Trang Dimple
New member
- Xu
- 38
Các con đường du nhập tư tưởng dân chủ tư sản vào Việt Nam
Luồng tư tưởng dân chủ tư sản tràn vào Việt Nam cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX chủ yếu qua 3 con đường chính: từ Pháp, từ
Nhật Bản và từ Trung Quốc.
Con đường du nhập tư tưởng này đến Việt Nam qua quá trình xâm lược và khai thác thuộc địa của Pháp ở Việt Nam là chủ yếu.
Người Pháp đến Việt Nam, bên cạnh bộ phận những người trong chính quyền thực dân, còn có những trí thức, hay các nhà khoa
học tới Việt Nam với mục đích nghiên cứu, dạy học… Và đặc biệt trong đó không thể không kể tới, đó chính là các giáo sĩ truyền
đạo Thiên Chúa, họ ít nhiều cũng đã mang tư tưởng bình đẳng của Chúa đến với giáo dân và ảnh hưởng sâu rộng tỉ lệ thuận với
quá trình phát triển của đạo Thiên Chúa đối với nhân dân Việt Nam. Lê-nin viết “Thế kỉ XIX là thế kỉ đem lại văn minh và văn hoá
cho toàn thể nhân loại đã tiếp diễn dưới dấu hiệu của đại cách mạng Pháp” . Hơn thế nữa, nền giáo dục Pháp ở Việt Nam mặc dù
với mục đích chính là đào tạo những người làm việc cho bộ máy cai trị chính quyền thực dân nhưng ít hay nhiều cũng mang đến
cho những người Việt Nam theo Pháp học có những hiểu biết về tư tưởng “ánh sáng” với Milê, người đã có quan niệm về chủ
nghĩa cộng sản không tưởng; Mông-te-xki-ơ với tư tưởng xây dựng hệ thống nhà nước “tam quyền phân lập, kiềm chế đối trọng”;
Vôn-te có tư tưởng chống độc tài phong kiến và nhà thờ Thiên Chúa; hay Đi-đơ-rô với quan điểm triết học duy vật và Rut-xô với
tư tưởng dân chủ cách mạng và nhà nước dân chủ,… Vì vậy, nền giáo dục Pháp ở Việt Nam không tránh khỏi đem những tư tưởng
này vào giới trí thức của nước ta.
Tư tưởng dân chủ tư sản ở Pháp đến Việt Nam không chỉ thâm nhập qua những người Việt Nam làm việc cho Pháp, các trí thức
Tây học trong nước, mà còn qua một lực lượng quan trọng là những người Việt Nam xuất ngoại sang Pháp. Những người Việt tới
Pháp gồm những nhà tư sản hay trí thức, bằng cách này hay cách khác sang Pháp học tập, làm ăn. Do Pháp ra sức ngăn cản
việc người Việt Nam đi du học nước ngoài, đặc biệt là qua Pháp vì sợ họ tiếp thu những thu tưởng mới nên số lượng này là không
nhiều ở nước ta lúc bấy giờ. Chiếm số lượng khá đông là người Việt Nam làm việc trên những chuyến tàu của Pháp (Bác Hồ cũng
từng làm việc như thế) hay bị đưa sang Pháp tham chiến trong cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất.
Đây là con đường tiếp cận tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây trực tiếp chính bằng trình độ nhận thức của người Việt. Tuy
nhiên, trong buổi đầu tư tưởng dân chủ tư sản du nhập vào, thành phần tiếp nhận có nhiều hạn chế giai cấp, lịch sử cùng với
không gian tiếp cận không đầy đủ nên phong trào yêu nước Việt Nam gắn với tư tưởng mới này chưa có sự chuyển biến rõ nét và
phát triển cao.
Con đường thứ hai truyền bá tư tưởng dân chủ tư sản tới Việt Nam là thông qua Nhật Bản. Cuộc Duy Tân Minh Trị ở Nhật Bản và
việc nước Nhật chiến thắng trong chiến tranh Nga-Nhật (1895) trong khi các nước Châu Á đều bị biến thành thuộc địa hay phụ
thuộc của các nước đế quốc thực dân. Điều đó khiến cho Nhật Bản trở thành tấm gương, một “anh cả da vàng” để các nước
khác học tập. Cuộc Duy Tân Minh Trị có ảnh hưởng rất lớn đến các nước Châu Á, trước hết là đối với Trung Quốc. Sau cuộc Duy
Tân Minh Trị 30 năm, một phong trào Duy Tân đã bùng nổ ở Trung Quốc. Người chủ xướng phong trào duy tân ở Trung Quốc là
Khang Hữu Vi. Ông muốn bắt chước Nhật Bản, cũng tiến hành một cuộc cải cách dưới trướng của một đấng minh quân. Nhưng do
hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước Trung Quốc không cho phép nên phong trào duy tân của Khang Hữu Vi bị thất bại. Cuộc
Minh Trị Duy Tân ở Nhật Bản cũng đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Việt Nam. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX các sĩ phu yêu nước Việt
Nam như cụ Phan Bội Châu đã hướng về Nhật Bản với lòng ngưỡng mộ và đã bỏ nhiều công sức để tìm con đường cứu nước tại
đất nước của Thiên hoàng Minh Trị này. Thậm chí, ở Trung Quốc cũng diễn ra một phong trào Đông du sang Nhật để học tập, và
sau Đông du ở Trung Quốc là phong trào Đông du ở Việt Nam. Nhật Bản cũng có những nhân vật ảnh hưởng đến các trào lưu tư
sản ở Nhật Bản mà cả với phong trào đấu tranh ở Việt Nam, như nhà tư tưởng dân chủ Fukuzawa Yukichi.
Khuynh hướng dân chủ tư sản cũng đến với Việt Nam nhờ rất nhiều vào một con đường khác là Trung Quốc. Đối với nước ta,
Trung Quốc không chỉ là nước đồng văn, đồng chủng mà còn là nước cùng cảnh ngộ, ảnh hưởng Nho giáo Trung Quốc ở Việt Nam
hết sức sâu đậm. Đầu thế kỉ XX cho đến chiến tranh thế giới thứ nhất, hầu hết các sĩ phu yêu nước, cách mạng đều xuất thân từ
tầng lớp sĩ phu Nho học. Số theo Tây học hồi đó còn rất hiếm do nhiều nguyên nhân khác nhau. Chưa có các nhà lãnh đạo cách
mạng xuất thân từ tầng lớp trí thức Tây học. Việc người Việt học tập những tư tưởng này qua Trung Quốc phần nào cũng vì tác
động từ những cuộc đấu tranh của trí thức tư sản Trung Quốc như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Tôn Trung Sơn,… qua cuộc
vận động biến pháp, qua cách mạng Tân Hợi,… Hơn thế nữa, cả hai nước đều sử dụng Hán tự. Chính vì những lí do đó mà tư
tưởng dân chủ tư sản qua Trung Quốc vào Việt Nam có vai trò rất lớn của Tân thư, Tân văn Trung Quốc bấy giờ. Và theo Tân
thư, Tân văn từ Trung Quốc, tư tưởng của những nhà “khai sáng” Pháp cũng được dịch truyền vào Việt Nam một cách phổ biến.
Tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây vào Việt Nam thông qua Nhật Bản và Trung Quốc rõ ràng đã có sự biến dạng nhất định. Bởi
vì đó là cách vận dụng, cách nhìn của phần lớn những nhà theo tư tưởng quân chủ lập hiến.
Cùng với sự thất bại của khuynh hướng cứu nước theo phong kiến, chính sách cai trị của chính quyền thực dân, sự khao khát độc
lập, tự do mãnh liệt của nhân dân Việt Nam càng tạo điều kiện cho những nhà yêu nước nhanh chóng tiếp thu tư tưởng dân chủ
tư sản, một tư tưởng mới và tiến bộ so với Việt Nam lúc bấy giờ.
NGUỒN: DIENDANKIENTHUC.NET*