kết thúc.
Nhìn chung , chiến tranh trăm năm đã làm cho kinh tế hai nước bị suy sụp, tuy nhiên sau chiến tranh, nhờ vào hoàn cảnh thống nhất đất nước, kết hợp với tinh thần lao động cần cù của nhân dân, nên Pháp đã sớm phục hồi kinh tế và phát triển nhanh chóng.
Hậu qủa lớn nhất do chiến tranh trăm năm để lại là làm cho bọn qúi tộc nghèo đi, nên một số đã chuyển sang làm nghề thủ công, một số tình nghuyện phục vụ trong triều đình nhà vua và trở thành tầng lớp qúi tộc quân sự và đình thần .
Sau khi kết thúc chiến tranh, Vua Pháp Louis IX bắt đầu xây dựng chính quyền trung ương tập quyền. Từ thế kỷ XV trở đi, Pháp đã hoàn thành thống nhất vương quốc (Lúc nầy các lãnh địa đã được xáp nhập vào vương quốc) , vương quốc được chia thành nhiều Tỉnh do vua chỉ định quan cai trị. Trong vương quốc thuế khoá, pháp luật, quân đội được thống nhất.
Cùng với việc thống nhất chính quyền, chủ nghiã dân tộc tư sản được hình thành, ý thức dân tộc bắt đầu nãy nở, ngoài tiếng địa phương, còn có tiếng Pháp chung và nền văn hóa chung.
2- Nước ANH chuyển từ chế độ phong kiến phân quyền sang chế độ phong kiến tập quyền
a - Chế độ phong kiến phân quyền ở Anh :
Vào nửa đầu thế kỷ XI (1066), Vương quốc Anglo-Sachxon nằm trên đảo Anh, bị William là công tước xứ Normandy xâm chiếm. (lúc nầy tại vương quốc Anglo-sachxon qúa trình nông nô hóa đang diễn ra và chưa hoàn thành). Vua Anh ( đồng thời là công tước xứ Normandy ) đã tịch thu rất nhiều ruộng đất và tài sản của những người chống lại Ông và lập nên lãnh địa của mình ( bằng 1/7 đất đai toàn quốc) . Số ruộng đất còn lại, vua đem ban cấp cho bọn đại qúi tộc ( Huân tước , bá tước) và đại tăng lữ. Bọn qúi tộc Anglo-sachxon đầu hàng hoặc không phản đối cũng được bảo đảm quyền lợi kinh tế như cũ.
Như vậy chế độ phong kiến phân quyền ở Anh được thành lập, tuy nhiên không sâu sắc và triệt để như ở Pháp và ở Ðức vì vua có quyền lực mạnh mẽ , khống chế cả bọn qúi tộc và tăng lữ địa phương.
Ðến thế kỷ XII, thành thị ở Anh pháp triển, Vua Anh đã nhận lấy tiền chuộc của thị dân và công nhận các bản hiến chương thành thị. Do đó Vua được một lực lượng hùng mạnh ủng hộ đó là thị dân.
Ðể xóa bỏ quyền lực của lãnh chúa địa phương, Vua Anh đã lập ra tòa án tuần hồi đi hết các địa phương để xét xử ( trừ nông nô vẫn bị xét xử trong tòa án của lãnh chúa).
Từ giữa thế kỷ XII trở đi, Họ Plantagenet lên cầm quyền ở Anh, đã đưa nước Anh hùng mạnh nhất Châu âu thời bấy giờ.
b - Khởi nghiã nông dân Wat - Tyler :
+ Nguyên nhân :
- Từ thế kỷ XIV trở đi, nền kinh tế hàng hóa ở Anh phát triển, nhưng nông dân Anh vẫn điêu đứïng vì phải nộp tô tiền.
- Do ảnh hưởng của nạn dịch đen làm cho nông dân đói khổ, mùa màng thất thu, nông dân lại phải cung cấp chiến phí cho chiến tranh. Nên một cuộc khởi nghiã nông dân đã nổ ra.
+ Diễn biến :
Khởi nghiả nổ ra vào năm 1381, do một người thợ nề tên là Wat-Tyler và nhà truyền giáo John Ball lãnh đạo.
- Ðịa điểm : Ban đầu nổ ra ở vùng Ðông Nam Anh, mạnh nhất là hai bá quốc Essex và Kent, sau đó lan ra phần lớn nước Anh.
-Tính chất: Trước tiên là chống thuế ( gọi là thuế toàn dân hay thuế đầu người, đánh vào mọi người từ 15 tuổi trở lên, không phân biệt trai gái) , về sau phong trào phát triển mạnh lên, nông dân chuyển sang bạo động chống áp bức bóc lột.
Thành phần tham gia : Gồm đại đa số nông dân ở hai bá quốc Essex & Kent, cùng một số thị dân nghèo ở các thành thị.
Nông dân đã tập hợp thành đội ngũ tấn công vào bọn qúi tộc, phá hủy các tu viện của giáo hội và lâu đài của lãnh chúa. Ðược sự ủng hộ của thị dân ( họ mở cửa kinh thành London), nghiã quân đả tấn công và chiếm giữ kinh thành trong 3 ngày (13,14,15 / 06/ 1381), đốt phá nhà cửa của hoàng tộc , giết một số quan to và đòi gặp Vua Richard II để đưa ra một số yêu sách.
Phái Essex đưa ra 4 yêu sách :
- Thủ tiêu chế độ nông nô.
- Ân xá những người khởi nghiã.
- Ðảm bảo tự do buôn bán trong cả nước.
- Qui định mức địa tô tiền cố định.
Phái Kent đưa ra 3 yêu sách :
- Chia ruộng đất của giáo hội cho nông dân.
- Nông dân được sử dụng mọi tài nguyên công xã.
-Thủ tiêu phân biệt đẳng cấp và pháp luật hà khắc.
- Kết qủa :
Cuộc đấu tranh của nông dân đã thu được một số kết qủa, nhưng do hai đạo quân không thống nhất hành động với nhau, lãnh tụ Wat-Tyler mất cảnh giác nên bị qúi tộc ám hại. Quân đội nhà Vua bí mật được triệu tập, đã kịp thời đàn áp, khởi nghiã thất bại. Tuy nhiên sau khởi nghiã, chế độ nông nô ở Anh không tồn tại được nữa..
c - Sự thành lập chính quyền quân chủ chuyên chế Anh :
Cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV ở Anh xãy ra cuộc nội chiến giữa hai giòng họ , lịch sử gọi đó là chiến tranh hai Hoa Hồng.
Nội chiến diễn ra trong 30 năm (1455 - 1585) , kết qủa cả hai phe đều bị tiêu diệt, quyền hành rơi rơi vào tay Henri Tudo (con rễ của giòng York)
Henri lập ra triều đại Tudo ( tồn tại đến cách mạng tư sản Anh 1640), được qúi tộc mới ( bọn kinh doanh theo phương thức TBCN : biến ruộng đất thành đồng cỏ chăn nuôi Cừu và thuê công nhân chăn nuôi) và thị dân dồn toàn lực ủng hộ để bảo vệ nền mậu dịch, chế phục lãnh chúa phong kiến và đàn áp phong trào nông dân.
Như vậy chế độ quân chủ chuyên chế Anh đã được thành lập vào cuối thế kỷ XIV .
IV- VĂN HÓA TÂY ÂU THỜI SƠ VÀ TRUNG KỲ TRUNG ÐẠI
Về mặt giáo dục :
Ở thời sơ kỳ, chỉ có một số trường học do nhà thờ và tu viện mở ra để đào tạo các tăng lữ
Sang thời trung kỳ, do nhu cầu về văn hoá giáo dục đòi hỏi được mở rộng, nhằm đào tạo trí thức chung cho xã hội phong kiến (,nhu cầu quản lý trang trại, mua bán ở thành thị) do đó một số trường Trung học và Ðại học được thành lập nhưng dạy với phương pháp giáo điều và hệ tư tưởng của chủ nghĩa kinh viện.
Về triết học :
Thời kỳ nầy trào lưu chính là triết học kinh viện, phái nầy chiếm địa vị thống trị, nó bênh vực cho quan điểm của giáo hội.
Về văn học :
Văn học thời sơ kỳ bị giáo hội chi phối nên nội dung hết sức nghèo nàn, không đáp ứng được nhu cầu văn hóa tinh thần trong xã hội nên phải nhường chổ cho nền văn hóa thế tục..
Về nghệ thuật :
Thời kỳ nầy có hai ngành nghệ thuật phát triển, đó là kiến trúc và hội họa.
Kiến trúc : phổ biến hai loại kiến trúc.
- Roman : Thịnh hành vào thế kỷ IX - XI, do bắt chước theo kiểu La mã, chủ yếu là dùng cổng vòm, nhưngthô kệch và nặng nề, tường dày, cửa sổ thấp và nhỏ,... nhưng có ưu điểm là vững chắc, phù hợp với yêu cầu phòng ngự trong chiến tranh.
- Gothique : Không chắc chắn bằng kiểu Roman, nhưngtrông vui và nhẹ nhàng hơn, có những cột cao và duyên dáng, có cửa sổ lớn, lấp kính màu, có nhiều tranh sặc sở ( nhà thờ Saint Deni - gần Paris, là nhà thờ đầu tiên xây dựng theo kiểu Gothique năm 1132).
- Hội họa : Hoàn toàn phục vụ giáo hội, nên nội dung khô khan, những bức họa thiếu chất sống vì dựa vào kinh thánh, với màu sắc âm u.
Tuy nhiên từ thế kỷ XIII trở đi , khi tư tưởng nhân văn xuất hiện, thì các ngành nghệ thuật mới bắt đầu chuyển biến, gần gũi với cuộc sống và con người hơn, gây được cảm xúc vui tươi sảng khoái cho người xem.
(Sưu tầm)