Các di chứng của bệnh nhân mắc Covid

Nghiên cứu mới nhất của "The Lancet" cho thấy gần một nửa số bệnh nhân COVID-19 vẫn còn di chứng sau 1 năm

Gần đây, Bệnh viện Vũ Hán Jinyintan, Viện Nghiên cứu Hô hấp Bệnh viện Hữu nghị Trung-Nhật Bắc Kinh và các nhóm khác đã cùng công bố trên tạp chí Lancet mới nhất về bệnh nhân hậu COVID-19. Nghiên cứu đã phân tích cụ thể ở những bệnh nhân COVID-19 đã xuất viện vì một năm và tình trạng sức khỏe của họ sau khi khỏi bệnh.

Nghiên cứu cho thấy gần một nửa số người sống sót sau COVID-19 vẫn còn di chứng sau một năm xuất viện. Di chứng Covid-19 (hay còn gọi là Covid dài hạn) dùng để chỉ các triệu chứng như mệt mỏi, hay quên, đau người, khó ngủ, rụng tóc, rối loạn khứu giác, vị giác,… kéo dài trong một thời gian dài. Các triệu chứng thường gặp nhất là mệt mỏi hoặc yếu cơ.

Nói cách khác, một số bệnh nhân nhiễm COVID-19 không thể hồi phục hoàn toàn sau một năm và sẽ mất nhiều thời gian hơn để họ đạt được tình trạng sức khỏe ban đầu trước khi bị nhiễm COVID-19.

Trong nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu đã theo dõi 2.218 bệnh nhân COVID-19 xuất viện từ bệnh viện Vũ Hán Jinyintan từ 2019 đến ngày 29/ 5 / 2020. Thời gian theo dõi dài nhất là 1 năm.

Trong quá trình theo dõi 6 tháng và 12 tháng, những người sống sót được phỏng vấn với bảng câu hỏi về các triệu chứng và chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe (HRQoL), cũng như khám sức khỏe, kiểm tra đi bộ 6 phút và các bài kiểm tra khác. Cuối cùng, 1276 người tình nguyện đã hoàn thành hai cuộc kiểm tra. Các nhà nghiên cứu cũng tuyển chọn những người tham gia không bị nhiễm trùng với dịch bệnh mới làm nhóm đối chứng. Nhóm đối chứng được phỏng vấn và hoàn thành bảng câu hỏi để đánh giá các triệu chứng chung và HRQoL.

Khi nhà nghiên cứu phân tích dữ liệu, những người tham gia được chia thành ba nhóm theo mức độ nghiêm trọng của giai đoạn nhập viện: Nhóm 3 (không cần ôxy bổ sung); nhóm 4 (cần ôxy bổ sung) và nhóm 5-6 (yêu cầu cao- đặt nội khí quản chảy máu mũi), thở máy không xâm nhập hoặc thở máy xâm nhập).

Kết quả chính của nghiên cứu là các triệu chứng mạch vành mới, thang đánh giá mức độ khó thở của bệnh nhân (điểm mMRC), điểm chất lượng cuộc sống và khoảng cách đi bộ 6 phút (6MWD).

Kết quả của nghiên cứu cho thấy 68% bệnh nhân có ít nhất một di chứng (831/1227) 6 tháng sau khi bệnh nhân xuất viện, và 49% có một hoặc nhiều di chứng vào thời điểm 12 tháng sau khi bệnh nhân xuất viện. Mệt mỏi hoặc yếu cơ là triệu chứng thường được báo cáo nhất trong hai lần điều tra.

Trong tổng số thuần tập và cả ba phân nhóm, các triệu chứng như mệt mỏi hoặc yếu cơ, khó ngủ, rụng tóc, rối loạn tiêu hóa máu và rối loạn tiêu hóa đã thuyên giảm đáng kể theo thời gian. Tuy nhiên, tỷ lệ bệnh nhân khó thở (khó thở) đặc trưng bởi điểm mMRC từ 1 trở lên tăng lên theo thời gian. Ở tháng thứ 6, tỷ lệ bệnh nhân khó thở là 26% (313/1185), và đến 12 tháng, tỷ lệ này đã tăng lên 30% (380/1271).

Ngoài ra, tình trạng lo âu và trầm cảm cũng tăng lên theo thời gian, ở tháng thứ 6, tỷ lệ lo âu và trầm cảm là 23%, đến tháng thứ 12, tỷ lệ này là 26%. Trong số đó, lo lắng hoặc trầm cảm nhẹ là chính.

Tiếp theo, các nhà nghiên cứu phân tích sâu hơn về tình trạng sức khỏe của những bệnh nhân được phục hồi dựa trên mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng bệnh mới.

Sau khi điều chỉnh đa biến, những người tham gia với mức độ nặng 5-6 có nguy cơ phát triển rối loạn phân tán phổi ở tháng thứ 12 cao hơn những người tham gia với mức độ 3. Lúc 12 tháng, 23% (13/56) bệnh nhân ở nhóm mức độ 3 có rối loạn khuếch tán phổi, trong khi tỷ lệ bệnh nhân ở nhóm 5-6 là 54% (38/70).

Rối loạn chức năng khuếch tán đề cập đến những trở ngại trong quá trình khuếch tán vật chất của O2, CO2 và các khí khác trao đổi qua màng phế nang. Về mặt lâm sàng, khi bệnh phổi sinh ra rối loạn chức năng khuếch tán, hậu quả của nó đều dẫn đến tình trạng thiếu oxy. Rối loạn khuếch tán phổi có thể được cho là do tổn thương biểu mô phổi, hoặc sự bất thường của kẽ phổi hoặc mạch máu phổi.

Điều này cho thấy, bệnh mạch vành mới càng nặng thì phổi càng bị tổn thương, dẫn đến tình trạng sức khỏe của phổi trong giai đoạn sau phục hồi chậm hơn.
COVID-19
Đồng thời, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng so với nam giới, phụ nữ dễ cảm thấy lo lắng, mệt mỏi hoặc yếu cơ hơn. Giá trị OR của mệt mỏi hoặc yếu cơ ở phụ nữ là 1,43, và giá trị OR của lo âu hoặc trầm cảm là 2,00. Ngoài ra, điều trị bằng corticosteroid trong giai đoạn cấp tính cũng làm tăng nguy cơ mệt mỏi hoặc yếu cơ (OR 1,51).

Tuổi tác cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến các triệu chứng lâu dài của bệnh nhân COVID-19. Kết quả của cuộc nghiên cứu cho thấy tuổi tác có tương quan thuận với chứng lo âu, trầm cảm và rối loạn lan tỏa. Cứ sau 10 tuổi, nguy cơ lo âu hoặc trầm cảm tăng 18% (OR 1,18), và nguy cơ rối loạn khuếch tán tăng 30% (1,30).

Di chứng lâu dài sẽ ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh về mọi mặt, thậm chí có người có thể tự tử vì không chịu được di chứng của bệnh Covid 19. Trước đó có thông tin cho rằng một CEO ở Mỹ đã tự tử vì không thể chịu đựng được những di chứng lâu dài.

di chung.jpeg


Các nhà khoa học NGA cũng đã có những nghiên cứu và cảnh báo về sự xuất hiện của bệnh thận mãn tính do COVID-19

89 nghìn người tiếp xúc với bệnh nhiễm trùng và 1,6 triệu người không nhiễm COVID-19 đã tham gia thử nghiệm. Kết quả cho thấy những người khỏe mạnh trong độ tuổi từ 30 đến 40 suy giảm chức năng thận khoảng 1% mỗi năm. Nhiễm trùng có thể gây ra tổn thương nghiêm trọng hơn hoặc không thể phục hồi cho cơ quan này, hoặc dẫn đến các bệnh mãn tính.

Nhà nghiên cứu Ziyad Al-Ali tuyên bố rằng 4.757 người mắc căn bệnh này đã bị mất 30% chức năng thận trong một năm. Theo ông, điều này tương tự như sự lão hóa của một cơ quan trong 30 năm.

Không rõ tại sao thận lại bị COVID-19 tấn công. Các nhà khoa học tin rằng cơ quan này nhạy cảm với các quá trình viêm khác nhau hoặc với sự kích hoạt của hệ thống miễn dịch.

Hiện tại, hầu hết mọi người ở đã được tiêm vắc-xin. Ngoài việc ngăn ngừa bệnh nặng, vắc xin cũng có thể làm giảm nguy cơ mắc các triệu chứng lâu dài. Nghiên cứu mới nhất cho thấy rằng so với nhóm đối tượng không được tiêm ngừa, tất cả những người tham gia đều trải qua thời gian dài (≥28 ngày) sau hai lần tiêm chủng.) Xác suất xuất hiện các triệu chứng là thấp ( 0, 51).

Những trường hợp nặng và di chứng của nhiễm trùng phổi mới là đòn chí mạng đối với bệnh nhân, và việc tiêm phòng không chỉ có thể ngăn ngừa những ca bệnh nặng mà còn bảo vệ người bệnh khỏi những di chứng của việc suy hại phổi.

Biên soạn: Phong Cầm
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top