Hoàng Sa - Trường Sa là Hải đảo lâu đời của VN
(Kỳ 6)
Bất chấp những sự thật , các học giả và nhà báo Trung Quốc đã có những cố gắng "bất thường" để chứng minh rằng toàn bộ biển Đông từ lâu luôn luôn là “một cái hồ nội địa” và Trung Quốc xa xô lại trở thành hàng xóm cạnh nhà của Brunei và Malaysia. Toàn bộ bài viết của học giả Roderik Ptak , giáo sư ngành Trung Quốc học của Đại học Tổng hợp Munich , phân tích và chứng minh những bằng chứng lịch sử mơ hồ; những lập luận gượng gạo của các học giả Trung Quốc về chủ quyền trên biển Đông.
Các tài liệu viết thời nhà Tống và nhà Nguyên
Tóm tắt
Bản tham luận này nghiên cứu những tài liệu tiêu biểu đời Tống, đời Nguyên và đời Minh nhằm tìm hiểu xem các học giả Trung Quốc thời “cận đại” và “trung đại” suy nghĩ như thế nào về các đảo san hô trong biển Đông. Có thể chứng minh được đôi điều: thứ nhất, thật khó có thể coi các tên được dùng trong các văn bản cổ là tương ứng với các địa điểm cụ thể nào đó; thứ hai, hầu hết các văn bản đều ám chỉ là các đảo đang được nhắc đến là các địa điểm nằm ngoài lãnh thổ Trung Quốc; thứ ba, một vài mô tả trong một số đoạn trích về các địa điểm này, cần được giải thích trong khuôn khổ văn học mà chúng nằm trong đó; thứ tư, hệ thống các tuyến đường thương mại giữa Trung Quốc và Đông Nam Á và một số hiểu biết về không gian đại dương có phần chịu ảnh hưởng của sự tồn tại của các nhóm đảo khác nhau. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, người ta cũng có ấn tượng là, không như các đồng nghiệp đời Thanh, các nhà địa lý Trung Quốc cổ khi nói đến các địa điểm này thường không biết về những gì mà họ đã đề cập đến hoặc chép lại. Vài tác giả chỉ đơn thuần xem chúng là các khu vực nguy hiểm, gắn chúng với những chuyện kỳ dị. Những chuyện thất thiệt như vậy cũng có thể tìm thấy trong các tập bản đồ ra đời trước đó. Phần cuối của tham luận này sẽ bàn đến những điều này và những vấn đề khác, đồng thời cũng sẽ sơ lược trình bày về vấn đề các bản đồ của Bồ Đào Nha thế kỷ 16.
Các tuyến đường thuyền buồm
Vào thời kỳ thuyền buồm, có hai tuyến đường thương mại chính nối liền miền Nam Trung Quốc với Đông Nam Á. Tuyến thứ nhất dẫn đến quần đảo Thất Châu ngoài khơi đảo Hải Nam và sau đó tiếp tục đi về hướng biển Việt Nam. Nó đi qua phía Tây nhóm đảo Hoàng Sa (Paracel). Tàu thuyền ít khi đi dọc bên phía Đông các đảo này. Đi xa hơn về phía Nam, tới gần Côn Đảo (Pulau Condore), tuyến đường chính chia ra nhiều hướng khác nhau. Một tuyến đi tới vịnh Thái Lan, tuyến thứ hai dẫn đến Patani và các địa điểm khác nằm dọc bờ biển Đông Mã Lai, và tuyến thứ ba tới Tg Datu nằm trên bờ Tây Bắc đảo Borneo.
Tuyến đường thương mại chính thứ hai nằm về phía Đông và nối liền Phúc Kiến với Quảng Đông tới bờ biển phía Tây Lũ Tống (Luzong). Tuyến đường này đi ngang qua phía Tây Nam đảo Đài Loan, hoặc quần đảo Đông Sa (Pratas), và sau đó tiếp tục đi về hướng vịnh Manila. Từ đây, nó rẽ vào đảo Mindoro, Palawan, Sabah, Brunei và các điểm khác nằm dọc bờ bắc đảo Borneo. Nó nối với nhánh Việt Nam - Bornéo của tuyến đường thương mại thứ nhất gần Tg Datu. Các nhánh khác của tuyến đường thương mại thứ hai đi qua biển Xulu (Sulu). Các nhánh này vươn dài tới tận Mindanao và quần đảo Xulu. Sau khi đi qua quần đảo Xulu, tàu thuyền sẽ đi vào biển Xêlếp (Celebes) và cuối cùng đi đến bờ biển Minhassa hoặc các đảo Sangir. Đi theo một cách khác, chúng có thể đi dọc bờ biển Mindanao. Từ đây hoặc từ nhóm đảo Sangir, chúng có thể đi tới các vùng trồng cây gia vị ở miền Đông Indonesia và Timor.[1]
Sự xuất hiện hệ thống đường đôi này có phần liên quan đến sự tồn tại của các đảo đá ở vùng trung tâm và vùng phía Tây Biển Đông. Đi lại trong các vùng biển này nhất là trong các khu vực tương đối rộng như quần đảo Laccadive hay xung quanh các nhóm đảo Andaman và Nicobar, được cho là rất khó khăn. Những cơn gió thất thường, các bãi cát, dòng chảy ngầm và nhiều chướng ngại khác gây ra những hiểm họa mà các nhà hàng hải phải tìm cách phòng tránh hoặc giảm thiểu chúng. Hai tuyến đường được phác thảo trên đây có thể có nhiều khả năng dự đoán trước hơn và an toàn hơn bởi vì chúng tránh xa các trở ngại của thiên nhiên. Do đó, giao thông đường trường giữa Trung Quốc và Đông Nam Á thường đi theo rìa ngoài Biển Đông. Chỉ trong những trường hợp hy hữu tàu thuyền mới đi thẳng từ đảo Borneo tới miền Nam Trung Quốc (hoàn toàn chỉ là giả định) bởi vì con đường này cắt ngang quần đảo Trường Sa (Spratly) và bãi ngầm Macclesfield (quần đảo Trung Sa). Giao thương trực tiếp từ Đông sang Tây có nghĩa là từ bờ biển Việt Nam tới Philippines, phía trên hay dưới 120 - 130 vĩ Bắc có thể thực hiện được và có lẽ đã được thực hiện vào thời trung đại, nhưng ta biết rất ít về mối liên hệ này.[2] Vào các giai đoạn sau đó, “kênh” này được các tàu thuyền đi từ Malacca tới Manila sử dụng.
Nhìn từ cả hai đầu mút phía Bắc và phía Nam, vùng trung tâm của Biển Đông đã tạo thành một trở ngại cho thương mại vào giao thông giữa vùng Đông Nam Á và vùng bờ biển Trung Hoa - ít nhất cho tới tận thế kỷ 16. Chỉ có vài đảo và bãi ngầm nằm rải rác ngang vùng biển này có thể tạo thành những điểm dừng chân nghỉ hoặc các điểm mốc cho ngư dân, đôi khi có lẽ là cho cả một ghe thuyền buôn bán nào đó bị trôi dạt khỏi tuyến đường chính, nhưng đối với số đông các nhà hàng hải thì phần lớn chúng không quan trọng và vẫn còn là các địa điểm khó nhận biết. Không một tài liệu nào trước thế kỷ 16, kể cả là tài liệu của các nước Đông Nam Á hay của Trung Quốc, quan tâm đến việc đưa ra mô tả địa lý đầy đủ về các khu vực này hay bàn về sự phân bố không gian của các nhóm đảo và đảo đá khác nhau; tất cả những gì chúng ta có về thời kỳ tiền châu Âu (chỉ thời kỳ trước khi người châu Âu thâm nhập vào châu Á - ND) là các đoạn tham chiếu mơ hồ trong một loạt các tài liệu phần lớn là của Trung Quốc mà chúng ta sẽ quay lại với chúng ngay bây giờ.[3]
Các tài liệu viết thời nhà Tống và nhà Nguyên
Thật sự là các tác phẩm cổ đại của Trung Quốc có nói bóng gió về sự tồn tại của các đảo trong Biển Đông nhưng các đoạn tham chiếu đó không thật rõ ràng và do đó tôi không đề cập đến ở đây.[4] Vào thời kỳ nhà Tống và nhà Nguyên, các đoạn trích được tìm thấy nhiều hơn. Thời đó, các đảo này thường được người ta gọi là “thạch đường” hoặc “trường sa”, theo nghĩa văn học là “bãi”, “dải đá”... Trong một số trường hợp cả hai tên/thuật ngữ này cùng tồn tại, trong các trường hợp khác chỉ một thành phần xuất hiện. Có rất nhiều cách viết và thường là có thành phần bổ tố “thiên lý” (ngàn dặm) và “vạn lý” (mười ngàn dặm) gắn thêm vào. Các học giả Trung Quốc đã có nhiều nỗ lực nhằm chứng minh rằng các tên này trong một số trường hợp là chỉ quần đảo Hoàng Sa (Paracel) và trong một số trường hợp khác chỉ bãi ngầm Macclesfield và quần đảo Trường Sa (Spratly); đôi lúc chúng còn được gắn với nhóm đảo Đông Sa nằm ở phần phía Đông Bắc biển Đông.
Thường thì mục tiêu của họ ở đây là chứng minh toàn bộ khu vực này là một phần của lãnh thổ Trung Quốc - một bộ phận cấu thành của bản đồ (bantu) Trung Quốc cổ, hay nước Trung Quốc cổ - từ buổi bình minh lịch sử cho đến thời hiện đại. Các “bằng chứng” khảo cổ cũng được viện dẫn ra để “chứng minh” rằng các học giả Trung Quốc đã đúng, nhưng dưới con mắt các nhà quan sát phương Tây hầu hết các tài liệu phát hiện về khảo cổ đều còn đáng nghi ngờ. Ngoài ra, đồ gốm sứ Trung Quốc và tiền đồng Trung Quốc được khai quật ở nhiều nơi thuộc Đông Nam Á, và không ai lại khẳng định rằng các nơi này hiện là một phần của Trung Quốc. Nói một cách đơn giản, sự xuất hiện của đồ gốm sứ và các cổ vật khác có lẽ chứng tỏ được điều gì đó hoặc chẳng chứng tỏ được gì; nó chưa hẳn là chứng minh cho sự hiện diện “liên tục” của người định cư và các viên chức chính quyền Trung Quốc tại một khu vực đã nêu.
Nhưng chúng ta nên quay lại với những tài liệu viết. Việc phân tích kỹ các đoạn trích tiêu biểu nhất trong các bản ghi lại từ thời Tống và thời Nguyên, tìm được trong các tác phẩm như là “Vũ Kinh tổng yếu” (1044), “Tống hội yếu di cảo”, “Dư địa kỷ thắng” (1227) và “Phương dư thắng lãm” (lời tựa nguyên bản năm 1239) cho thấy: các yêu sách hiện nay về quyền bá chủ của Trung Quốc khó được người ta ủng hộ.[5] Hầu như chẳng có gì gợi lên rằng các nhà địa lý Trung Quốc quan niệm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một phần của lãnh thổ Trung Quốc. Đôi lúc, tôi cũng đã cố gắng chứng minh rằng thuật ngữ truyền thống của Trung Quốc chỉ biên giới sẽ đề đạt điều ngược lại, đúng hơn là trong mắt các tác giả đời Tống và đời Nguyên, các đảo này nằm ngoài “cương vực biển” Trung Quốc.[6]
Bản thân các tác phẩm đời Tống và đời Nguyên cung cấp rất ít tư liệu về các đảo trong Biển Đông, nhưng ít ra chúng cũng đã gắn kết sự tồn tại của các đảo này với các khái niệm khác nhau về không gian. Phải đề cập qua về các tài liệu này trước khi chúng ta đi tiếp đến các tài liệu sau đó. Tác phẩm ra đời sớm nhất là cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Chu Khứ Phi (1178). Tác phẩm này đặt Trường Sa và Thạch Đường nằm trong “biển Đông”, gần vùng biển hỗn loạn gọi là Weilu. Đây là một địa điểm thần thoại vốn đã được nói tới nhiều trong cuốn Trang Tử (Zhuangzi). Hơn nữa, khu vực này còn được gắn một cách mơ hồ với “Nữ Quốc”, một nơi nào đó ở xa về phía Đông. Khi đọc nội dung này, ta thấy rõ ông Chu đã được thông báo khá rõ về tuyến đường biển phía Tây ven theo bờ biển Việt Nam (Tây dương châm lộ) nhưng lại hầu như không biết gì về tuyến đường phía Đông đi qua Lũ Tống (Luzon) - Philippines (Đông dương châm lộ - ND). Với ông, vùng biển bên ngoài Trường Sa và Thạch Đường vẫn còn là một vùng bí hiểm không có ranh giới rõ ràng. Do đó, có vẻ như các đảo ở Biển Đông tạo thành một kiểu thành luỹ thiên nhiên bên ngoài ranh giới phía Nam Trung Quốc.[7]
Cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp là tài liệu đầu tiên liệt kê từ Trường Sa cùng với từ Thạch Đường. Thường thì các tác phẩm ra đời sớm hơn nó chỉ có một từ/tên (Thạch Đường hoặc một danh từ khác) để chỉ các đảo trong Biển Đông. Do đó, ta có thể nói rằng, kể từ Chu Khứ Phi các nhà địa lý Trung Quốc bắt đầu ghi nhận các đảo này theo nghĩa nhiều hơn một nhóm hoặc cụm đảo.
Tác phẩm tiếp theo được xem xét đến ở đây là cuốn Chư Phiên Chí của Triệu Nhữ Quát (1225). Nhiều đoạn trong cuốn này được chép lại từ cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp. Các đoạn đề cập đến các đảo san hô được đưa vào phần mô tả chung về đảo Hải Nam và rõ ràng chúng có nhiều điểm tương tự như trong tác phẩm của Chu Khứ Phi. Các khái niệm về không gian trong hai tài liệu này cũng giống nhau. Bên cạnh đó, một số tên của các vùng biển này có lẽ chịu sự ảnh hưởng của Hồi giáo. Sự khác biệt lớn giữa hai tác phẩm này là: Triệu Nhữ Quát hiểu biết rõ hơn về tuyến đường phía Đông mặc dù ông chỉ mô tả nó cho tới đoạn đến Philippin, có lẽ là do ông không nhận thức được hình dạng thực sự của Biển Đông và ông vẫn còn tin tưởng là các đảo san hô nằm trong biển đó là một kiểu bờ rìa tự nhiên bên ngoài nó mọi cái còn lại đều không xác định.[8]
Vào thời nhà Nguyên, các khái niệm về không gian bắt đầu có sự thay đổi. Tuyến đường phía Tây ngày nay được kết nối với nhiều vùng biển Tây dương khác nhau, và tuyến đường phía Đông được kết nối với nhiều vùng biển Đông Dương khác nhau. Nói chung tuyến đường phía Đông, đi qua Philippin tới miền Đông quần đảo Indonesia được người ta biết rõ ràng hơn rất nhiều so với trước đây. Điều này được phản ánh qua một đoạn trong cuốn Đại Đức Nam Hải Chí (Dade Nanhai Zhi, 1304) và trong cuốn Đảo Di Chí Lược của Uông Đại Uyên (1349/50).[9]
Đại Đức Nam Hải Chí không đề cập đến các đảo ở Biển Đông một cách rõ ràng vì vậy chúng tôi để nó qua một bên. Nhưng cuốn Đảo Di Chí Lược của Uông Đại Uyên là một cuốn có giá trị vì nó có một đoạn mô tả riêng đầu tiên về các đảo này. Trong một dịp trước đây, tôi đã có giải thích rằng cuốn sách này của họ Uông bao gồm 99 phần (cộng thêm 1) viết về các xứ sở và phần viết về các đảo ở Biển Đông nằm trong phần số 81. Những nhận xét đánh giá khác về cấu trúc và hình thức của cuốn Đảo Di Chí Lược gợi cho ta thấy rằng sự sắp xếp thứ tự này có thể không phải là ngẫu nhiên. Trái lại, nhiều đặc điểm khác nhau trong nguyên bản có thể được người ta giải thích theo nghĩa các khái niệm thuật số đơn giản bắt nguồn từ địa lý cổ đại Trung Quốc. Nhưng điều đó không liên quan tới chúng ta ở đây. Chỉ cần nói rằng Uông Đại Uyên, cũng giống như hầu hết các học giả trước ông, có lẽ đã nhận thức các đảo trong Biển Đông như là rào chắn tự nhiên. Thú vị là, ông cũng gắn các đảo này với những phần khác của thế giới, bao gồm cả Triều Châu nằm trên lục địa Trung Hoa, khẳng định rằng chúng có lẽ được nối liền bởi "các mạch ngầm". Điều đó nhắc nhở cho ta về một đoạn ghi trong cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp của họ Chu trong đó các đảo trong Biển Đông được gắn với ba dòng chảy lớn chảy về các hướng khác nhau, toàn bộ khu vực vừa là một rào chắn vừa là một điểm tận cùng về địa lý tự nhiên.[10]
Những điều nêu trên đây hàm nghĩa là phần lớn Biển Đông và nhiều đảo trong đó tạo thành một bộ phận của một thế giới khác. Chỉ có phần phía Bắc của vùng biển này - vịnh Bắc Bộ (Giao Chỉ Dương) và cái gọi là Thất Châu Dương, nghĩa là vùng biển trải dài bao quanh đảo Hải Nam - là nằm trong "tầm tay" Trung Quốc.[11] Khu vực nằm gần và bao quanh Thạch Đường và Trường Sa là cái gì đó khác, đầy bí hiểm và bị cả Chu Khứ Phi và Uông Đại Uyên coi là vùng nguy hiểm. Tàu thuyền bị cuốn vào "tam giác Bermuda" này đều mất tích và không bao giờ quay lại. ("Tam giác Bermuda" là vùng biển bao bọc bởi quần đảo Bermuda, Puerto Rico và Florida, nơi nhiều tàu thuyền và máy bay được cho là bị mất tích đầy bí hiểm, đặc biệt trong thập niên 40 - ND).
Một đoạn trích cuối cùng (và rất khác biệt) có thể được dẫn ra ở mục này. Đoạn trích này được rút ra từ "Nguyên sử". "Nguyên sử" được soạn ra vào thời nhà Minh nhưng nói về thời nhà Nguyên. Chương 162 của tài liệu này nói hạm đội xâm lược giương buồm tiến về đảo Java (người Mông Cổ - Nguyên Mông muốn chinh phục đảo này) đã đi qua "Thất Châu Dương" và "Vạn Lý Thạch Đường" - rõ ràng là quần đảo Hoàng Sa - và sau đó tiếp tục đi qua vùng biên (giới) giữa Bắc Kỳ và Champa. Từ cái nhìn về những hiểm nguy luôn luôn đi liền với Thạch Đường, người ta tự hỏi tại sao hạm đội Nguyên Mông lại không tránh xa vùng này. Tuy nhiên có lẽ không nên quá coi điều lưu ý này là chính xác; có thể họ đã lựa chọn tuyến đường này nhằm thể hiện khả năng kỹ thuật ngoại hạng và sức mạnh quân sự.[12]
Các tài liệu của Trung Quốc thời kỳ nhà Minh hoặc là rất ít, hoặc có thì hoàn toàn không đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, thậm chí các bản đồ và tài liệu hàng hải cũng vậy. Tuy nhiên, các học giả, nhà báo Trung Quốc vẫn nỗ lực "bất thường" để chứng mình biển Đông vốn là "cái hồ nội địa" của mình, và nghiễm nhiên "kéo" Brunei và Malaysia trở thành hàng xóm, láng giềng của nước này.
Các tài liệu viết của Trung Quốc thời nhà Minh
Các tác phẩm đầu thời nhà Minh viết rất ít về quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Mã Hoan và Phí Tín hoàn toàn không đề cập đến chúng mặc dù cả hai ông đều đi thuyền theo hạm đội của Trịnh Hòa tới Ấn Độ Dương và do đó đã từng biết đến tất cả các điểm dừng chân và các điểm mốc dọc tuyến đường phía Tây. Có thể họ coi các đảo này là không quan trọng và do vậy đã không để ý đến việc nói về chúng. Chỉ có một đoạn ngắn ngủi trong một bài thơ của Mã Hoan (có lẽ viết vào năm 1416) có thể được người ta gắn với chúng. Trong lời của những chiếc cối xay: "Những con sóng đáng yêu cuộn giữa biển khơi trào đến vỗ bờ; một dải núi, những chỏm xanh trôi nổi, mờ dần và văng vẳng một cách bí hiểm" Một số học giả cho rằng từ "những chỏm xanh trôi nổi" (Thanh Loa) có lẽ thể hiện cái tên cổ "Cửu Nhũ Loa Châu" (Jiu Ru Luo Zhou) được ghi lại trong cuốn Vũ Kinh Tổng Yếu và thường được đánh đồng với các đảo san hô ở Biển Đông, nhưng sự giống nhau giữa các từ ngữ này có thể cũng chỉ là sự tình cờ.[13]
Một tác phẩm tiếp theo được viết xong hồi đầu thế kỷ 16: cuốn "Tây dương triều cống Điển lục" (Xiyang Chaogong Dianlu) (lời tựa ghi năm 1520). Sách nêu một số địa điểm dọc tuyến đường đi từ Phúc Kiến đến bờ biển Champa, nhưng không có địa điểm nào trong số này có thể được đồng nhất một cách chắc chắn với quần đảo Hoàng Sa hay quần đảo Đông Sa. Tuy nhiên đoạn mô tả về tuyến đường trong sách này lại có tầm quan trọng vì nó được sưu tập từ một cuốn chuyên luận về hàng hải hiện dã bị thất lạc.[14] Cũng vào khoảng thời đó, từ Trường Sa và từ Thạch Đường được nêu ra trong cuốn Chính Đức Quỳnh Đài Chí (Zhengde Qiongtai Zhi, 1521). Các đoạn trích có liên quan lại được dẫn lại từ các tác phẩm ra đời trước đó và gợi lại những tuyến đường tương tự trong cuốn Dư Địa Kỷ Thắng cùng những tác phẩm khác. Chúng không bổ sung gì mới cho những điều người ta vốn đã biết.[15]
Các đoạn trích khác có niên đại từ thế kỷ 16 của tài liệu Trung Quốc có thể tìm thấy trong các tác phẩm sau đây: ‘Hải Ngũ” (Haiyu) của Hoàng Trung (1536), cuốn “Hải Tra Dư Lộ” của Cô Giới (Gu Jie, 1540), cuốn Quảng Đông thông chí của Hoàng Tá (Huang Zuo, 1560) và nhiều bản đồ mà tôi sẽ nói đến chúng sau đây. Hoàng Trung đưa thêm từ “vạn lý” vào trước cả hai từ Trường Sa và Thạch Đường. Ngoài ra, ông còn nói rằng Vạn lý Trường Sa nằm về phía Đông Nam của Vạn lý Thạch Đường. Do đó, một số học giả Trung Quốc đã đồng nhất Vạn lý Trường Sa với quần đảo Trường Sa nằm ngoài khơi bờ biển Sarawak. Sẽ thực tế hơn khi chúng ta giả định rằng Hoàng Trung không thật sự hiểu rõ những gì mà ông ta đã đề cập đến khi nói về những vùng đất xa xôi đó. Có lẽ ông chỉ nói về chúng bởi vì ông muốn tìm cách thu hút sự chú ý của người đọc. Để làm được việc đó, ông đã gắn chúng với ma quỷ và với tất cả các loại hiện tượng kỳ dị, chẳng hạn như Lưu Sa Hà (sông Lưu Sa: sông cát trôi) và Nhược Thủy (nước yếu) là hai địa danh truyền thuyết trong tiểu thuyết Tây Du Ký và hàng tá tiểu thuyết khác.[16] Cô Giới (Gu Jie) và Hoàng Tá cũng theo khuynh hướng mới đó, ít nhiều lặp lại những ý tưởng của Hoàng Trung.[17]
Ta có thể tìm thấy các đoạn trích khác về các đảo trong Biển Đông trong các tác phẩm viết giữa và cuối thời nhà Minh. Hầu hết các tác phẩm này đều viết dựa vào các tài liệu viết trước và hiếm có bổ sung thêm gì mới cho những dữ liệu đã đưa ra trên đây. Thậm chí trong một số trường hợp chúng còn rất sai lạc. Ví dụ như trong cuốn Tây An Biên Lục của Luo Yuejiong (1597). Theo tài liệu này, Vạn Lý Thạch Đường nằm gần “nước Liuqiu”. Hơn nữa, “chỉ một phần mười số tàu thuyền bị gió Đông cuốn vào đó (các đảo đá) là còn sống sót”.[18] Ta có thể đưa ra hai lời bình luận: thứ nhất, vào cuối thế kỷ 16, từ Liuqiu là tên chỉ quần đảo Điếu Ngư nằm không xa đảo Đài Loan; thứ hai, ‘gió Đông’ đúng hơn cần phải thay bằng “gió Tây” hoặc “gió Bắc”.
Như đã nói, với chúng tôi hầu hết các đoạn trích trong các tác phẩm địa lý và dân tộc học cuối thời Minh đều ít đáng để quan tâm; vì vậy, tôi sẽ tiếp tục bằng việc xem xét các bản đồ và các chuyên khảo khác về hàng hải.
Các bản đồ và các tài liệu hàng hải của Trung Quốc
Có một số bản đồ giao thời Nguyên - Minh đáng để chú ý ở đây. Một tác phẩm quan trọng là một bản đồ thế giới của Triều Tiên có tên là Hunyi Jiangli Lidao guodu Zhitu (Hon-il Kangni Yoktae Kukto chi to) được soạn từ năm 1402. Nó dựa vào truyền thống của các nguồn tài liệu viết trước đó của Trung Quốc từ thế kỷ 14 hiện nay đã bị thất lạc. Bản đồ năm 1402, được lưu giữ lại qua một bản sao khoảng năm 1500, đầu tiên đã được một học giả Nhật - ông Ogawa Tajuji Needham kiểm nghiệm, trích dẫn Ogama, nói rằng bản đồ này liệt kê 100 địa điểm ở Châu Âu và Arores (những cái đối với độc giả Nhật đương thời có lẽ không là cái gì hơn ngoài một lời chú thích kỳ lạ). Kém đẹp mắt hơn, phần vẽ Châu Á đã thể hiện Trường Sa và Thạch Đường bằng những chấm đen ở đâu đó ngoài khơi bờ biển phía Nam Trung Quốc. Tuy nhiên cách thể hiện hai địa danh này trong bản đồ làm người ta rất khó đồng nhất chúng với những nhóm đảo cụ thể nào. Người ta tự hỏi tại sao một khu vực tương đối gần gũi như Biển Đông lại chỉ được thể hiện một cách nghèo nàn như vậy trong khi trái lại, những địa điểm xa xôi như trong vùng Tây Á lại được vẽ chính xác hơn rất nhiều. Một lần nữa câu trả lời đơn giản chỉ là chẳng có ai thật sự quan tâm đến các đảo đang nói. Tuy nhiên các học giả Trung Quốc đã đồng nhất chúng với cả hai, ba hay thậm chí cả bốn nhóm đảo: quần đảo Trường Sa, quần đảo Hoàng Sa, bãi ngầm Macclesfield, và nhóm đảo Đông Sa.[19]
Một tài liệu khác được xem xét đến ở đây là "Quảng Dư Đồ" (1555). Tập bản đồ này cũng được vẽ dựa vào các nguồn tài liệu trước đó, nghĩa là dựa vào các tác phẩm bản đồ của nhà địa lý nổi tiếng thời Nguyên, Chu Tư Bản (1273-1337). Các bản đồ của Chu Tư Bản hiện nay cũng đã thất lạc nhưng một bản đồ trong tập Quảng Dư Đồ - bản ông đã vẽ nhóm Trường Sa và Thạch Đường - đã cho ta ấn tượng về kiểu địa lý có thể giống với vào cuối thời Nguyên.[20] Các tác phẩm giữa và cuối thời Minh thường sử dụng những thông tin được sưu tầm lại từ Quảng Dư Đồ. Chúng thường có những bản đồ giống nhau hoặc tương tự về Biển Đông, Đông Nam Á, các đảo san hô và các địa điểm khác trong đó. Một ví dụ là trong cuốn "Đồ Thư Biên" của Chương Hoàng (biên soạn khoảng 1562-1577). Một ví dụ khác là trong cuốn Vũ Bị Chí của Mao Nguyên Nghi (1621).[21]
Cuốn Vũ Bị Chí cũng có nhiều loại bản đồ khác nhau thường được các nhà sử học gọi là “bản đồ Mao Kun”. Bản đồ này, hay đúng hơn là bản đồ hàng hải này, còn được biết đến với cái tên “Trịnh Hòa Hàng hải đồ”, miêu tả những tuyến đường biển mà đoàn thuyền của Trịnh Hòa đã đi theo hồi đầu thế kỷ 15. Rất có thể là chúng được vẽ vào thời kỳ đó. Các đảo san hô trong Biển Đông xuất hiện trong mảnh bản đồ về bờ biển tỉnh Quảng Đông. Ba cái tên/từ xuất hiện trên bản đồ này: Thất Tinh, Thạch Đường, Vạn Thắng Thạch Đường Tu, và Thạch Đường. Tên đầu tiên được gắn với một dải chấm chấm nhỏ thể hiện các đảo đá, bãi ngầm chìm dưới mặt nước. Khu vực này có thể được đồng nhất với bãi ngầm Maccalesfield và quần đảo Đông Sa. Như vậy hai tên còn lại sẽ thay thế cho quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Cả hai đều được vẽ là các quần đảo nhưng chỉ có một tên là có từ Tu (xu) nghĩa là “đảo nhỏ”. Có lẽ ở đây muốn chỉ ra rằng nhóm sau rộng hơn và “giống đảo” hơn nhóm trước. Tuy nhiên, cũng có thể có nhiều cách giải thích khác. Trong lần tái bản mới đây của bản đồ Mao Kun, Thất Tinh Thạch Đường được đồng nhất với nhóm đảo Đông Sa (Pratas), Vạn Thắng Thạch Đường Tu được đồng nhất với bãi ngầm Macclesfield và Thạch Đường được đồng nhất với quần đảo Hoàng Sa (mặc dù tại một trang khác của chính tác phẩm người ta có thể tìm thấy những cách giải thích khác).[22]
Người ta có thể tìm thấy trong các cuốn nhật ký hàng hải một số đoạn trích được sưu tập trong những đoạn dẫn giải về hàng hải. Khi chúng tôi nghiên cứu đến các tài liệu giai đoạn cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17, nhiều bằng chứng loại này xuất hiện nhiều hơn trong các chuyên luận về hàng hải khác nhau. Chúng có thể gắn với giai đoạn các nhà hàng hải ở Quảng Châu và Phúc Kiến cầm trịch các hoạt động thương mại của tư nhân Trung Quốc.[23] Không phải tất cả các cuốn nhật ký hàng hải thời này đều đề cập trực tiếp đến quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, nhưng phần lớn trong số chúng đều có những đoạn mô tả chi tiết tuyến đường từ Quảng Đông qua đảo Hải Nam tới bờ biển Việt Nam.[24] Ở đây chúng tôi sẽ chỉ dẫn ra 2, 3 ví dụ điển hình. Cuốn Đông Tây Dương Khảo của Trương Nhiếp (1617/18) có một mục viết về Thất Châu Dương với một đoạn đề cập tới Vạn Lý Thạch Đường.[25] Trong một đoạn thứ hai, tìm thấy ở một cuốn sách khuyết danh “Thuận Phong Tương Tống", một tác phẩm không rõ nguồn gốc và thời gian sáng tác, người ta nói là Vạn lý Thạch Đường có lẽ nằm về phía Đông của Ngoại La Sơn, nghĩa là Cù Lao Ré (Pulau Cantao) thuộc bờ biển Việt Nam. Ngoài ra, theo cuốn “Thuận Phong Tương Tống” “trong [Vạn Lý Thạch Đường] có (nhiều) đảo đá nhỏ” (Hồng Thạch Tu) không cao; nếu ta có thể nhìn thấy toàn bộ thân tàu, [thì nước] sâu, nếu bạn nhìn thấy đá [khu vực đó] phải tránh xa”. Trong trường hợp này, Vạn lý Thạch Đường là từ chỉ quần đảo Hoàng Sa, Hồng Thạch Tu có thể là tên chỉ một hoặc một số nơi trong nhóm đảo này hoặc chỉ là một từ chung ám chỉ hiện tượng tự nhiên (?) Một số học giả cho rằng đó là phần nhô lên của đảo Vĩnh Hưng (Đảo Phú Lâm - Woody island) thuộc nhóm An Vĩnh (Nhóm Vĩnh An theo tiếng Trung Quốc và Amphitrite theo tiếng Anh).[26] Đoạn trích vừa dẫn ra này cũng có thể tìm thấy trong một tác phẩm ra đời muộn hơn, cuốn “Chỉ Nam Chính Pháp"- khuyết danh. Tác phẩm này cũng đề cập tới một nơi được gọi là Nam Áo Khí, một địa điểm được người ta đồng nhất với quần đảo Đông Sa.[27]
Đến đây, chúng ta đã tới giai đoạn nhà Thanh - một giai đoạn mà tôi không muốn đưa vào trong bài ghi nhanh này bởi vì các chứng cớ có được rất khác. Chỉ cần nói rằng một số tác phẩm đời Thanh có nhiều chi tiết hơn, chẳng hạn như cuốn “Hải Quốc Văn Kiến Lục", “Hải Lục" và nhiều tác phẩm khác, và trên hết là một số cuốn nhật ký hàng hải phương Tây chưa bao giờ được nghiên cứu đến. Trước khi có thể đưa ra bất kỳ kết luận chung nào về giai đoạn này ta cần phải nghiên cứu một cách cẩn thận.
Những bằng chứng ban đầu trong tài liệu của Bồ Đào Nha
Có thể tìm thấy những bằng chứng ban đầu trong hiểu biết về hàng hải của Bồ Đào Nha về Biển Đông trong nhiều nguồn tài liệu, đặc biệt là trong các roteiros (cẩm nang hàng hải) và trong các bản đồ. Một số cuốn cẩm nang hàng hải đã được Manguin dịch và phân tích, và phần lớn các bản đồ có liên quan đã được sưu tập lại trong tập Portugaliae Monumenta Cartographica nổi tiếng.[28] Tác phẩm ra đời sớm nhất miêu tả tuyến đường tới Trung Quốc là do Francisco Rodrigues biên soạn khoảng năm 1511-1512. Thông tin để biên soạn cuốn này có lẽ được thu thập từ các hoa tiêu Mã Lai (và những địa phương khác) sau cuộc xâm lược Malacca năm 1511.
Nói chung, các thủy thủ Bồ Đào Nha, cũng như các đồng nghiệp Trung Quốc của họ đều sợ các đảo đá và bãi ngầm ở Biển Đông. Do đó nếu có khả năng, họ sẽ đi men theo đất liền lục địa Đông Nam Á, tránh đi cắt ngang trực tiếp qua vùng trung tâm biển này. Chỉ có những lần hy hữu, họ mới cố gắng đi qua quần đảo Hoàng Sa ven về phía Đông của quần đảo này. Thông thường thì tuyến này cũng phải đi qua phía Đông Pulau Saparo, còn gọi là Baixos de Pulau Sissir (có nhiều cách viết khác nhau). Cả hai đều nằm xa hơn rất nhiều về phía Nam với nghĩa là tuyến đường đi thuyền buồm “bên ngoài” xa hơn một chút so với tuyến đường đi men bờ biển an toàn hơn. Ta không rõ tuyến đường “bên ngoài” được khai phá lần đầu tiên vào thời gian nào. Hình như, người Trung Quốc cũng có khuynh hướng tránh đi tuyến đó vì chẳng có tài liệu Trung Quốc nào cho đến cuối đời Minh đề cập đến con đường này.[29]
Uông Đại Uyên, Cô Giới (Gu Jie) và những tác giả khác đều ám chỉ đến những mối nguy hiểm gắn liền với Trường Sa và Thạch Đường như chúng ta đã thấy. Trong trí tưởng tượng của các nhà địa lý và các nhà hàng hải Trung Quốc, những địa điểm thất thường này tạo thành một dải nằm ngang trải dài ở một nơi nào đó về phía Nam tỉnh Quảng Đông. Những bản đồ ban đầu của Bồ Đào Nha vẽ Biển Đông cũng tạo nên một hình ảnh tương tự. Chúng vẽ toàn bộ khu vực này từ quần đảo Hoàng Sa xuống tới Pulau Saparo là một vùng “hình lưỡi liềm” thẳng, khẳng định rằng nó gần như không thể đi qua được mặc dù không có chướng ngại gì lớn giữa quần đảo Hoàng Sa nằm ở đầu cuối phía Bắc vùng đó và Pulau Saparo nằm ở một đầu. Rõ ràng, lý do của việc sắp xếp như vậy là nhằm cảnh báo cho tàu thuyền đi lạc tuyến đường và bị cuốn vào vùng trung tâm Biển Đông.[30]
Vì vậy khu vực “hình lưỡi liềm” thấy trong bản đồ của Bồ Đào Nha cũng có tác động tâm lý giống như những “câu chuyện” đồn đại trong các tài liệu của Trung Quốc hoặc như dải cát được mô tả trong tài liệu Việt Nam hồi thế kỷ 15.[31] Trong mọi trường hợp, các thủy thủ đều được người ta yêu cầu phải tránh khu vực nguy hiểm này. tuy nhiên có một số khác biệt về mặt địa lý: ”khu vực” vẽ trong bản đồ của Bồ Đào Nha chạy song song với bờ biển Việt Nam và rõ ràng không bao gồm bãi ngầm Macclesfield; “dải thành luỹ” được mô tả trong tài liệu của Trung Quốc trải dài từ nhóm đảo Đông Sa tới quần đảo Hoàng Sa, ít nhiều song song với bờ biển Quảng Đông. Chỉ có trong một số tài liệu của Trung Quốc đem lại cho chúng tôi một chút gợi ý về khu vực tương tự với khu vực được người Bồ Đào Nha mô tả, nghĩa là nằm dọc theo bờ biển Việt Nam, giữa quần đảo Hoàng Sa nằm phía Bắc và một số điểm nằm xa hơn về phía Nam, Cuốn “Đông Tây Dương Khảo” và cuốn “Thuận Phong Tương Tống” đã dẫn ra ở trên, chẳng hạn đã cho biết Vạn Lý Thạch Đường và Vạn Lý Trường Sa nằm về phía Đông của Việt Nam. Điều này có thể hàm ý về một dải từ Bắc tới Nam. Hơn nữa, có một số câu cách ngôn xác định có một cái gì đó giống như một “đường vô hình” giữa nhóm đảo Thất Châu ở phía Bắc và Côn Đảo ở phía Nam, qua cách nói người ta nên cẩn thận lái thuyền đúng hướng khi đi qua hai điểm mốc này.[32]
Điểm khác biệt lớn thứ hai là, ngay từ ban đầu người Bồ Đào Nha đã có sự phân biệt rõ ràng giữa khu vực nguy hiểm giữa quần đảo Hoàng Sa và dải đảo san hô nằm dọc theo bờ bắc đảo Borneo - bao gồm quần đảo Trường Sa. Tuyến đường từ Malacca tới Tg Datu và Moluccas, vòng quanh Sabah được khai thác thường xuyên vì vậy các hoa tiêu Bồ Đào Nha có ý niệm rõ ràng về các khu vực này. Trái lại người Trung Quốc chưa bao giờ cố gắng thể hiện trên bản đồ các dải đá, đảo khác nhau này một cách thực tế. Như đã nói, thậm chí cả bản đồ hàng hải Mao Kun cũng rất mơ hồ và khó giải thích về chi tiết này.
Tuy nhiên điều thú vị là cả bản đồ hàng hải Mao Kun và hầu hết các bản đồ của Bồ Đào Nha đều chỉ ra các vùng nguy hiểm trong Biển Đông theo một cách giống nhau tức là bằng hàng trăm chấm chấm nhỏ. Những khu vực nguy hiểm khác ví dụ như quần đảo Mandive và Laccadive cũng được vẽ bằng các chấm như trong bộ sưu tập Monumenta Cartographica đã minh họa đầy đủ. Hình như điều này là một điểm chung duy nhất trong cách vẽ bản đồ giai đoạn đó.
Hàn Chấn Hoa phân tích thêm về cách vẽ quần đảo Hoàng Sa trong các bản đồ hàng hải của Bồ Đào Nha. Trước tiên, vùng “hình lưỡi liềm” được vẽ như một dải liên tục. Sau đó đôi lúc nó bị cắt bởi các tuyến ngang. Có tất cả khoảng 2, 3, 5 hay 6 tuyến ngang và vì vậy có tối đa là 7 vùng chấm chấm. Người ta không hiểu lắm về cách thể hiện như vậy. Nhưng bằng cách nào đó nó gợi lại những truyền thuyết gắn liền với những vùng nguy hiểm khác. Chẳng hạn như các tác phẩm của Trung Quốc khẳng định là có bảy “lối vào” dẫn qua quần đảo Andaman và Nicobar.[33]
Dựa trên những chứng cớ do Kamermer và các tác giả khác thu thập được, Hàn Chấn Hoa đã lưu ý chúng ta về một số điểm bổ sung quan trọng. Thứ nhất, theo họ Hàn, các đoạn trích ban đầu của Bồ Đào Nha về cái gọi là “ilhas da China” và “ilhas da Cantao” (có nhiều cách phát âm khác nhau) nên gắn với quần đảo Hoàng Sa. Thứ hai, ông này cũng tin rằng từ “Humen” (Houmen, v.v...) sau này được dùng cho “Boca Tigris” có thể hiểu là một số địa điểm ở nhóm đảo Hoàng Sa. Quan điểm này nhằm chứng minh rằng các nhà thám hiểm đầu tiên của Bồ Đào Nha đã ghé thăm các đảo này và quan trọng hơn, nhằm chứng minh rằng chúng thuộc phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc trong suốt giai đoạn này.[34]
Trong khi những mô tả nhận dạng và khẳng định này vẫn còn mơ hồ, một gợi ý khác có lẽ nên được coi là nghiêm túc. Bộ sưu tập Portugiliae Monumenta Cartographica có một bản đồ do, hoặc được vẽ theo phong cách của Fernão Vaz Dourado thể hiện địa danh “ilhas da Boi†as” gần với quần đảo Hoàng Sa. Họ Hàn thấy được sự phát âm gần gũi giữa địa danh này và cách gọi Ba Tu (đảo Ba), một tên địa phương mà ngư dân đảo Hải Nam dùng để chỉ đảo Vĩnh Hưng (đảo Phú Lâm) thuộc nhóm đảo Hoàng Sa. Ông này cũng gán những địa danh khó có thể xác định là “Pulau Mio” và “Paxo” với các đảo này nhưng một lần nữa, điều này có cái gì đó gượng gạo. Tất nhiên mục đích ở đây là nhằm nhấn mạnh các yêu sách quyền bá chủ của Trung Quốc.[35]
Kết luận
Vấn đề các đảo trong Biển Đông vẫn là một đề tài “tế nhị”. Các tài liệu của Trung Quốc không gợi cho người ta thấy rằng chúng là một phần của Đế chế Thiên triều thời Tống, Nguyên hay Minh (ghi chú: tôi không khảo cứu về thời nhà Thanh ở đây). Ở một mức độ nào đó, các thủy thủ Trung Quốc đã quen thuộc với chúng nhưng họ lại tránh đi đến đó. Những câu chuyện về ma quỷ, các đảo đá nguy hiểm và các dòng chảy ngầm bí hiểm lan truyền đồn đại từ đời này qua đời khác, do đó các chuyên luận và các bản đồ về địa lý không ghi chép gì cụ thể về khu vực này. Không chắc là người ta sẽ tìm được trong các tài liệu này các bằng chứng rõ ràng chứng minh cho một quan điểm ngược lại. Các thủy thủ đầu tiên người Bồ Đào Nha cũng có những sự dè chừng giống như vậy. Họ cũng cố gắng tránh xa những khu vực cạm bẫy này.
Dường như không có nơi định cư ổn định trên bất kỳ đảo san hô nào trong Biển Đông - ít nhất là trong giai đoạn được khảo cứu ở đây. Chỉ có một vài túp lều tạm do ngư dân dựng lên, có thể tồn tại ở đây một lúc nào đó, và đây hoàn toàn chỉ là giả thiết. Các tài liệu viết không gợi cho người ta về sự tồn tại của các làng mạc như vậy.[36] Chúng cũng không gợi cho người ta biết là quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Đông Sa đã được chính quyền Trung Quốc quản lý về mặt hành chính. Điều thú vị là, trường hợp quần đảo Bành Hồ (Pescadores) nằm gần đảo Đài Loan lại rất khác; ở đó, chúng ta có chứng cứ rõ ràng về các chuyến thăm viếng của người Trung Quốc và sự tồn tại của các đồn tạm thời của chính quyền. Bằng chứng sớm nhất có niên đại từ thời nhà Nguyên.[37] Nếu các đồn tương tự đã từng được thiết lập ở nhóm đảo Hoàng Sa hay Đông Sa thì việc đó chắc chắn sẽ được chép lại trong các tài liệu này nhưng chúng lại không ghi chép gì cả.
Bất chấp những tài liệu được phát hiện đó, các học giả và nhà báo Trung Quốc đã có những cố gắng bất thường để chứng minh rằng toàn bộ Biển Đông từ lâu luôn luôn là “một cái hồ nội địa”. Trên phạm vi thế giới, có lẽ không có trường hợp nào lại có tỷ lệ ấn phẩm trên mét vuông đất nổi cao như vậy. Một khía cạnh gây ngạc nhiên trong bộ máy tuyên truyền này là, hầu như mọi người Hoa - những người đang sống ở CHND Trung Hoa, ở Trung Hoa Dân Quốc và ở hải ngoại - đều ủng hộ quan điểm của Trung Quốc. Do đó, Trung Quốc trở thành hàng xóm cạnh nhà của Brunei và Malaysia. Thậm chí cả một người Trung Quốc đối lập nổi tiếng - Wei Jingsheng - người nổi tiếng với những cuộc khẩu chiến chống lại Chính phủ Bắc Kinh cũng có sự hòa nhịp tương tự (xem bài phỏng vấn mới đây với Karl-Heiz Ludwig trên nhật báo Die Welt, ngày 29/03/1999, tr. 8).
Roderik Ptak
Tiểu sử tác giả: Roderich Ptak là giáo sư ngành Trung Quốc học của Đại học Tổng hợp Munich. Các tác phẩm đã xuất bản của ông bao gồm một số cuốn sách và bài viết về lịch sử hàng hải, lịch sử thương mại, lịch sử địa lý châu Á ... dựa trên các nguồn tài liệu của Trung Quốc, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và các nguồn khác, và chủ yếu liên quan đến các giai đoạn cận đại và trung đại.
[1] Về những cuộc bàn luận ngắn về các tuyến đường này xin xem, ví dụ như Li Yukun, Tuyền châu Hải ngoại giao thông sử lược (Quanzhou haiwai jiaotong shilue), bộ Tuyền châu lịch sử văn hóa tùng thư (Quanzhou Lishi Wenhua congshu), Hạ môn: Hạ môn Đại học xuất bản xã (Xiamen: Xiamen Daxue Chubanshe, 1995) tr. 16-20, Phúc Kiến hàng vận sử (Fujian hangyun shi), Cổ, tân đại bộ phận (Gu, jindai bufen), bộ Trung Quốc Thủy vận sử tùng thư (Zhongguo shuiyun shi congshu), Băc Kinh, Nhân dân giao thông xuất bản xã (Renmin jiaotong chubanshe, 1994), tr. 80-97; J.V.Mills, “Các nhà hàng hải Trung Hoa tại quần đảo Philippin và Inđônêxia (Insulinde) vào những năm 1500 sau Công nguyên”, Quần đảo 18 (1979), tr. 69-93. Về những bàn luận chi tiết về tuyến đường phía Tây, từ Việt Nam tới Trung Quốc, xin xem Pierre-Yues Manguin, “Người Bồ Đào Nha tại bờ biển Việt Nam và Champa. Nghiên cứu về các tuyến đường biển và các mối quan hệ thương mại dựa theo các tài liệu của Bồ Đào Nha (thế kỷ 16-17-18), bộ Các ấn phẩm của trường Viễn Đông Bác Cổ của Pháp 81 (Paris: Trường Viến Đông Bác Cổ Pháp, 1972) tr.171 và những trang tiếp theo, các bản đồ trong phụ lục.
[2] Xem “Trung Quốc cổ ký trung du quán Phi luật tân tư liệu hội biên” (Zhongguo guji zhong youguan Feilỹbin ziliao huibian) (Trung Hoa Thư cục, 1980) do Trung Sơn Đại học Đông Nam Á, Lịch sử nghiên cứu Sở (Zhongshan daxue Dongnanya Lishi yanjiusuo) xuất bản, các đoạn trong các trang 10, 12, 13, 16; tái bản “Từ Tuyền châu tới vùng biển Xulu và bên ngoài: Những vấn đề có liên quan từ đầu thế kỷ 14”, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, 29/2 (1998), tr. 277 - 279.
[3] Có thể tìm thấy những đoạn trích về biển Nam Trung Hoa trong các tác phẩm của các nước Ả Rập, ví dụ như, G.R.Tibbetts, “Một nghiên cứu về các tác phẩm của các nước Ả Rập có các tư liệu về Đông Nam Á”, bộ, kho tài liệu dịch Phương Đông, N.S.44 (Leiden:E.J.Brill, 1979). Trướng Hải, một địa danh cổ của Trung Quốc dùng để chỉ một phần của biển Nam Trung Hoa, có mối liên hệ với một địa danh Ả Rập; xem, chẳng hạn như, Edward H.Schafer, “Con chim son. Nhà Đường hình dung về phương Nam” (Berkeley: Nhà xuất bản Đại học Tổng hợp California 1967) tr.138. - Trong các tài liệu của Việt Nam cũng có một só đoạn trích dẫn về biển Nam Trung Hoa; xem, ví dụ như, R. Dumoutier, “Nghiên cứu một hải đồ Việt Nam thế kỷ 15”, Tập san lịch sử địa lý và mô tả địa lý (1896); Võ Long Tê, “Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa theo các tác phẩm lịch sử và địa lý Việt Nam cổ”(Sài Gòn, 1974). Có thể tìm thấy các đoạn trích khác trong những tác phẩm như “An Nam Chí Lược”. Tuy nhiên trong bài nghiên cứu này của tôi không bao gồm các tác phẩm của Việt Nam. Về cách giải thích của Trung Quốc với các đoạn trích của tài liệu Việt Nam, xin xem, ví dụ như, Chen Shijian “Việt Nam sơn ngự đối ngoạ Tây Sa, Nam Sa quần đảo, bộ phận tiêu đảo địa danh” (Yuenan shanzi dui wo Xisha, Nansha qundao, bufen jiaodao diming”) trong Quảng Đông tỉnh địa danh vi nguyên hội (Guangdong sheng diming weiyuan hui, xuất bản) Nam Hải chư đảo địa danh tư liệu hội biên (Nanhai zhudao diming ziliao huibian) (Quảng Châu, Quảng Đông địa đồ xuất bản xã, 1987) tr. 545 - 552.
[4] Xin xem, ví dụ như, Khang Thái “Phù Nam Truyện” (thời Tam Quốc), được dẫn lại trong cuốn “Thái Bình Ngự lãm” của Lý Phỏng và những cuốn khác, bộ, “Quốc học cơ bản tùng thư”, 12 tập, (Đài Bắc: Tân Tinh Thư cục 1959), ii, j. 59, hồ sơ 3b (tr. 437d). Các ví dụ khác trong Liu Nanwei “Nam hải chư đảo cổ địa danh sơ đàm”, tr. 419, và trong Ju Jiwu “Nam hải chư đảo địa danh đắc sơ bộ nghiên cứu”, tr. 488-489, cả hai nằm trong “Nam hải chư đảo địa danh tư liệu hội biên”; Wang Yingjie; “Cổ đại Trung Quốc đối Nam hải chư đảo đảo tiêu địa lý nhân sĩ đắc phát triển”, trong “Trung Quốc Khoa học viện Nam Sa tổng hợp khoa học khảo sát đội” (Bản tổng hợp của đội khảo sát khoa học ở quần đảo Nam Sa, Viện Khoa học Trung Quốc) (chủ biên), “Nam Sa quần đảo lịch sử địa lý, nghiên cứu truyện ký” (Quảng Châu: Trung Sơn Đại học xuất bản xã, 1991) tr. 138-140; Marwyn S.Samuels “Tranh luận về biển Nam Trung Hoa” (Newyork: Methuen, 1982), tr. 10-11.
[5] Tăng Công Lượng (Zeng Gong Liang), và tập thể tác giả, “Vũ Kinh Tổng Yếu”, bộ “Trung Quốc binh thư kế thừa” 3-5 (Bắc Kinh: Cát Phương Quân xuất bản xã; Thẩm Dương: Liêu Thẩm Thư xã, 1988), “Thiên kỷ” j.21, hồ sơ 16a (ii, 1053). Xusong (Công ty) “Tổng hội yếu di cảo” 8 tập (Bắc Kinh: Trung Hoa thư cục, 1957), Viii, ce 197, tr.7748b (“Phiên di” 4, Champa) 7763b (“Phiên di” 4 Zhenlifu); Vương Tượng Chi, “Dư địa kỷ thắng”, bộ “Tống đại địa lý thư tứ trung”, 2 tập (Đài Bắc: Văn Hải xuất bản xã, 1963), ii, j.127, hồ sơ 2b (tr. 667d); “Phương dư thắng lãm”, Zhu Mu, 3 tập (Đài Bắc: Văn Hải xuất bản xã, 1981), ii, j.43, hồ sơ 6b (tr 908). Các đoạn trích trong hai cuốn vừa nêu hình như trở lại với cuốn “Quỳnh quản chí” (1203-1208) hiện đã thất lạc. Xin xem “Die Paracel - und Spratly - inseln in Sung - Yuan - und fruhen Ming - Texxten: Ein maritimes Grenzgebier?”, trong cuốn “Trung Quốc và các nước láng giềng: Các đường biên, quan điểm của các nước khác, chính sách đối ngoại, từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 19”, bộ “Nam Trung Hoa và hàng hải châu Á 6” (Wiesbaden Harrassowits Verlag, 1997), đặc biệt tại các trang 162-165. Về cuốn “Quỳnh quản chí”, xem thêm Lý Mặc “Quảng Đông phương chí yếu lục” (Quảng Châu: Quảng Đông tỉnh địa phương chí biên soạn vi nguyên hội ban công chí, 1987), tr. 434.
[6] Tái bản., "Die Paracel - und Spratly - inseln” Về một nghiên cứu khảo cứu về thuật ngữ biên giới truyền thống (tuy nhiên, phần lớn đều thuộc giai đoạn Minh-Thanh) xin xem Bodo Wiethoff, “Chinas dritte Greuze - Der traditionelle chinesische Staat und der kšstennale Seeraun”, bộ Veroffentlichungen des ostsien-instituts des Ruhr-Universitat Bochum (Wiesbachen: Harrassowith Verlag, 1969).
[7] Almut Netolitzky, “Das lingwai tai-ta von Chou Ch’u-fei. Eine Landeskunde Sudchinas aus dem 12. Jahrhundert”, bộ Muchener Ostasiatische Studien 21 (Wiesbaden: Franz Steiner Verlag, 1977), tr. 16-17, 36; Joseph Needam và những người khác, “Khoa học và văn minh Trung Hoa” (Cambridge: tại NXB Đại học Tổng hợp, 1954-), iV:3, tr. 548-550; tái bản., “Sudostasieus Meere nach Chinesischen Quellen (Song und Yuan)”, “quần đảo” 56 (1998), tr. 9. - Về Nữ quốc chép trong các tác phẩm của Trung Quốc, xin xem, ví dụ như, Paul Pelliot, “Ghi chép về Marco Polo, tác phẩm xuất bản sau khi ông qua đời” 3 tập. (Paris: Nhà in Quốc gia, Nhà sách Adrian-Maisonneuve, 1959-1973), i, tr. 671-725.
[8] Friedrich Hirth và W.W.Rokhill (tr.), "Triệu Nhữ Quát và công trình của ông về giao thương giữa Trung Quốc và Ả Rập vào thế kỷ 12 và 13, tiêu đề: Chư Phiên Chí” (tái bản, Đài Bắc: Hãng xuất bản Thành Văn, 1970), tr. 176, 1985, chú thích số 4; Samuels, “Phản đối”, tr. 16; tái bản., “Die Paracel - und Spratly - inseln”, tr. 165.
[9] Xem tái bản.,”Sudostasiens Meere”, tr. 17 và các trang tiếp theo.
[10] Xem Uông Đại Uyên (tác giả), Su Jiqing (xb.) “Đảo di chí lược giao sử”, bộ “Trung ngoại giao thông sử ký tùng san” (Bắc Kinh: Trung Hoa Thư cục, 1981), tr. 318; tái bản., “Quang cảnh hàng hải Châu Á qua hai tác phẩm đời Nguyên: Đảo di chí lược và Dị vật chí”, Tạp chí nghiên cứu về đời Tống và đời Nguyên, 25 (1995), tr. 54, 55; tái bản., “Chú giải cuốn Đảo di chí lược của Uông Đại Uyên (1939/50)” trong Claudine Salmon (xb.), “Truyện kể về những chuyến đi Châu Á: Loài giống, tập tục, khái niệm về không gian. Báo cáo tại Hội thảo EFEO-EHESS tháng 12/1994”, bộ Chủ đề nghiên cứu 5 (Paris: Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp, 1996), tr. 127-144; tái bản., “Die Paracel - und Spratly - inseln”, tr. 166-167. Về cuón “Lĩnh ngoại đại đáp”, xin xem chú thích số 7 trên đây. Chú ý: trong sách của Samuels có những cách giải thích sai, “Phản đối”, tr. 20.
[11] Về những vùng biển Thất Châu (Thất Châu Dương), xin xem, ví dụ như, những tiểu luận được sưu tạp trong cuốn “Nam hải chư đảo sử lược khảo chứng luận cứ” của Hàn Chấn Hoa (Bắc Kinh; Trung Hoa Thư cục, 1981).
[12] Tống Liêm, “Nguyên Sử”, 15 tập (Bắc Kinh: Trung Hoa Thư cục, 1976), Xiii, j.162, tr. 3802; Samuels, “Phản đối”, tr. 19; Jacques Dars, “Hàng hải Trung Quốc từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ 14”, bộ “Nghiên cứu lịch sử hàng hải Trung Quốc 11, (Paris: Economica, 1992), tr. 342.
[13] J.V.G. Mills (dịch), “Mã Hoan, Doanh nhai thắng lãm, Một khảo cứu toàn diện về các nước ven biển [1433]”, bộ Hakluyt Society Extra Serier 42 (Cambridge: Tại Nhà xuất bản Đại học tổng hợp, 1970) tr. 73 và chú thích số 4; Samulels, “Phản đối”; tr. 21; “Nam hải chư đảo địa danh tư liệu hội biên”, tr. 154 - Feixin nêu ta một câu cách ngôn có địa danh Thất Châu; Câu cách ngôn này có lẽ có liên quan đến một đoạn trích trong cuốn “Đảo dị chí lược” của Uông Đại Uyên. Xem J.V.G. Mills (dịch) tái bản “Tinh sai thắng lãm” (“Khảo cứu toàn diện về Huyền sao của Phí Tín”) bộ “Nam Trung Hoa và hàng hải châu Á 4” (Wiesbaden: Harrassowitz Verlag, 1996) tr. 40 và chú thích số 48; “Đảo di chí lược sử” tr. 218, 221, 222, chú thích số 48 - Về “Vũ kinh Tổng yếu” xin xem trích dẫn trong chú thích số 5 trên đây.
[14] Huang Shengzeng (Hoàng Tỉnh Tăng, tác giả), Hạ Phương (xb) “Tây dương Triều cống điển lục”, bộ “Trung ngoại giao thông sử ký tùng san” (Bắc Kinh: Trung Hoa thư cục, 1982), J. Shang, tr. 1, 3, chú thích số 14, 15, 16: J.Zhong, tr. 55; tái bản, “Die Paracel - und Spratly - insel” tr. 171, 172; cách giải thích sai trong “Phản đối” của Sanuels, tr. 21. Dữ liệu về các tuyến đường thuyền buồm trong “Tây dương Triều cống điển lục” được một số tác giả nghiên cứu chúng cũng được đưa vào trong cuốn “Trịnh Hoà hạ Tây dương tư liệu hội biên” tập 1, của Zheng Haosheng và Zheng Yilung (bs) (Tế Nam: Thất Lục thư xã, 1980) tr. 293 - 297.
[15] Xem Đường Chu, “Chính Đức Quỳnh Đài Chí”, bộ “Thiên dị cổ tàng Minh đại phương chí tuyển san” tr. 60, 61, 2 tập. (Thượng Hải: Thượng Hải Cổ Tịch Thư Điển, 1982), i, j. 4, Hồ sơ 2b - 3a; ii, j.21 hồ sơ 9a, tái bản., “Die Paracel -und Spratly - inseln”, tr. 165 - 166 và các chú thích tại các trang đó.
[16] Hoàng Trung, “Hải Ngũ”, bộ “Bách bộ Thông thư kế thừa, Lĩnh Nam Di Thư” (Đài Bắc: Di Văn Ấn Thư Quán, 1965), j. 3, hồ sơ 1b - 2a; Liu Nanwei, “Nam Hải chư đảo cổ địa danh sơ đàm”, tr. 420, 421; “Nam Hải chư đảo sử địa nghiên cứu trát tập”, đặc biệt là tr. 22 trong cuốn “Hải Ngũ” và biên giới Việt - Trung thời nhà Minh. Về Lưu Sa Hà và Nhược Thuỷ (Joshui), xin xem, ví dụ như, các đoạn trích trong tái bản., “Cheng Ho's Abeuteuer im Drawa und Roman der Ming - Zeit”, “Hsia His - yang: Eine Ubersetzung und Untersuchung”; “His - yang Chi: Ein Deutungsversunch, bộ Munchener Ostasiatische Studie 41 (Stuttgart: Franz Steiner Verlag, 1986), tr. 205 - 206 và chú thích số 5 tại các trang đó.
[17] Xem Cô Giới (Gu Jie), “Hải tra ngữ lục”, bộ “Bách bộ Thông thư kế thừa” “Ký lục hội biên” j.162 (Đài Bắc: Di Văn Ấn Thư Quán, 1965), hồ sơ 14a - b; Hoàng Tạc (HuangZuo) “Quảng Đông Thông Chí” 4 tập (Hongkong: Đại đồng đồ thư Công ty, 1977), IV, j, 79, hồ sơ 36b (tr.1906b).
[18] Luo Yehjiong (tác giả), Yusili (xb) “Tân An Tân lục” bộ “Trung ngoại giao thông sử ký tùng san” (Bắc Kinh: Trung Hoa Thư cục, 1983), h. 6, tr. 149.
[19] Xem, ví dụ như, Needham, “Khoa học”, iii, tr. 554 - 556; iV: 3 tr. 449 - 501; Ogawa Takuji, “Shina reikishi chiri kenkyu”, 2 tập. (Kyoto, 1928), chưa thấy; J.B. Harley và David Woodward (biên soạn), Joseph E. Schwartzberg và Cordell D.K. Yee (đồng biên soạn) “Thuật và bản đồ trong các xã hội truyền thống ở Đông Á và Đông Nam Á”, “Lịch sử nghề vẽ bản đồ” tập 22 (Chicago: NXBĐại học Tổng hợp Chicago, 1994), tr.244 - 249. Xem các thông tin thêm trong Yi chan, “Han' guk Kochido” (Seoul: Han' guk Tosogwanhak You'guhoe, 1977), “Han' guk Kochido” (Seoul: Pom' usa, 1991), và các tác phẩm khác.
[20] Needham, “Khoa học”, iii, tr. 551 - 55 - 4' WelterFuchs, “Tập bản đồ Trung Hoa thời Nguyên Mông của Chu Tư Bản và Quảng Dư Đồ, cùng 48 bản sao bản đồ có niên đại khoảng năm 1555”, bộ “Monumenta Serca Monograph 8” (Peiping: Đại học Tổng hợp FuJen, 1946) tr. 43 - 44 (các bản đồ).
[21] Thương Hoàng, “Đồ Thư biên”, bộ “Tứ khố Toàn thư châu bản”, Vũ Kí tự bộ, 244 - 267, 24 tập (Đài Bắc: Di Văn ấn Thu Quán, 1974) Xi, j. 51, Hồ sơ 17a, 19b “Thạch Đường” trên bản đồ thứ hai có lẽ chỉ một địa điểm khác ?); Mao Nguyên Nghi (bs) “Vũ Bị Chí” 22 tập. (Đài Bắc: Hoa Sử Xuất bản xã, 1984), XXi, j. 223, Hồ sơ 10b - 12a (tr. 9570 - 9573). Có thể tìm thêm những ví dụ khác trong “Hoàng dư khảo” (1557). “Hải Phòng tổng yếu” (1613), v.v ... Xem Lin Jinzhi, “Thạch Đường, Trường Sa địa danh tư liệu ký lục khảo sử” trong “Nam Hải chư đảo địa danh tư liệu hội biên”, tr. 426 (bài báo này được đăng lại trong “Nam Hải chư đảo sử địa chứng luận ký”).
[22] “Vũ Bị Chí”, XXii, j. 240, hồ sơ 10b - 11a (tr. 10196 - 10197); Samuels “Phản đối”, tr. 22; Mills, “Mã Hoan”, tr. 216, 217, 225, 272; Lin Nanwei “Nam Hải chư đảo cổ địa danh sơ đàm” tr. 420, LiuJinzhi, “Thạch Đường, Trường Sa địa danh tư liệu ký lục khảo sử” tr. 426 và các tài liệu khác; Manguin, “Người Bồ Đào Nha”, tr. 73, chú thích số 5; “Hải quân dương sách hội nghiên cứu sở” “Đại liên hải vận học nguyên hàng hải sử nghiên cứu sở” (biên soạn) “Tân biên Trịnh Hoà hàng hải đồ ký” (Bắc Kinh: Nhân dân giao thông xuất bản xã, 1988), tr. 40 - 43. - Hàn Chấn Hoa chú ý đến một bản đồ khác, “Vạn lý hải phòng đồ” (1561). Ông này tin rằng nó vẽ những đảo chính của nhóm đảo Hoàng Sa, nghĩa là, đảo Vĩnh Hưng (đảo Phú Lâm - Wood island), đối diện với Vạn Châu và Văn Xương (ở đảo Hải Nam). Xem cuốn “Thất luật sử ký toàn kí Putaoya ky tại tỉnh du quan Tây Sa quần đảo quý thư Trung Quốc đắc ký điều tư liệu khảo đính”, trong cuốn “Nam Hải chư đảo địa khảo chứng luận ký” của ông, tr. 167. Theo ông Hàn, bản đồ này nằm trong cuốn “Thắng Khai Nguyên Tạp chú” của Zheng Ruozeng J.Z, hồ sơ 28a, hiện tôi không có. Hàn nói rằng nó cũng có ở trong cuốn “Trù Hải Đồ biên” của Hồ Tông Hiến (1562). Tôi đã kiểm tra trong nội dung cuốn này in trong “Tứ Khố toàn thư châu bản” nhưng không có. Vào thời nhà Minh, Vạn Châu và Văn Xương là các đơn vị hành chính nằm trên đảo Hải Nam; Xem Yang Dechun, “Hải Nam đảo cổ đại giản sử” (Trường Xuân: Đông bắc sử phiên Đại học xuất bản xã, 1988), ví dụ tr. 7985 - về việc các bản đồ hiện đại chi tiết thể hiện đảo Vĩnh Hưng (đảo Phú Lâm) và một đảo nhỏ cạnh đó - đảo Thạch (Rocky island), xin xem “Nam hải chư đảo địa danh tư liệu hội biên, các bản đồ ở tr. 175, 181, 183. Bản đồ trang 183 chỉ rõ các điểm cao trên cả hai đảo này.
[23] Về các thời kì phát triển khác nhau của thương mại hàng hải thời Minh và các đặc trưng của chúng, xin xem tái bản., “Thương mại hàng hải thời Minh với Đông Nam Á, 1368 - 1567: Hình ảnh về một hệ thống”, trong Claude Guillot, Denys Lombard và tái bản. (biên soạn), “Từ Địa Trung Hải tới biển Trung Hoa: Những ghi chép đa dạng”, bộ “Biển Nam Trung Hoa và Hàng hải Châu Á 7” (Wiesbaden: Harrassowitz Verlag, 1998), tr. 157 - 191.
[24] Một tác phẩm có nhiều thông tin về các tuyến đường thuyền buồm là cuốn “Hải quốc quảng ký” của Thận Phàm. Các đoạn có liên quan được in trong Zheng Haosheng và Zheng YiLun, “Trịnh Hoà Hạ Tây dương tư liệu hội biên” tr. 306 - 327.
[25] Trương Nhiếp (tác giả) Hiệp Phương (xB). “Đông Tây Dương Khảo” bộ “Trung ngoại giao thông sử ký tùng san (Bắc Kinh: Trung Hoa thư cục, 1981), j. 9, Châu sử khảo, tr. 172 “Quỳnh Châu chí” được trích dẫn trong mục đầu tiên, và địa danh “Vạn Lý Thạch Đường” được gắn với cái tên “Thạch Đường Hải” phía đông Vạn Châu. Xem thêm Samuels, “Phản đối”, tr. 18.
[26] “Đông Tây Dương Khảo”, j.9, tr. 189; XiangDa (xb) “Lưỡng Trung Hải đảo Trần Tinh”, bộ “Trung ngoại giao thông sử ký tùng san” (Bắc Kinh Trung Hoa thư cục, 1982) tr. 27, 28, 33 (tr. 28 cũng có nêu địa danh Vạn lý Trường Sa trên hành trình trở về Trung Quốc); Mills “Mã Hoan” tr. 225, 274 (Cù lao Ré); Manguin, “Người Bồ Đào Nha”, tr. 60 (Pulau Cantao, cũng có nhiều cách phát âm khác); LinJinzhi, “Thạch Đường, Trường Sa địa danh tư liệu ký lục khảo sử”, tr. 428; Wang Yungjie, “Cổ đại Trung Quốc đối Nam Hải chư đảo đạo giáo địa lý nhân sĩ đắc phát triển”, tr. 146.
[27] “Lưỡng Trung Hải Đảo Trấn tinh”, tr.108, 117, 121, 122. Xem thêm, ví dụ như, Liu Nan Wei, “Nam Hải chư đảo cổ địa danh sơ đàm, tr. 421' Lin Jinzhi, “Đông Sa quần đảo lịch sử khảo lược” trong “Nam Hải chư đảo địa danh tư liệu hội biên”, tr. 477; “Quảng Đông tỉnh tân cổ địa danh từ điển biên soạn vi nguyên hội” (xb) “Quảng Đông tân cổ địa danh từ điển”, (Thượng Hải:Thượng Hải Tứ Thư xuất bản xã, 1991), tr. 971, 972.
[28] Armando Cortesão và Avelino Teixeira de Mota (xb), “Portugaliae Monumenta Cartographica”, 7 tập, (Lisbon: imprensa Nacional - Casa da Moeda, 1988; nguyên bản 1960).
[29] Có thể các thương nhân Bồ Đào Nha đi thuyền buồm “thẳng” từ Malacca tới Trung Quốc đã được các hoa tiêu Trung Quốc chỉ cho con đường “bên ngoài”. Xem Hàn Chấn Hoa “Thất lục sử ký” tr. 161, 162. Tuy nhiên, những lập luận do Mauguin thu thập được trong cuốn “Người Bồ Đào Nha” tr. 171 - 177 không tán thành khẳng định này. Rất có thể, tuyến đường “bên ngoài” mởi chỉ được sử dụng vào cuối thế kỷ 16 và chỉ trong một số ít lần hy hữu.
[30] Về địa danh theo tiếng Tây “Paracel”, nghĩa là “đảo đá” hay “bãi cạn”, xin xem, ví dụ như, Mauguin, “Người Bồ Đào Nha”, tr. 73, chú thích số 5. Hàn Chấn Hoa “Gu Palasai' er Kao”, tr.2, trong cuốn “Nam Hải chủ đảo sử địa khảo chứng luận ký” của ông, tr. 216 - 219, đã có nhiều chi tiết hơn về tên và thuật ngữ chung “barreiras” được dùng trước đó một thời gian. Ông này cho rằng “Paracel” thay cho toàn bộ “khu vực” và không phải chỉ riêng quần đảo Hoàng Sa.
[31] Dumoutier, “Nghiên cứu:, tr. 149 và tr. XiX; Mauguin, “Người Bồ Đào Nha”, tr. 73, chú thích số 5.
[32] Về “Thuận Phong Tương Tống” và Đông Tây Dương Khảo, xin xem chú thích số 27 trên đây. Có thể tìm thấy một câu cách ngôn trong cuốn “Mộng Lương Lục” (1275) của Ngô Tự Mục: “Khi đi thì sợ Thất Châu, khi về thì sợ Côn Lôn ...” (Bản tiếng Anh có trong Samuels, “Phản đối”, tr. 17; xem thêm các đoạn trích được dẫn ở trên trong chú thích số 13). Rõ ràng cả hai điểm mốc này đều là những địa điểm quan trọng mà các thủy thủ phải đi về phía Tây tuyến đường để tránh bị đắm tàu tại vùng nước phía Đông quần đảo Hoàng Sa. Về “Mộng Lương Lục”, xem thêm, ví dụ như, tái bản., “Die Paracel - und - Spratly - inseln”, tr. 174. Có một nhận xét thú vị là ngư dân Trung Quốc sử dụng từ “Thạch Đường” làm tên chỉ nhóm Vĩnh Nhạc (nhóm Tây) nhóm tạo thành “vành” phía Tây của quần đảo Hoàng Sa. Dong buồm từ Việt Nam về phía Đông, khoảng 16 độ và 17 độ vĩ Bắc người ta sẽ đi vào Thạch Đường. Về mối liên hệ giữa các địa danh Vĩnh Nhạc và Thạch Đường, xin xem, ví dụ như, “Nam Hải chư đảo địa danh tư liệu hội biên”, biểu tr. 69 (số 10), bản đồ tr. 75.
[33] Hàn Chấn Hoa “Gu 'Palasai'er Kao”, P.2, tr. 206-207; tái bản. “Doe Andamanen und Nikobaren nach chinesischen Quellen (Ende sung bis Ming)” “Zeitschrift der Deutchen Morgenlandischen Gesellschaft 140 (1990), tr. 356, 362; Mills/tái bản., “Tinh sai thắng lãm”, tr. 62. Mới đây, một số bản đồ trong bộ sưu tập “Portugaliae Monumenta Cartographica” cũng được công bố trong Alfredo Pinhero Marques, “A cartographica portuguesa do Japão (séculos XVI e XVII). Catálago das cartas portuguesas (Lisbon: Funda†ão Oriente, v.v...,n.d; lời tựa 1996). Luis Filipe Barreto và những người khác, “Cartographica de Macau Séculos XVI e XVII” (Lisbon: Missão de Macau em Lisboa, centro Cientdico e Cultural de Macau, 1997), và “Fernão Mendes Pinto e os mares da China” (Lisbon: cùng nhà xuất bản, 1998).
[34] Albert Kammerer, “Việc người Bồ Đào Nha khám phá Trung Hoa vào thế kỷ 16 và việc vẽ các hải đồ cổ” (Leiden: E.J.Brill, 1944, bổ sung cho “T’oung Pao” 39) đặc biệt tr. 10; Hàn Chấn Hoa, ‘Thất lục sử ký”, tr.162-164. - Tại một chỗ nào đó trong bài viết của mình, ông Hàn gắn địa danh “Cantao” với địa danh Gandao mà ngư dân Trung Quốc sử dụng. Rõ ràng là ‘Gandao” được dùng để chỉ Bắc Tiêu, nghĩa là đá Bắc (North Reef) nằm ở phần phía Tây Bắc của quần đảo Hoàng Sa. Về các địa danh, xin xem bảng trong “Nam hải chư đảo địa danh tư liệu hội biên”, tr. 69, và bản đồ tr.175 - Vấn đề này rất phức tạp vì ‘Cantao” (có nhiều cách viết khác nhau) thường được đồng nhất với Cù Lao Ré (xem chú thích số 26 trên đây). Cả Pulau Cantao và Bắc Tiêu nằm cách nhau không quá xa. Có thể một số thủy thủ lẫn lộn chúng với nhau.
[35] “Portugaliae Monumenta Cartographica”, ii, tr.285; Hàn Chấn Hoa, ‘Thất lục sử ký” tr.166-167, và “Gu’Palasai’er Kao”, P. 2, tr. 209 (bảng). Hàn nhận thấy mối liên hệ giữa “Pulau Mio” và các địa điểm như Maoxing và Maozhu được liệt kê trong các sổ tay hàng hải truyền thống được ngư dân Trung Quốc sử dụng. Một số trong các sách này (được gọi là ‘Thủy lộ bộ” hay ‘Canh lộ bộ” được in trong cuốn “Nam hải chư đảo địa danh tư liệu hội biên”. Về các địa dnah này, xin xem, ví dụ như, tr.70 (số 31), 71 (số 45) và 88 trong tác phẩm đó. - Những dữ liệu được sưu tập trong “Thủy lộ bộ’nhắc lại các chi tiết có trong các chuên khảo về hàng hải cuối thời Minh như “Thuận Phong Tương Tống”, nhưng rất có thể là nó có nguồn gốc sau đó rất xa. Tôi nghi là liệu ông He Jisheng và các tác gia khác có đúng khi khẳng định rằng cuốn “Thủy lộ bộ” có từ thời Minh-Thanh hay không; Thanh thì có thể chấp nhận được nhưng Minh xem ra hoàn toàn không thể. Xem “Thuỷ lộ bộ’ sơ đàm” của ông He trong “Nam hải chư đảo địa danh tư liệu hội biên” tr. 542 - 543.
[36] Như trên, tr. 542. He Jisheng dẫn ra một từ điển địa lý cuối thời Thanh hình như đã nói bóng gió về sự hiện diện của nông dân tại các đảo này, nhưng đoạn trích này rất mơ hồ. Hơn nữa, tài liệu được dẫn ra trong từ điển địa lý này không thể kiểm chứng và thời điểm mà ông He đưa ra (1488) không phù hợp với thời điểm mà tôi có thể tìm thấy trong danh mục hiện nay (1511). Về thời điểm năm 1511 xin xem Li Mo, “Quảng Đông Phương chí yếu lục”, tr. 435.
[37] Về Bành Hồ, xem, ví dụ như Cai PingLi, “Bành Hồ Thông sử” (Đài Bắc: Trung Văn đồ thư cố phần hữu hạn công ty, 1979).
(Kỳ 6)
Các đảo ở Biển Đông theo các tài liệu của Trung Quốc.
Roderik Ptak, giáo sư Đại học Tổng hợp Munich
Bất chấp những sự thật , các học giả và nhà báo Trung Quốc đã có những cố gắng "bất thường" để chứng minh rằng toàn bộ biển Đông từ lâu luôn luôn là “một cái hồ nội địa” và Trung Quốc xa xô lại trở thành hàng xóm cạnh nhà của Brunei và Malaysia. Toàn bộ bài viết của học giả Roderik Ptak , giáo sư ngành Trung Quốc học của Đại học Tổng hợp Munich , phân tích và chứng minh những bằng chứng lịch sử mơ hồ; những lập luận gượng gạo của các học giả Trung Quốc về chủ quyền trên biển Đông.
Các tài liệu viết thời nhà Tống và nhà Nguyên
Tóm tắt
Bản tham luận này nghiên cứu những tài liệu tiêu biểu đời Tống, đời Nguyên và đời Minh nhằm tìm hiểu xem các học giả Trung Quốc thời “cận đại” và “trung đại” suy nghĩ như thế nào về các đảo san hô trong biển Đông. Có thể chứng minh được đôi điều: thứ nhất, thật khó có thể coi các tên được dùng trong các văn bản cổ là tương ứng với các địa điểm cụ thể nào đó; thứ hai, hầu hết các văn bản đều ám chỉ là các đảo đang được nhắc đến là các địa điểm nằm ngoài lãnh thổ Trung Quốc; thứ ba, một vài mô tả trong một số đoạn trích về các địa điểm này, cần được giải thích trong khuôn khổ văn học mà chúng nằm trong đó; thứ tư, hệ thống các tuyến đường thương mại giữa Trung Quốc và Đông Nam Á và một số hiểu biết về không gian đại dương có phần chịu ảnh hưởng của sự tồn tại của các nhóm đảo khác nhau. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, người ta cũng có ấn tượng là, không như các đồng nghiệp đời Thanh, các nhà địa lý Trung Quốc cổ khi nói đến các địa điểm này thường không biết về những gì mà họ đã đề cập đến hoặc chép lại. Vài tác giả chỉ đơn thuần xem chúng là các khu vực nguy hiểm, gắn chúng với những chuyện kỳ dị. Những chuyện thất thiệt như vậy cũng có thể tìm thấy trong các tập bản đồ ra đời trước đó. Phần cuối của tham luận này sẽ bàn đến những điều này và những vấn đề khác, đồng thời cũng sẽ sơ lược trình bày về vấn đề các bản đồ của Bồ Đào Nha thế kỷ 16.
Các tuyến đường thuyền buồm
Vào thời kỳ thuyền buồm, có hai tuyến đường thương mại chính nối liền miền Nam Trung Quốc với Đông Nam Á. Tuyến thứ nhất dẫn đến quần đảo Thất Châu ngoài khơi đảo Hải Nam và sau đó tiếp tục đi về hướng biển Việt Nam. Nó đi qua phía Tây nhóm đảo Hoàng Sa (Paracel). Tàu thuyền ít khi đi dọc bên phía Đông các đảo này. Đi xa hơn về phía Nam, tới gần Côn Đảo (Pulau Condore), tuyến đường chính chia ra nhiều hướng khác nhau. Một tuyến đi tới vịnh Thái Lan, tuyến thứ hai dẫn đến Patani và các địa điểm khác nằm dọc bờ biển Đông Mã Lai, và tuyến thứ ba tới Tg Datu nằm trên bờ Tây Bắc đảo Borneo.
Tuyến đường thương mại chính thứ hai nằm về phía Đông và nối liền Phúc Kiến với Quảng Đông tới bờ biển phía Tây Lũ Tống (Luzong). Tuyến đường này đi ngang qua phía Tây Nam đảo Đài Loan, hoặc quần đảo Đông Sa (Pratas), và sau đó tiếp tục đi về hướng vịnh Manila. Từ đây, nó rẽ vào đảo Mindoro, Palawan, Sabah, Brunei và các điểm khác nằm dọc bờ bắc đảo Borneo. Nó nối với nhánh Việt Nam - Bornéo của tuyến đường thương mại thứ nhất gần Tg Datu. Các nhánh khác của tuyến đường thương mại thứ hai đi qua biển Xulu (Sulu). Các nhánh này vươn dài tới tận Mindanao và quần đảo Xulu. Sau khi đi qua quần đảo Xulu, tàu thuyền sẽ đi vào biển Xêlếp (Celebes) và cuối cùng đi đến bờ biển Minhassa hoặc các đảo Sangir. Đi theo một cách khác, chúng có thể đi dọc bờ biển Mindanao. Từ đây hoặc từ nhóm đảo Sangir, chúng có thể đi tới các vùng trồng cây gia vị ở miền Đông Indonesia và Timor.[1]
Sự xuất hiện hệ thống đường đôi này có phần liên quan đến sự tồn tại của các đảo đá ở vùng trung tâm và vùng phía Tây Biển Đông. Đi lại trong các vùng biển này nhất là trong các khu vực tương đối rộng như quần đảo Laccadive hay xung quanh các nhóm đảo Andaman và Nicobar, được cho là rất khó khăn. Những cơn gió thất thường, các bãi cát, dòng chảy ngầm và nhiều chướng ngại khác gây ra những hiểm họa mà các nhà hàng hải phải tìm cách phòng tránh hoặc giảm thiểu chúng. Hai tuyến đường được phác thảo trên đây có thể có nhiều khả năng dự đoán trước hơn và an toàn hơn bởi vì chúng tránh xa các trở ngại của thiên nhiên. Do đó, giao thông đường trường giữa Trung Quốc và Đông Nam Á thường đi theo rìa ngoài Biển Đông. Chỉ trong những trường hợp hy hữu tàu thuyền mới đi thẳng từ đảo Borneo tới miền Nam Trung Quốc (hoàn toàn chỉ là giả định) bởi vì con đường này cắt ngang quần đảo Trường Sa (Spratly) và bãi ngầm Macclesfield (quần đảo Trung Sa). Giao thương trực tiếp từ Đông sang Tây có nghĩa là từ bờ biển Việt Nam tới Philippines, phía trên hay dưới 120 - 130 vĩ Bắc có thể thực hiện được và có lẽ đã được thực hiện vào thời trung đại, nhưng ta biết rất ít về mối liên hệ này.[2] Vào các giai đoạn sau đó, “kênh” này được các tàu thuyền đi từ Malacca tới Manila sử dụng.
Nhìn từ cả hai đầu mút phía Bắc và phía Nam, vùng trung tâm của Biển Đông đã tạo thành một trở ngại cho thương mại vào giao thông giữa vùng Đông Nam Á và vùng bờ biển Trung Hoa - ít nhất cho tới tận thế kỷ 16. Chỉ có vài đảo và bãi ngầm nằm rải rác ngang vùng biển này có thể tạo thành những điểm dừng chân nghỉ hoặc các điểm mốc cho ngư dân, đôi khi có lẽ là cho cả một ghe thuyền buôn bán nào đó bị trôi dạt khỏi tuyến đường chính, nhưng đối với số đông các nhà hàng hải thì phần lớn chúng không quan trọng và vẫn còn là các địa điểm khó nhận biết. Không một tài liệu nào trước thế kỷ 16, kể cả là tài liệu của các nước Đông Nam Á hay của Trung Quốc, quan tâm đến việc đưa ra mô tả địa lý đầy đủ về các khu vực này hay bàn về sự phân bố không gian của các nhóm đảo và đảo đá khác nhau; tất cả những gì chúng ta có về thời kỳ tiền châu Âu (chỉ thời kỳ trước khi người châu Âu thâm nhập vào châu Á - ND) là các đoạn tham chiếu mơ hồ trong một loạt các tài liệu phần lớn là của Trung Quốc mà chúng ta sẽ quay lại với chúng ngay bây giờ.[3]
Các tài liệu viết thời nhà Tống và nhà Nguyên
Thật sự là các tác phẩm cổ đại của Trung Quốc có nói bóng gió về sự tồn tại của các đảo trong Biển Đông nhưng các đoạn tham chiếu đó không thật rõ ràng và do đó tôi không đề cập đến ở đây.[4] Vào thời kỳ nhà Tống và nhà Nguyên, các đoạn trích được tìm thấy nhiều hơn. Thời đó, các đảo này thường được người ta gọi là “thạch đường” hoặc “trường sa”, theo nghĩa văn học là “bãi”, “dải đá”... Trong một số trường hợp cả hai tên/thuật ngữ này cùng tồn tại, trong các trường hợp khác chỉ một thành phần xuất hiện. Có rất nhiều cách viết và thường là có thành phần bổ tố “thiên lý” (ngàn dặm) và “vạn lý” (mười ngàn dặm) gắn thêm vào. Các học giả Trung Quốc đã có nhiều nỗ lực nhằm chứng minh rằng các tên này trong một số trường hợp là chỉ quần đảo Hoàng Sa (Paracel) và trong một số trường hợp khác chỉ bãi ngầm Macclesfield và quần đảo Trường Sa (Spratly); đôi lúc chúng còn được gắn với nhóm đảo Đông Sa nằm ở phần phía Đông Bắc biển Đông.
Thường thì mục tiêu của họ ở đây là chứng minh toàn bộ khu vực này là một phần của lãnh thổ Trung Quốc - một bộ phận cấu thành của bản đồ (bantu) Trung Quốc cổ, hay nước Trung Quốc cổ - từ buổi bình minh lịch sử cho đến thời hiện đại. Các “bằng chứng” khảo cổ cũng được viện dẫn ra để “chứng minh” rằng các học giả Trung Quốc đã đúng, nhưng dưới con mắt các nhà quan sát phương Tây hầu hết các tài liệu phát hiện về khảo cổ đều còn đáng nghi ngờ. Ngoài ra, đồ gốm sứ Trung Quốc và tiền đồng Trung Quốc được khai quật ở nhiều nơi thuộc Đông Nam Á, và không ai lại khẳng định rằng các nơi này hiện là một phần của Trung Quốc. Nói một cách đơn giản, sự xuất hiện của đồ gốm sứ và các cổ vật khác có lẽ chứng tỏ được điều gì đó hoặc chẳng chứng tỏ được gì; nó chưa hẳn là chứng minh cho sự hiện diện “liên tục” của người định cư và các viên chức chính quyền Trung Quốc tại một khu vực đã nêu.
Nhưng chúng ta nên quay lại với những tài liệu viết. Việc phân tích kỹ các đoạn trích tiêu biểu nhất trong các bản ghi lại từ thời Tống và thời Nguyên, tìm được trong các tác phẩm như là “Vũ Kinh tổng yếu” (1044), “Tống hội yếu di cảo”, “Dư địa kỷ thắng” (1227) và “Phương dư thắng lãm” (lời tựa nguyên bản năm 1239) cho thấy: các yêu sách hiện nay về quyền bá chủ của Trung Quốc khó được người ta ủng hộ.[5] Hầu như chẳng có gì gợi lên rằng các nhà địa lý Trung Quốc quan niệm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một phần của lãnh thổ Trung Quốc. Đôi lúc, tôi cũng đã cố gắng chứng minh rằng thuật ngữ truyền thống của Trung Quốc chỉ biên giới sẽ đề đạt điều ngược lại, đúng hơn là trong mắt các tác giả đời Tống và đời Nguyên, các đảo này nằm ngoài “cương vực biển” Trung Quốc.[6]
Bản thân các tác phẩm đời Tống và đời Nguyên cung cấp rất ít tư liệu về các đảo trong Biển Đông, nhưng ít ra chúng cũng đã gắn kết sự tồn tại của các đảo này với các khái niệm khác nhau về không gian. Phải đề cập qua về các tài liệu này trước khi chúng ta đi tiếp đến các tài liệu sau đó. Tác phẩm ra đời sớm nhất là cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Chu Khứ Phi (1178). Tác phẩm này đặt Trường Sa và Thạch Đường nằm trong “biển Đông”, gần vùng biển hỗn loạn gọi là Weilu. Đây là một địa điểm thần thoại vốn đã được nói tới nhiều trong cuốn Trang Tử (Zhuangzi). Hơn nữa, khu vực này còn được gắn một cách mơ hồ với “Nữ Quốc”, một nơi nào đó ở xa về phía Đông. Khi đọc nội dung này, ta thấy rõ ông Chu đã được thông báo khá rõ về tuyến đường biển phía Tây ven theo bờ biển Việt Nam (Tây dương châm lộ) nhưng lại hầu như không biết gì về tuyến đường phía Đông đi qua Lũ Tống (Luzon) - Philippines (Đông dương châm lộ - ND). Với ông, vùng biển bên ngoài Trường Sa và Thạch Đường vẫn còn là một vùng bí hiểm không có ranh giới rõ ràng. Do đó, có vẻ như các đảo ở Biển Đông tạo thành một kiểu thành luỹ thiên nhiên bên ngoài ranh giới phía Nam Trung Quốc.[7]
Cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp là tài liệu đầu tiên liệt kê từ Trường Sa cùng với từ Thạch Đường. Thường thì các tác phẩm ra đời sớm hơn nó chỉ có một từ/tên (Thạch Đường hoặc một danh từ khác) để chỉ các đảo trong Biển Đông. Do đó, ta có thể nói rằng, kể từ Chu Khứ Phi các nhà địa lý Trung Quốc bắt đầu ghi nhận các đảo này theo nghĩa nhiều hơn một nhóm hoặc cụm đảo.
Tác phẩm tiếp theo được xem xét đến ở đây là cuốn Chư Phiên Chí của Triệu Nhữ Quát (1225). Nhiều đoạn trong cuốn này được chép lại từ cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp. Các đoạn đề cập đến các đảo san hô được đưa vào phần mô tả chung về đảo Hải Nam và rõ ràng chúng có nhiều điểm tương tự như trong tác phẩm của Chu Khứ Phi. Các khái niệm về không gian trong hai tài liệu này cũng giống nhau. Bên cạnh đó, một số tên của các vùng biển này có lẽ chịu sự ảnh hưởng của Hồi giáo. Sự khác biệt lớn giữa hai tác phẩm này là: Triệu Nhữ Quát hiểu biết rõ hơn về tuyến đường phía Đông mặc dù ông chỉ mô tả nó cho tới đoạn đến Philippin, có lẽ là do ông không nhận thức được hình dạng thực sự của Biển Đông và ông vẫn còn tin tưởng là các đảo san hô nằm trong biển đó là một kiểu bờ rìa tự nhiên bên ngoài nó mọi cái còn lại đều không xác định.[8]
Vào thời nhà Nguyên, các khái niệm về không gian bắt đầu có sự thay đổi. Tuyến đường phía Tây ngày nay được kết nối với nhiều vùng biển Tây dương khác nhau, và tuyến đường phía Đông được kết nối với nhiều vùng biển Đông Dương khác nhau. Nói chung tuyến đường phía Đông, đi qua Philippin tới miền Đông quần đảo Indonesia được người ta biết rõ ràng hơn rất nhiều so với trước đây. Điều này được phản ánh qua một đoạn trong cuốn Đại Đức Nam Hải Chí (Dade Nanhai Zhi, 1304) và trong cuốn Đảo Di Chí Lược của Uông Đại Uyên (1349/50).[9]
Đại Đức Nam Hải Chí không đề cập đến các đảo ở Biển Đông một cách rõ ràng vì vậy chúng tôi để nó qua một bên. Nhưng cuốn Đảo Di Chí Lược của Uông Đại Uyên là một cuốn có giá trị vì nó có một đoạn mô tả riêng đầu tiên về các đảo này. Trong một dịp trước đây, tôi đã có giải thích rằng cuốn sách này của họ Uông bao gồm 99 phần (cộng thêm 1) viết về các xứ sở và phần viết về các đảo ở Biển Đông nằm trong phần số 81. Những nhận xét đánh giá khác về cấu trúc và hình thức của cuốn Đảo Di Chí Lược gợi cho ta thấy rằng sự sắp xếp thứ tự này có thể không phải là ngẫu nhiên. Trái lại, nhiều đặc điểm khác nhau trong nguyên bản có thể được người ta giải thích theo nghĩa các khái niệm thuật số đơn giản bắt nguồn từ địa lý cổ đại Trung Quốc. Nhưng điều đó không liên quan tới chúng ta ở đây. Chỉ cần nói rằng Uông Đại Uyên, cũng giống như hầu hết các học giả trước ông, có lẽ đã nhận thức các đảo trong Biển Đông như là rào chắn tự nhiên. Thú vị là, ông cũng gắn các đảo này với những phần khác của thế giới, bao gồm cả Triều Châu nằm trên lục địa Trung Hoa, khẳng định rằng chúng có lẽ được nối liền bởi "các mạch ngầm". Điều đó nhắc nhở cho ta về một đoạn ghi trong cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp của họ Chu trong đó các đảo trong Biển Đông được gắn với ba dòng chảy lớn chảy về các hướng khác nhau, toàn bộ khu vực vừa là một rào chắn vừa là một điểm tận cùng về địa lý tự nhiên.[10]
Những điều nêu trên đây hàm nghĩa là phần lớn Biển Đông và nhiều đảo trong đó tạo thành một bộ phận của một thế giới khác. Chỉ có phần phía Bắc của vùng biển này - vịnh Bắc Bộ (Giao Chỉ Dương) và cái gọi là Thất Châu Dương, nghĩa là vùng biển trải dài bao quanh đảo Hải Nam - là nằm trong "tầm tay" Trung Quốc.[11] Khu vực nằm gần và bao quanh Thạch Đường và Trường Sa là cái gì đó khác, đầy bí hiểm và bị cả Chu Khứ Phi và Uông Đại Uyên coi là vùng nguy hiểm. Tàu thuyền bị cuốn vào "tam giác Bermuda" này đều mất tích và không bao giờ quay lại. ("Tam giác Bermuda" là vùng biển bao bọc bởi quần đảo Bermuda, Puerto Rico và Florida, nơi nhiều tàu thuyền và máy bay được cho là bị mất tích đầy bí hiểm, đặc biệt trong thập niên 40 - ND).
Một đoạn trích cuối cùng (và rất khác biệt) có thể được dẫn ra ở mục này. Đoạn trích này được rút ra từ "Nguyên sử". "Nguyên sử" được soạn ra vào thời nhà Minh nhưng nói về thời nhà Nguyên. Chương 162 của tài liệu này nói hạm đội xâm lược giương buồm tiến về đảo Java (người Mông Cổ - Nguyên Mông muốn chinh phục đảo này) đã đi qua "Thất Châu Dương" và "Vạn Lý Thạch Đường" - rõ ràng là quần đảo Hoàng Sa - và sau đó tiếp tục đi qua vùng biên (giới) giữa Bắc Kỳ và Champa. Từ cái nhìn về những hiểm nguy luôn luôn đi liền với Thạch Đường, người ta tự hỏi tại sao hạm đội Nguyên Mông lại không tránh xa vùng này. Tuy nhiên có lẽ không nên quá coi điều lưu ý này là chính xác; có thể họ đã lựa chọn tuyến đường này nhằm thể hiện khả năng kỹ thuật ngoại hạng và sức mạnh quân sự.[12]
Các tài liệu của Trung Quốc thời kỳ nhà Minh hoặc là rất ít, hoặc có thì hoàn toàn không đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, thậm chí các bản đồ và tài liệu hàng hải cũng vậy. Tuy nhiên, các học giả, nhà báo Trung Quốc vẫn nỗ lực "bất thường" để chứng mình biển Đông vốn là "cái hồ nội địa" của mình, và nghiễm nhiên "kéo" Brunei và Malaysia trở thành hàng xóm, láng giềng của nước này.
Các tài liệu viết của Trung Quốc thời nhà Minh
Các tác phẩm đầu thời nhà Minh viết rất ít về quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Mã Hoan và Phí Tín hoàn toàn không đề cập đến chúng mặc dù cả hai ông đều đi thuyền theo hạm đội của Trịnh Hòa tới Ấn Độ Dương và do đó đã từng biết đến tất cả các điểm dừng chân và các điểm mốc dọc tuyến đường phía Tây. Có thể họ coi các đảo này là không quan trọng và do vậy đã không để ý đến việc nói về chúng. Chỉ có một đoạn ngắn ngủi trong một bài thơ của Mã Hoan (có lẽ viết vào năm 1416) có thể được người ta gắn với chúng. Trong lời của những chiếc cối xay: "Những con sóng đáng yêu cuộn giữa biển khơi trào đến vỗ bờ; một dải núi, những chỏm xanh trôi nổi, mờ dần và văng vẳng một cách bí hiểm" Một số học giả cho rằng từ "những chỏm xanh trôi nổi" (Thanh Loa) có lẽ thể hiện cái tên cổ "Cửu Nhũ Loa Châu" (Jiu Ru Luo Zhou) được ghi lại trong cuốn Vũ Kinh Tổng Yếu và thường được đánh đồng với các đảo san hô ở Biển Đông, nhưng sự giống nhau giữa các từ ngữ này có thể cũng chỉ là sự tình cờ.[13]
Một tác phẩm tiếp theo được viết xong hồi đầu thế kỷ 16: cuốn "Tây dương triều cống Điển lục" (Xiyang Chaogong Dianlu) (lời tựa ghi năm 1520). Sách nêu một số địa điểm dọc tuyến đường đi từ Phúc Kiến đến bờ biển Champa, nhưng không có địa điểm nào trong số này có thể được đồng nhất một cách chắc chắn với quần đảo Hoàng Sa hay quần đảo Đông Sa. Tuy nhiên đoạn mô tả về tuyến đường trong sách này lại có tầm quan trọng vì nó được sưu tập từ một cuốn chuyên luận về hàng hải hiện dã bị thất lạc.[14] Cũng vào khoảng thời đó, từ Trường Sa và từ Thạch Đường được nêu ra trong cuốn Chính Đức Quỳnh Đài Chí (Zhengde Qiongtai Zhi, 1521). Các đoạn trích có liên quan lại được dẫn lại từ các tác phẩm ra đời trước đó và gợi lại những tuyến đường tương tự trong cuốn Dư Địa Kỷ Thắng cùng những tác phẩm khác. Chúng không bổ sung gì mới cho những điều người ta vốn đã biết.[15]
Các đoạn trích khác có niên đại từ thế kỷ 16 của tài liệu Trung Quốc có thể tìm thấy trong các tác phẩm sau đây: ‘Hải Ngũ” (Haiyu) của Hoàng Trung (1536), cuốn “Hải Tra Dư Lộ” của Cô Giới (Gu Jie, 1540), cuốn Quảng Đông thông chí của Hoàng Tá (Huang Zuo, 1560) và nhiều bản đồ mà tôi sẽ nói đến chúng sau đây. Hoàng Trung đưa thêm từ “vạn lý” vào trước cả hai từ Trường Sa và Thạch Đường. Ngoài ra, ông còn nói rằng Vạn lý Trường Sa nằm về phía Đông Nam của Vạn lý Thạch Đường. Do đó, một số học giả Trung Quốc đã đồng nhất Vạn lý Trường Sa với quần đảo Trường Sa nằm ngoài khơi bờ biển Sarawak. Sẽ thực tế hơn khi chúng ta giả định rằng Hoàng Trung không thật sự hiểu rõ những gì mà ông ta đã đề cập đến khi nói về những vùng đất xa xôi đó. Có lẽ ông chỉ nói về chúng bởi vì ông muốn tìm cách thu hút sự chú ý của người đọc. Để làm được việc đó, ông đã gắn chúng với ma quỷ và với tất cả các loại hiện tượng kỳ dị, chẳng hạn như Lưu Sa Hà (sông Lưu Sa: sông cát trôi) và Nhược Thủy (nước yếu) là hai địa danh truyền thuyết trong tiểu thuyết Tây Du Ký và hàng tá tiểu thuyết khác.[16] Cô Giới (Gu Jie) và Hoàng Tá cũng theo khuynh hướng mới đó, ít nhiều lặp lại những ý tưởng của Hoàng Trung.[17]
Ta có thể tìm thấy các đoạn trích khác về các đảo trong Biển Đông trong các tác phẩm viết giữa và cuối thời nhà Minh. Hầu hết các tác phẩm này đều viết dựa vào các tài liệu viết trước và hiếm có bổ sung thêm gì mới cho những dữ liệu đã đưa ra trên đây. Thậm chí trong một số trường hợp chúng còn rất sai lạc. Ví dụ như trong cuốn Tây An Biên Lục của Luo Yuejiong (1597). Theo tài liệu này, Vạn Lý Thạch Đường nằm gần “nước Liuqiu”. Hơn nữa, “chỉ một phần mười số tàu thuyền bị gió Đông cuốn vào đó (các đảo đá) là còn sống sót”.[18] Ta có thể đưa ra hai lời bình luận: thứ nhất, vào cuối thế kỷ 16, từ Liuqiu là tên chỉ quần đảo Điếu Ngư nằm không xa đảo Đài Loan; thứ hai, ‘gió Đông’ đúng hơn cần phải thay bằng “gió Tây” hoặc “gió Bắc”.
Như đã nói, với chúng tôi hầu hết các đoạn trích trong các tác phẩm địa lý và dân tộc học cuối thời Minh đều ít đáng để quan tâm; vì vậy, tôi sẽ tiếp tục bằng việc xem xét các bản đồ và các chuyên khảo khác về hàng hải.
Các bản đồ và các tài liệu hàng hải của Trung Quốc
Có một số bản đồ giao thời Nguyên - Minh đáng để chú ý ở đây. Một tác phẩm quan trọng là một bản đồ thế giới của Triều Tiên có tên là Hunyi Jiangli Lidao guodu Zhitu (Hon-il Kangni Yoktae Kukto chi to) được soạn từ năm 1402. Nó dựa vào truyền thống của các nguồn tài liệu viết trước đó của Trung Quốc từ thế kỷ 14 hiện nay đã bị thất lạc. Bản đồ năm 1402, được lưu giữ lại qua một bản sao khoảng năm 1500, đầu tiên đã được một học giả Nhật - ông Ogawa Tajuji Needham kiểm nghiệm, trích dẫn Ogama, nói rằng bản đồ này liệt kê 100 địa điểm ở Châu Âu và Arores (những cái đối với độc giả Nhật đương thời có lẽ không là cái gì hơn ngoài một lời chú thích kỳ lạ). Kém đẹp mắt hơn, phần vẽ Châu Á đã thể hiện Trường Sa và Thạch Đường bằng những chấm đen ở đâu đó ngoài khơi bờ biển phía Nam Trung Quốc. Tuy nhiên cách thể hiện hai địa danh này trong bản đồ làm người ta rất khó đồng nhất chúng với những nhóm đảo cụ thể nào. Người ta tự hỏi tại sao một khu vực tương đối gần gũi như Biển Đông lại chỉ được thể hiện một cách nghèo nàn như vậy trong khi trái lại, những địa điểm xa xôi như trong vùng Tây Á lại được vẽ chính xác hơn rất nhiều. Một lần nữa câu trả lời đơn giản chỉ là chẳng có ai thật sự quan tâm đến các đảo đang nói. Tuy nhiên các học giả Trung Quốc đã đồng nhất chúng với cả hai, ba hay thậm chí cả bốn nhóm đảo: quần đảo Trường Sa, quần đảo Hoàng Sa, bãi ngầm Macclesfield, và nhóm đảo Đông Sa.[19]
Một tài liệu khác được xem xét đến ở đây là "Quảng Dư Đồ" (1555). Tập bản đồ này cũng được vẽ dựa vào các nguồn tài liệu trước đó, nghĩa là dựa vào các tác phẩm bản đồ của nhà địa lý nổi tiếng thời Nguyên, Chu Tư Bản (1273-1337). Các bản đồ của Chu Tư Bản hiện nay cũng đã thất lạc nhưng một bản đồ trong tập Quảng Dư Đồ - bản ông đã vẽ nhóm Trường Sa và Thạch Đường - đã cho ta ấn tượng về kiểu địa lý có thể giống với vào cuối thời Nguyên.[20] Các tác phẩm giữa và cuối thời Minh thường sử dụng những thông tin được sưu tầm lại từ Quảng Dư Đồ. Chúng thường có những bản đồ giống nhau hoặc tương tự về Biển Đông, Đông Nam Á, các đảo san hô và các địa điểm khác trong đó. Một ví dụ là trong cuốn "Đồ Thư Biên" của Chương Hoàng (biên soạn khoảng 1562-1577). Một ví dụ khác là trong cuốn Vũ Bị Chí của Mao Nguyên Nghi (1621).[21]
Cuốn Vũ Bị Chí cũng có nhiều loại bản đồ khác nhau thường được các nhà sử học gọi là “bản đồ Mao Kun”. Bản đồ này, hay đúng hơn là bản đồ hàng hải này, còn được biết đến với cái tên “Trịnh Hòa Hàng hải đồ”, miêu tả những tuyến đường biển mà đoàn thuyền của Trịnh Hòa đã đi theo hồi đầu thế kỷ 15. Rất có thể là chúng được vẽ vào thời kỳ đó. Các đảo san hô trong Biển Đông xuất hiện trong mảnh bản đồ về bờ biển tỉnh Quảng Đông. Ba cái tên/từ xuất hiện trên bản đồ này: Thất Tinh, Thạch Đường, Vạn Thắng Thạch Đường Tu, và Thạch Đường. Tên đầu tiên được gắn với một dải chấm chấm nhỏ thể hiện các đảo đá, bãi ngầm chìm dưới mặt nước. Khu vực này có thể được đồng nhất với bãi ngầm Maccalesfield và quần đảo Đông Sa. Như vậy hai tên còn lại sẽ thay thế cho quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Cả hai đều được vẽ là các quần đảo nhưng chỉ có một tên là có từ Tu (xu) nghĩa là “đảo nhỏ”. Có lẽ ở đây muốn chỉ ra rằng nhóm sau rộng hơn và “giống đảo” hơn nhóm trước. Tuy nhiên, cũng có thể có nhiều cách giải thích khác. Trong lần tái bản mới đây của bản đồ Mao Kun, Thất Tinh Thạch Đường được đồng nhất với nhóm đảo Đông Sa (Pratas), Vạn Thắng Thạch Đường Tu được đồng nhất với bãi ngầm Macclesfield và Thạch Đường được đồng nhất với quần đảo Hoàng Sa (mặc dù tại một trang khác của chính tác phẩm người ta có thể tìm thấy những cách giải thích khác).[22]
Người ta có thể tìm thấy trong các cuốn nhật ký hàng hải một số đoạn trích được sưu tập trong những đoạn dẫn giải về hàng hải. Khi chúng tôi nghiên cứu đến các tài liệu giai đoạn cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17, nhiều bằng chứng loại này xuất hiện nhiều hơn trong các chuyên luận về hàng hải khác nhau. Chúng có thể gắn với giai đoạn các nhà hàng hải ở Quảng Châu và Phúc Kiến cầm trịch các hoạt động thương mại của tư nhân Trung Quốc.[23] Không phải tất cả các cuốn nhật ký hàng hải thời này đều đề cập trực tiếp đến quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, nhưng phần lớn trong số chúng đều có những đoạn mô tả chi tiết tuyến đường từ Quảng Đông qua đảo Hải Nam tới bờ biển Việt Nam.[24] Ở đây chúng tôi sẽ chỉ dẫn ra 2, 3 ví dụ điển hình. Cuốn Đông Tây Dương Khảo của Trương Nhiếp (1617/18) có một mục viết về Thất Châu Dương với một đoạn đề cập tới Vạn Lý Thạch Đường.[25] Trong một đoạn thứ hai, tìm thấy ở một cuốn sách khuyết danh “Thuận Phong Tương Tống", một tác phẩm không rõ nguồn gốc và thời gian sáng tác, người ta nói là Vạn lý Thạch Đường có lẽ nằm về phía Đông của Ngoại La Sơn, nghĩa là Cù Lao Ré (Pulau Cantao) thuộc bờ biển Việt Nam. Ngoài ra, theo cuốn “Thuận Phong Tương Tống” “trong [Vạn Lý Thạch Đường] có (nhiều) đảo đá nhỏ” (Hồng Thạch Tu) không cao; nếu ta có thể nhìn thấy toàn bộ thân tàu, [thì nước] sâu, nếu bạn nhìn thấy đá [khu vực đó] phải tránh xa”. Trong trường hợp này, Vạn lý Thạch Đường là từ chỉ quần đảo Hoàng Sa, Hồng Thạch Tu có thể là tên chỉ một hoặc một số nơi trong nhóm đảo này hoặc chỉ là một từ chung ám chỉ hiện tượng tự nhiên (?) Một số học giả cho rằng đó là phần nhô lên của đảo Vĩnh Hưng (Đảo Phú Lâm - Woody island) thuộc nhóm An Vĩnh (Nhóm Vĩnh An theo tiếng Trung Quốc và Amphitrite theo tiếng Anh).[26] Đoạn trích vừa dẫn ra này cũng có thể tìm thấy trong một tác phẩm ra đời muộn hơn, cuốn “Chỉ Nam Chính Pháp"- khuyết danh. Tác phẩm này cũng đề cập tới một nơi được gọi là Nam Áo Khí, một địa điểm được người ta đồng nhất với quần đảo Đông Sa.[27]
Đến đây, chúng ta đã tới giai đoạn nhà Thanh - một giai đoạn mà tôi không muốn đưa vào trong bài ghi nhanh này bởi vì các chứng cớ có được rất khác. Chỉ cần nói rằng một số tác phẩm đời Thanh có nhiều chi tiết hơn, chẳng hạn như cuốn “Hải Quốc Văn Kiến Lục", “Hải Lục" và nhiều tác phẩm khác, và trên hết là một số cuốn nhật ký hàng hải phương Tây chưa bao giờ được nghiên cứu đến. Trước khi có thể đưa ra bất kỳ kết luận chung nào về giai đoạn này ta cần phải nghiên cứu một cách cẩn thận.
Những bằng chứng ban đầu trong tài liệu của Bồ Đào Nha
Có thể tìm thấy những bằng chứng ban đầu trong hiểu biết về hàng hải của Bồ Đào Nha về Biển Đông trong nhiều nguồn tài liệu, đặc biệt là trong các roteiros (cẩm nang hàng hải) và trong các bản đồ. Một số cuốn cẩm nang hàng hải đã được Manguin dịch và phân tích, và phần lớn các bản đồ có liên quan đã được sưu tập lại trong tập Portugaliae Monumenta Cartographica nổi tiếng.[28] Tác phẩm ra đời sớm nhất miêu tả tuyến đường tới Trung Quốc là do Francisco Rodrigues biên soạn khoảng năm 1511-1512. Thông tin để biên soạn cuốn này có lẽ được thu thập từ các hoa tiêu Mã Lai (và những địa phương khác) sau cuộc xâm lược Malacca năm 1511.
Nói chung, các thủy thủ Bồ Đào Nha, cũng như các đồng nghiệp Trung Quốc của họ đều sợ các đảo đá và bãi ngầm ở Biển Đông. Do đó nếu có khả năng, họ sẽ đi men theo đất liền lục địa Đông Nam Á, tránh đi cắt ngang trực tiếp qua vùng trung tâm biển này. Chỉ có những lần hy hữu, họ mới cố gắng đi qua quần đảo Hoàng Sa ven về phía Đông của quần đảo này. Thông thường thì tuyến này cũng phải đi qua phía Đông Pulau Saparo, còn gọi là Baixos de Pulau Sissir (có nhiều cách viết khác nhau). Cả hai đều nằm xa hơn rất nhiều về phía Nam với nghĩa là tuyến đường đi thuyền buồm “bên ngoài” xa hơn một chút so với tuyến đường đi men bờ biển an toàn hơn. Ta không rõ tuyến đường “bên ngoài” được khai phá lần đầu tiên vào thời gian nào. Hình như, người Trung Quốc cũng có khuynh hướng tránh đi tuyến đó vì chẳng có tài liệu Trung Quốc nào cho đến cuối đời Minh đề cập đến con đường này.[29]
Uông Đại Uyên, Cô Giới (Gu Jie) và những tác giả khác đều ám chỉ đến những mối nguy hiểm gắn liền với Trường Sa và Thạch Đường như chúng ta đã thấy. Trong trí tưởng tượng của các nhà địa lý và các nhà hàng hải Trung Quốc, những địa điểm thất thường này tạo thành một dải nằm ngang trải dài ở một nơi nào đó về phía Nam tỉnh Quảng Đông. Những bản đồ ban đầu của Bồ Đào Nha vẽ Biển Đông cũng tạo nên một hình ảnh tương tự. Chúng vẽ toàn bộ khu vực này từ quần đảo Hoàng Sa xuống tới Pulau Saparo là một vùng “hình lưỡi liềm” thẳng, khẳng định rằng nó gần như không thể đi qua được mặc dù không có chướng ngại gì lớn giữa quần đảo Hoàng Sa nằm ở đầu cuối phía Bắc vùng đó và Pulau Saparo nằm ở một đầu. Rõ ràng, lý do của việc sắp xếp như vậy là nhằm cảnh báo cho tàu thuyền đi lạc tuyến đường và bị cuốn vào vùng trung tâm Biển Đông.[30]
Vì vậy khu vực “hình lưỡi liềm” thấy trong bản đồ của Bồ Đào Nha cũng có tác động tâm lý giống như những “câu chuyện” đồn đại trong các tài liệu của Trung Quốc hoặc như dải cát được mô tả trong tài liệu Việt Nam hồi thế kỷ 15.[31] Trong mọi trường hợp, các thủy thủ đều được người ta yêu cầu phải tránh khu vực nguy hiểm này. tuy nhiên có một số khác biệt về mặt địa lý: ”khu vực” vẽ trong bản đồ của Bồ Đào Nha chạy song song với bờ biển Việt Nam và rõ ràng không bao gồm bãi ngầm Macclesfield; “dải thành luỹ” được mô tả trong tài liệu của Trung Quốc trải dài từ nhóm đảo Đông Sa tới quần đảo Hoàng Sa, ít nhiều song song với bờ biển Quảng Đông. Chỉ có trong một số tài liệu của Trung Quốc đem lại cho chúng tôi một chút gợi ý về khu vực tương tự với khu vực được người Bồ Đào Nha mô tả, nghĩa là nằm dọc theo bờ biển Việt Nam, giữa quần đảo Hoàng Sa nằm phía Bắc và một số điểm nằm xa hơn về phía Nam, Cuốn “Đông Tây Dương Khảo” và cuốn “Thuận Phong Tương Tống” đã dẫn ra ở trên, chẳng hạn đã cho biết Vạn Lý Thạch Đường và Vạn Lý Trường Sa nằm về phía Đông của Việt Nam. Điều này có thể hàm ý về một dải từ Bắc tới Nam. Hơn nữa, có một số câu cách ngôn xác định có một cái gì đó giống như một “đường vô hình” giữa nhóm đảo Thất Châu ở phía Bắc và Côn Đảo ở phía Nam, qua cách nói người ta nên cẩn thận lái thuyền đúng hướng khi đi qua hai điểm mốc này.[32]
Điểm khác biệt lớn thứ hai là, ngay từ ban đầu người Bồ Đào Nha đã có sự phân biệt rõ ràng giữa khu vực nguy hiểm giữa quần đảo Hoàng Sa và dải đảo san hô nằm dọc theo bờ bắc đảo Borneo - bao gồm quần đảo Trường Sa. Tuyến đường từ Malacca tới Tg Datu và Moluccas, vòng quanh Sabah được khai thác thường xuyên vì vậy các hoa tiêu Bồ Đào Nha có ý niệm rõ ràng về các khu vực này. Trái lại người Trung Quốc chưa bao giờ cố gắng thể hiện trên bản đồ các dải đá, đảo khác nhau này một cách thực tế. Như đã nói, thậm chí cả bản đồ hàng hải Mao Kun cũng rất mơ hồ và khó giải thích về chi tiết này.
Tuy nhiên điều thú vị là cả bản đồ hàng hải Mao Kun và hầu hết các bản đồ của Bồ Đào Nha đều chỉ ra các vùng nguy hiểm trong Biển Đông theo một cách giống nhau tức là bằng hàng trăm chấm chấm nhỏ. Những khu vực nguy hiểm khác ví dụ như quần đảo Mandive và Laccadive cũng được vẽ bằng các chấm như trong bộ sưu tập Monumenta Cartographica đã minh họa đầy đủ. Hình như điều này là một điểm chung duy nhất trong cách vẽ bản đồ giai đoạn đó.
Hàn Chấn Hoa phân tích thêm về cách vẽ quần đảo Hoàng Sa trong các bản đồ hàng hải của Bồ Đào Nha. Trước tiên, vùng “hình lưỡi liềm” được vẽ như một dải liên tục. Sau đó đôi lúc nó bị cắt bởi các tuyến ngang. Có tất cả khoảng 2, 3, 5 hay 6 tuyến ngang và vì vậy có tối đa là 7 vùng chấm chấm. Người ta không hiểu lắm về cách thể hiện như vậy. Nhưng bằng cách nào đó nó gợi lại những truyền thuyết gắn liền với những vùng nguy hiểm khác. Chẳng hạn như các tác phẩm của Trung Quốc khẳng định là có bảy “lối vào” dẫn qua quần đảo Andaman và Nicobar.[33]
Dựa trên những chứng cớ do Kamermer và các tác giả khác thu thập được, Hàn Chấn Hoa đã lưu ý chúng ta về một số điểm bổ sung quan trọng. Thứ nhất, theo họ Hàn, các đoạn trích ban đầu của Bồ Đào Nha về cái gọi là “ilhas da China” và “ilhas da Cantao” (có nhiều cách phát âm khác nhau) nên gắn với quần đảo Hoàng Sa. Thứ hai, ông này cũng tin rằng từ “Humen” (Houmen, v.v...) sau này được dùng cho “Boca Tigris” có thể hiểu là một số địa điểm ở nhóm đảo Hoàng Sa. Quan điểm này nhằm chứng minh rằng các nhà thám hiểm đầu tiên của Bồ Đào Nha đã ghé thăm các đảo này và quan trọng hơn, nhằm chứng minh rằng chúng thuộc phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc trong suốt giai đoạn này.[34]
Trong khi những mô tả nhận dạng và khẳng định này vẫn còn mơ hồ, một gợi ý khác có lẽ nên được coi là nghiêm túc. Bộ sưu tập Portugiliae Monumenta Cartographica có một bản đồ do, hoặc được vẽ theo phong cách của Fernão Vaz Dourado thể hiện địa danh “ilhas da Boi†as” gần với quần đảo Hoàng Sa. Họ Hàn thấy được sự phát âm gần gũi giữa địa danh này và cách gọi Ba Tu (đảo Ba), một tên địa phương mà ngư dân đảo Hải Nam dùng để chỉ đảo Vĩnh Hưng (đảo Phú Lâm) thuộc nhóm đảo Hoàng Sa. Ông này cũng gán những địa danh khó có thể xác định là “Pulau Mio” và “Paxo” với các đảo này nhưng một lần nữa, điều này có cái gì đó gượng gạo. Tất nhiên mục đích ở đây là nhằm nhấn mạnh các yêu sách quyền bá chủ của Trung Quốc.[35]
Kết luận
Vấn đề các đảo trong Biển Đông vẫn là một đề tài “tế nhị”. Các tài liệu của Trung Quốc không gợi cho người ta thấy rằng chúng là một phần của Đế chế Thiên triều thời Tống, Nguyên hay Minh (ghi chú: tôi không khảo cứu về thời nhà Thanh ở đây). Ở một mức độ nào đó, các thủy thủ Trung Quốc đã quen thuộc với chúng nhưng họ lại tránh đi đến đó. Những câu chuyện về ma quỷ, các đảo đá nguy hiểm và các dòng chảy ngầm bí hiểm lan truyền đồn đại từ đời này qua đời khác, do đó các chuyên luận và các bản đồ về địa lý không ghi chép gì cụ thể về khu vực này. Không chắc là người ta sẽ tìm được trong các tài liệu này các bằng chứng rõ ràng chứng minh cho một quan điểm ngược lại. Các thủy thủ đầu tiên người Bồ Đào Nha cũng có những sự dè chừng giống như vậy. Họ cũng cố gắng tránh xa những khu vực cạm bẫy này.
Dường như không có nơi định cư ổn định trên bất kỳ đảo san hô nào trong Biển Đông - ít nhất là trong giai đoạn được khảo cứu ở đây. Chỉ có một vài túp lều tạm do ngư dân dựng lên, có thể tồn tại ở đây một lúc nào đó, và đây hoàn toàn chỉ là giả thiết. Các tài liệu viết không gợi cho người ta về sự tồn tại của các làng mạc như vậy.[36] Chúng cũng không gợi cho người ta biết là quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Đông Sa đã được chính quyền Trung Quốc quản lý về mặt hành chính. Điều thú vị là, trường hợp quần đảo Bành Hồ (Pescadores) nằm gần đảo Đài Loan lại rất khác; ở đó, chúng ta có chứng cứ rõ ràng về các chuyến thăm viếng của người Trung Quốc và sự tồn tại của các đồn tạm thời của chính quyền. Bằng chứng sớm nhất có niên đại từ thời nhà Nguyên.[37] Nếu các đồn tương tự đã từng được thiết lập ở nhóm đảo Hoàng Sa hay Đông Sa thì việc đó chắc chắn sẽ được chép lại trong các tài liệu này nhưng chúng lại không ghi chép gì cả.
Bất chấp những tài liệu được phát hiện đó, các học giả và nhà báo Trung Quốc đã có những cố gắng bất thường để chứng minh rằng toàn bộ Biển Đông từ lâu luôn luôn là “một cái hồ nội địa”. Trên phạm vi thế giới, có lẽ không có trường hợp nào lại có tỷ lệ ấn phẩm trên mét vuông đất nổi cao như vậy. Một khía cạnh gây ngạc nhiên trong bộ máy tuyên truyền này là, hầu như mọi người Hoa - những người đang sống ở CHND Trung Hoa, ở Trung Hoa Dân Quốc và ở hải ngoại - đều ủng hộ quan điểm của Trung Quốc. Do đó, Trung Quốc trở thành hàng xóm cạnh nhà của Brunei và Malaysia. Thậm chí cả một người Trung Quốc đối lập nổi tiếng - Wei Jingsheng - người nổi tiếng với những cuộc khẩu chiến chống lại Chính phủ Bắc Kinh cũng có sự hòa nhịp tương tự (xem bài phỏng vấn mới đây với Karl-Heiz Ludwig trên nhật báo Die Welt, ngày 29/03/1999, tr. 8).
Roderik Ptak
Tiểu sử tác giả: Roderich Ptak là giáo sư ngành Trung Quốc học của Đại học Tổng hợp Munich. Các tác phẩm đã xuất bản của ông bao gồm một số cuốn sách và bài viết về lịch sử hàng hải, lịch sử thương mại, lịch sử địa lý châu Á ... dựa trên các nguồn tài liệu của Trung Quốc, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và các nguồn khác, và chủ yếu liên quan đến các giai đoạn cận đại và trung đại.
Nguồn : BienDong.Net
Chú giải
[1] Về những cuộc bàn luận ngắn về các tuyến đường này xin xem, ví dụ như Li Yukun, Tuyền châu Hải ngoại giao thông sử lược (Quanzhou haiwai jiaotong shilue), bộ Tuyền châu lịch sử văn hóa tùng thư (Quanzhou Lishi Wenhua congshu), Hạ môn: Hạ môn Đại học xuất bản xã (Xiamen: Xiamen Daxue Chubanshe, 1995) tr. 16-20, Phúc Kiến hàng vận sử (Fujian hangyun shi), Cổ, tân đại bộ phận (Gu, jindai bufen), bộ Trung Quốc Thủy vận sử tùng thư (Zhongguo shuiyun shi congshu), Băc Kinh, Nhân dân giao thông xuất bản xã (Renmin jiaotong chubanshe, 1994), tr. 80-97; J.V.Mills, “Các nhà hàng hải Trung Hoa tại quần đảo Philippin và Inđônêxia (Insulinde) vào những năm 1500 sau Công nguyên”, Quần đảo 18 (1979), tr. 69-93. Về những bàn luận chi tiết về tuyến đường phía Tây, từ Việt Nam tới Trung Quốc, xin xem Pierre-Yues Manguin, “Người Bồ Đào Nha tại bờ biển Việt Nam và Champa. Nghiên cứu về các tuyến đường biển và các mối quan hệ thương mại dựa theo các tài liệu của Bồ Đào Nha (thế kỷ 16-17-18), bộ Các ấn phẩm của trường Viễn Đông Bác Cổ của Pháp 81 (Paris: Trường Viến Đông Bác Cổ Pháp, 1972) tr.171 và những trang tiếp theo, các bản đồ trong phụ lục.
[2] Xem “Trung Quốc cổ ký trung du quán Phi luật tân tư liệu hội biên” (Zhongguo guji zhong youguan Feilỹbin ziliao huibian) (Trung Hoa Thư cục, 1980) do Trung Sơn Đại học Đông Nam Á, Lịch sử nghiên cứu Sở (Zhongshan daxue Dongnanya Lishi yanjiusuo) xuất bản, các đoạn trong các trang 10, 12, 13, 16; tái bản “Từ Tuyền châu tới vùng biển Xulu và bên ngoài: Những vấn đề có liên quan từ đầu thế kỷ 14”, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, 29/2 (1998), tr. 277 - 279.
[3] Có thể tìm thấy những đoạn trích về biển Nam Trung Hoa trong các tác phẩm của các nước Ả Rập, ví dụ như, G.R.Tibbetts, “Một nghiên cứu về các tác phẩm của các nước Ả Rập có các tư liệu về Đông Nam Á”, bộ, kho tài liệu dịch Phương Đông, N.S.44 (Leiden:E.J.Brill, 1979). Trướng Hải, một địa danh cổ của Trung Quốc dùng để chỉ một phần của biển Nam Trung Hoa, có mối liên hệ với một địa danh Ả Rập; xem, chẳng hạn như, Edward H.Schafer, “Con chim son. Nhà Đường hình dung về phương Nam” (Berkeley: Nhà xuất bản Đại học Tổng hợp California 1967) tr.138. - Trong các tài liệu của Việt Nam cũng có một só đoạn trích dẫn về biển Nam Trung Hoa; xem, ví dụ như, R. Dumoutier, “Nghiên cứu một hải đồ Việt Nam thế kỷ 15”, Tập san lịch sử địa lý và mô tả địa lý (1896); Võ Long Tê, “Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa theo các tác phẩm lịch sử và địa lý Việt Nam cổ”(Sài Gòn, 1974). Có thể tìm thấy các đoạn trích khác trong những tác phẩm như “An Nam Chí Lược”. Tuy nhiên trong bài nghiên cứu này của tôi không bao gồm các tác phẩm của Việt Nam. Về cách giải thích của Trung Quốc với các đoạn trích của tài liệu Việt Nam, xin xem, ví dụ như, Chen Shijian “Việt Nam sơn ngự đối ngoạ Tây Sa, Nam Sa quần đảo, bộ phận tiêu đảo địa danh” (Yuenan shanzi dui wo Xisha, Nansha qundao, bufen jiaodao diming”) trong Quảng Đông tỉnh địa danh vi nguyên hội (Guangdong sheng diming weiyuan hui, xuất bản) Nam Hải chư đảo địa danh tư liệu hội biên (Nanhai zhudao diming ziliao huibian) (Quảng Châu, Quảng Đông địa đồ xuất bản xã, 1987) tr. 545 - 552.
[4] Xin xem, ví dụ như, Khang Thái “Phù Nam Truyện” (thời Tam Quốc), được dẫn lại trong cuốn “Thái Bình Ngự lãm” của Lý Phỏng và những cuốn khác, bộ, “Quốc học cơ bản tùng thư”, 12 tập, (Đài Bắc: Tân Tinh Thư cục 1959), ii, j. 59, hồ sơ 3b (tr. 437d). Các ví dụ khác trong Liu Nanwei “Nam hải chư đảo cổ địa danh sơ đàm”, tr. 419, và trong Ju Jiwu “Nam hải chư đảo địa danh đắc sơ bộ nghiên cứu”, tr. 488-489, cả hai nằm trong “Nam hải chư đảo địa danh tư liệu hội biên”; Wang Yingjie; “Cổ đại Trung Quốc đối Nam hải chư đảo đảo tiêu địa lý nhân sĩ đắc phát triển”, trong “Trung Quốc Khoa học viện Nam Sa tổng hợp khoa học khảo sát đội” (Bản tổng hợp của đội khảo sát khoa học ở quần đảo Nam Sa, Viện Khoa học Trung Quốc) (chủ biên), “Nam Sa quần đảo lịch sử địa lý, nghiên cứu truyện ký” (Quảng Châu: Trung Sơn Đại học xuất bản xã, 1991) tr. 138-140; Marwyn S.Samuels “Tranh luận về biển Nam Trung Hoa” (Newyork: Methuen, 1982), tr. 10-11.
[5] Tăng Công Lượng (Zeng Gong Liang), và tập thể tác giả, “Vũ Kinh Tổng Yếu”, bộ “Trung Quốc binh thư kế thừa” 3-5 (Bắc Kinh: Cát Phương Quân xuất bản xã; Thẩm Dương: Liêu Thẩm Thư xã, 1988), “Thiên kỷ” j.21, hồ sơ 16a (ii, 1053). Xusong (Công ty) “Tổng hội yếu di cảo” 8 tập (Bắc Kinh: Trung Hoa thư cục, 1957), Viii, ce 197, tr.7748b (“Phiên di” 4, Champa) 7763b (“Phiên di” 4 Zhenlifu); Vương Tượng Chi, “Dư địa kỷ thắng”, bộ “Tống đại địa lý thư tứ trung”, 2 tập (Đài Bắc: Văn Hải xuất bản xã, 1963), ii, j.127, hồ sơ 2b (tr. 667d); “Phương dư thắng lãm”, Zhu Mu, 3 tập (Đài Bắc: Văn Hải xuất bản xã, 1981), ii, j.43, hồ sơ 6b (tr 908). Các đoạn trích trong hai cuốn vừa nêu hình như trở lại với cuốn “Quỳnh quản chí” (1203-1208) hiện đã thất lạc. Xin xem “Die Paracel - und Spratly - inseln in Sung - Yuan - und fruhen Ming - Texxten: Ein maritimes Grenzgebier?”, trong cuốn “Trung Quốc và các nước láng giềng: Các đường biên, quan điểm của các nước khác, chính sách đối ngoại, từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 19”, bộ “Nam Trung Hoa và hàng hải châu Á 6” (Wiesbaden Harrassowits Verlag, 1997), đặc biệt tại các trang 162-165. Về cuốn “Quỳnh quản chí”, xem thêm Lý Mặc “Quảng Đông phương chí yếu lục” (Quảng Châu: Quảng Đông tỉnh địa phương chí biên soạn vi nguyên hội ban công chí, 1987), tr. 434.
[6] Tái bản., "Die Paracel - und Spratly - inseln” Về một nghiên cứu khảo cứu về thuật ngữ biên giới truyền thống (tuy nhiên, phần lớn đều thuộc giai đoạn Minh-Thanh) xin xem Bodo Wiethoff, “Chinas dritte Greuze - Der traditionelle chinesische Staat und der kšstennale Seeraun”, bộ Veroffentlichungen des ostsien-instituts des Ruhr-Universitat Bochum (Wiesbachen: Harrassowith Verlag, 1969).
[7] Almut Netolitzky, “Das lingwai tai-ta von Chou Ch’u-fei. Eine Landeskunde Sudchinas aus dem 12. Jahrhundert”, bộ Muchener Ostasiatische Studien 21 (Wiesbaden: Franz Steiner Verlag, 1977), tr. 16-17, 36; Joseph Needam và những người khác, “Khoa học và văn minh Trung Hoa” (Cambridge: tại NXB Đại học Tổng hợp, 1954-), iV:3, tr. 548-550; tái bản., “Sudostasieus Meere nach Chinesischen Quellen (Song und Yuan)”, “quần đảo” 56 (1998), tr. 9. - Về Nữ quốc chép trong các tác phẩm của Trung Quốc, xin xem, ví dụ như, Paul Pelliot, “Ghi chép về Marco Polo, tác phẩm xuất bản sau khi ông qua đời” 3 tập. (Paris: Nhà in Quốc gia, Nhà sách Adrian-Maisonneuve, 1959-1973), i, tr. 671-725.
[8] Friedrich Hirth và W.W.Rokhill (tr.), "Triệu Nhữ Quát và công trình của ông về giao thương giữa Trung Quốc và Ả Rập vào thế kỷ 12 và 13, tiêu đề: Chư Phiên Chí” (tái bản, Đài Bắc: Hãng xuất bản Thành Văn, 1970), tr. 176, 1985, chú thích số 4; Samuels, “Phản đối”, tr. 16; tái bản., “Die Paracel - und Spratly - inseln”, tr. 165.
[9] Xem tái bản.,”Sudostasiens Meere”, tr. 17 và các trang tiếp theo.
[10] Xem Uông Đại Uyên (tác giả), Su Jiqing (xb.) “Đảo di chí lược giao sử”, bộ “Trung ngoại giao thông sử ký tùng san” (Bắc Kinh: Trung Hoa Thư cục, 1981), tr. 318; tái bản., “Quang cảnh hàng hải Châu Á qua hai tác phẩm đời Nguyên: Đảo di chí lược và Dị vật chí”, Tạp chí nghiên cứu về đời Tống và đời Nguyên, 25 (1995), tr. 54, 55; tái bản., “Chú giải cuốn Đảo di chí lược của Uông Đại Uyên (1939/50)” trong Claudine Salmon (xb.), “Truyện kể về những chuyến đi Châu Á: Loài giống, tập tục, khái niệm về không gian. Báo cáo tại Hội thảo EFEO-EHESS tháng 12/1994”, bộ Chủ đề nghiên cứu 5 (Paris: Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp, 1996), tr. 127-144; tái bản., “Die Paracel - und Spratly - inseln”, tr. 166-167. Về cuón “Lĩnh ngoại đại đáp”, xin xem chú thích số 7 trên đây. Chú ý: trong sách của Samuels có những cách giải thích sai, “Phản đối”, tr. 20.
[11] Về những vùng biển Thất Châu (Thất Châu Dương), xin xem, ví dụ như, những tiểu luận được sưu tạp trong cuốn “Nam hải chư đảo sử lược khảo chứng luận cứ” của Hàn Chấn Hoa (Bắc Kinh; Trung Hoa Thư cục, 1981).
[12] Tống Liêm, “Nguyên Sử”, 15 tập (Bắc Kinh: Trung Hoa Thư cục, 1976), Xiii, j.162, tr. 3802; Samuels, “Phản đối”, tr. 19; Jacques Dars, “Hàng hải Trung Quốc từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ 14”, bộ “Nghiên cứu lịch sử hàng hải Trung Quốc 11, (Paris: Economica, 1992), tr. 342.
[13] J.V.G. Mills (dịch), “Mã Hoan, Doanh nhai thắng lãm, Một khảo cứu toàn diện về các nước ven biển [1433]”, bộ Hakluyt Society Extra Serier 42 (Cambridge: Tại Nhà xuất bản Đại học tổng hợp, 1970) tr. 73 và chú thích số 4; Samulels, “Phản đối”; tr. 21; “Nam hải chư đảo địa danh tư liệu hội biên”, tr. 154 - Feixin nêu ta một câu cách ngôn có địa danh Thất Châu; Câu cách ngôn này có lẽ có liên quan đến một đoạn trích trong cuốn “Đảo dị chí lược” của Uông Đại Uyên. Xem J.V.G. Mills (dịch) tái bản “Tinh sai thắng lãm” (“Khảo cứu toàn diện về Huyền sao của Phí Tín”) bộ “Nam Trung Hoa và hàng hải châu Á 4” (Wiesbaden: Harrassowitz Verlag, 1996) tr. 40 và chú thích số 48; “Đảo di chí lược sử” tr. 218, 221, 222, chú thích số 48 - Về “Vũ kinh Tổng yếu” xin xem trích dẫn trong chú thích số 5 trên đây.
[14] Huang Shengzeng (Hoàng Tỉnh Tăng, tác giả), Hạ Phương (xb) “Tây dương Triều cống điển lục”, bộ “Trung ngoại giao thông sử ký tùng san” (Bắc Kinh: Trung Hoa thư cục, 1982), J. Shang, tr. 1, 3, chú thích số 14, 15, 16: J.Zhong, tr. 55; tái bản, “Die Paracel - und Spratly - insel” tr. 171, 172; cách giải thích sai trong “Phản đối” của Sanuels, tr. 21. Dữ liệu về các tuyến đường thuyền buồm trong “Tây dương Triều cống điển lục” được một số tác giả nghiên cứu chúng cũng được đưa vào trong cuốn “Trịnh Hoà hạ Tây dương tư liệu hội biên” tập 1, của Zheng Haosheng và Zheng Yilung (bs) (Tế Nam: Thất Lục thư xã, 1980) tr. 293 - 297.
[15] Xem Đường Chu, “Chính Đức Quỳnh Đài Chí”, bộ “Thiên dị cổ tàng Minh đại phương chí tuyển san” tr. 60, 61, 2 tập. (Thượng Hải: Thượng Hải Cổ Tịch Thư Điển, 1982), i, j. 4, Hồ sơ 2b - 3a; ii, j.21 hồ sơ 9a, tái bản., “Die Paracel -und Spratly - inseln”, tr. 165 - 166 và các chú thích tại các trang đó.
[16] Hoàng Trung, “Hải Ngũ”, bộ “Bách bộ Thông thư kế thừa, Lĩnh Nam Di Thư” (Đài Bắc: Di Văn Ấn Thư Quán, 1965), j. 3, hồ sơ 1b - 2a; Liu Nanwei, “Nam Hải chư đảo cổ địa danh sơ đàm”, tr. 420, 421; “Nam Hải chư đảo sử địa nghiên cứu trát tập”, đặc biệt là tr. 22 trong cuốn “Hải Ngũ” và biên giới Việt - Trung thời nhà Minh. Về Lưu Sa Hà và Nhược Thuỷ (Joshui), xin xem, ví dụ như, các đoạn trích trong tái bản., “Cheng Ho's Abeuteuer im Drawa und Roman der Ming - Zeit”, “Hsia His - yang: Eine Ubersetzung und Untersuchung”; “His - yang Chi: Ein Deutungsversunch, bộ Munchener Ostasiatische Studie 41 (Stuttgart: Franz Steiner Verlag, 1986), tr. 205 - 206 và chú thích số 5 tại các trang đó.
[17] Xem Cô Giới (Gu Jie), “Hải tra ngữ lục”, bộ “Bách bộ Thông thư kế thừa” “Ký lục hội biên” j.162 (Đài Bắc: Di Văn Ấn Thư Quán, 1965), hồ sơ 14a - b; Hoàng Tạc (HuangZuo) “Quảng Đông Thông Chí” 4 tập (Hongkong: Đại đồng đồ thư Công ty, 1977), IV, j, 79, hồ sơ 36b (tr.1906b).
[18] Luo Yehjiong (tác giả), Yusili (xb) “Tân An Tân lục” bộ “Trung ngoại giao thông sử ký tùng san” (Bắc Kinh: Trung Hoa Thư cục, 1983), h. 6, tr. 149.
[19] Xem, ví dụ như, Needham, “Khoa học”, iii, tr. 554 - 556; iV: 3 tr. 449 - 501; Ogawa Takuji, “Shina reikishi chiri kenkyu”, 2 tập. (Kyoto, 1928), chưa thấy; J.B. Harley và David Woodward (biên soạn), Joseph E. Schwartzberg và Cordell D.K. Yee (đồng biên soạn) “Thuật và bản đồ trong các xã hội truyền thống ở Đông Á và Đông Nam Á”, “Lịch sử nghề vẽ bản đồ” tập 22 (Chicago: NXBĐại học Tổng hợp Chicago, 1994), tr.244 - 249. Xem các thông tin thêm trong Yi chan, “Han' guk Kochido” (Seoul: Han' guk Tosogwanhak You'guhoe, 1977), “Han' guk Kochido” (Seoul: Pom' usa, 1991), và các tác phẩm khác.
[20] Needham, “Khoa học”, iii, tr. 551 - 55 - 4' WelterFuchs, “Tập bản đồ Trung Hoa thời Nguyên Mông của Chu Tư Bản và Quảng Dư Đồ, cùng 48 bản sao bản đồ có niên đại khoảng năm 1555”, bộ “Monumenta Serca Monograph 8” (Peiping: Đại học Tổng hợp FuJen, 1946) tr. 43 - 44 (các bản đồ).
[21] Thương Hoàng, “Đồ Thư biên”, bộ “Tứ khố Toàn thư châu bản”, Vũ Kí tự bộ, 244 - 267, 24 tập (Đài Bắc: Di Văn ấn Thu Quán, 1974) Xi, j. 51, Hồ sơ 17a, 19b “Thạch Đường” trên bản đồ thứ hai có lẽ chỉ một địa điểm khác ?); Mao Nguyên Nghi (bs) “Vũ Bị Chí” 22 tập. (Đài Bắc: Hoa Sử Xuất bản xã, 1984), XXi, j. 223, Hồ sơ 10b - 12a (tr. 9570 - 9573). Có thể tìm thêm những ví dụ khác trong “Hoàng dư khảo” (1557). “Hải Phòng tổng yếu” (1613), v.v ... Xem Lin Jinzhi, “Thạch Đường, Trường Sa địa danh tư liệu ký lục khảo sử” trong “Nam Hải chư đảo địa danh tư liệu hội biên”, tr. 426 (bài báo này được đăng lại trong “Nam Hải chư đảo sử địa chứng luận ký”).
[22] “Vũ Bị Chí”, XXii, j. 240, hồ sơ 10b - 11a (tr. 10196 - 10197); Samuels “Phản đối”, tr. 22; Mills, “Mã Hoan”, tr. 216, 217, 225, 272; Lin Nanwei “Nam Hải chư đảo cổ địa danh sơ đàm” tr. 420, LiuJinzhi, “Thạch Đường, Trường Sa địa danh tư liệu ký lục khảo sử” tr. 426 và các tài liệu khác; Manguin, “Người Bồ Đào Nha”, tr. 73, chú thích số 5; “Hải quân dương sách hội nghiên cứu sở” “Đại liên hải vận học nguyên hàng hải sử nghiên cứu sở” (biên soạn) “Tân biên Trịnh Hoà hàng hải đồ ký” (Bắc Kinh: Nhân dân giao thông xuất bản xã, 1988), tr. 40 - 43. - Hàn Chấn Hoa chú ý đến một bản đồ khác, “Vạn lý hải phòng đồ” (1561). Ông này tin rằng nó vẽ những đảo chính của nhóm đảo Hoàng Sa, nghĩa là, đảo Vĩnh Hưng (đảo Phú Lâm - Wood island), đối diện với Vạn Châu và Văn Xương (ở đảo Hải Nam). Xem cuốn “Thất luật sử ký toàn kí Putaoya ky tại tỉnh du quan Tây Sa quần đảo quý thư Trung Quốc đắc ký điều tư liệu khảo đính”, trong cuốn “Nam Hải chư đảo địa khảo chứng luận ký” của ông, tr. 167. Theo ông Hàn, bản đồ này nằm trong cuốn “Thắng Khai Nguyên Tạp chú” của Zheng Ruozeng J.Z, hồ sơ 28a, hiện tôi không có. Hàn nói rằng nó cũng có ở trong cuốn “Trù Hải Đồ biên” của Hồ Tông Hiến (1562). Tôi đã kiểm tra trong nội dung cuốn này in trong “Tứ Khố toàn thư châu bản” nhưng không có. Vào thời nhà Minh, Vạn Châu và Văn Xương là các đơn vị hành chính nằm trên đảo Hải Nam; Xem Yang Dechun, “Hải Nam đảo cổ đại giản sử” (Trường Xuân: Đông bắc sử phiên Đại học xuất bản xã, 1988), ví dụ tr. 7985 - về việc các bản đồ hiện đại chi tiết thể hiện đảo Vĩnh Hưng (đảo Phú Lâm) và một đảo nhỏ cạnh đó - đảo Thạch (Rocky island), xin xem “Nam hải chư đảo địa danh tư liệu hội biên, các bản đồ ở tr. 175, 181, 183. Bản đồ trang 183 chỉ rõ các điểm cao trên cả hai đảo này.
[23] Về các thời kì phát triển khác nhau của thương mại hàng hải thời Minh và các đặc trưng của chúng, xin xem tái bản., “Thương mại hàng hải thời Minh với Đông Nam Á, 1368 - 1567: Hình ảnh về một hệ thống”, trong Claude Guillot, Denys Lombard và tái bản. (biên soạn), “Từ Địa Trung Hải tới biển Trung Hoa: Những ghi chép đa dạng”, bộ “Biển Nam Trung Hoa và Hàng hải Châu Á 7” (Wiesbaden: Harrassowitz Verlag, 1998), tr. 157 - 191.
[24] Một tác phẩm có nhiều thông tin về các tuyến đường thuyền buồm là cuốn “Hải quốc quảng ký” của Thận Phàm. Các đoạn có liên quan được in trong Zheng Haosheng và Zheng YiLun, “Trịnh Hoà Hạ Tây dương tư liệu hội biên” tr. 306 - 327.
[25] Trương Nhiếp (tác giả) Hiệp Phương (xB). “Đông Tây Dương Khảo” bộ “Trung ngoại giao thông sử ký tùng san (Bắc Kinh: Trung Hoa thư cục, 1981), j. 9, Châu sử khảo, tr. 172 “Quỳnh Châu chí” được trích dẫn trong mục đầu tiên, và địa danh “Vạn Lý Thạch Đường” được gắn với cái tên “Thạch Đường Hải” phía đông Vạn Châu. Xem thêm Samuels, “Phản đối”, tr. 18.
[26] “Đông Tây Dương Khảo”, j.9, tr. 189; XiangDa (xb) “Lưỡng Trung Hải đảo Trần Tinh”, bộ “Trung ngoại giao thông sử ký tùng san” (Bắc Kinh Trung Hoa thư cục, 1982) tr. 27, 28, 33 (tr. 28 cũng có nêu địa danh Vạn lý Trường Sa trên hành trình trở về Trung Quốc); Mills “Mã Hoan” tr. 225, 274 (Cù lao Ré); Manguin, “Người Bồ Đào Nha”, tr. 60 (Pulau Cantao, cũng có nhiều cách phát âm khác); LinJinzhi, “Thạch Đường, Trường Sa địa danh tư liệu ký lục khảo sử”, tr. 428; Wang Yungjie, “Cổ đại Trung Quốc đối Nam Hải chư đảo đạo giáo địa lý nhân sĩ đắc phát triển”, tr. 146.
[27] “Lưỡng Trung Hải Đảo Trấn tinh”, tr.108, 117, 121, 122. Xem thêm, ví dụ như, Liu Nan Wei, “Nam Hải chư đảo cổ địa danh sơ đàm, tr. 421' Lin Jinzhi, “Đông Sa quần đảo lịch sử khảo lược” trong “Nam Hải chư đảo địa danh tư liệu hội biên”, tr. 477; “Quảng Đông tỉnh tân cổ địa danh từ điển biên soạn vi nguyên hội” (xb) “Quảng Đông tân cổ địa danh từ điển”, (Thượng Hải:Thượng Hải Tứ Thư xuất bản xã, 1991), tr. 971, 972.
[28] Armando Cortesão và Avelino Teixeira de Mota (xb), “Portugaliae Monumenta Cartographica”, 7 tập, (Lisbon: imprensa Nacional - Casa da Moeda, 1988; nguyên bản 1960).
[29] Có thể các thương nhân Bồ Đào Nha đi thuyền buồm “thẳng” từ Malacca tới Trung Quốc đã được các hoa tiêu Trung Quốc chỉ cho con đường “bên ngoài”. Xem Hàn Chấn Hoa “Thất lục sử ký” tr. 161, 162. Tuy nhiên, những lập luận do Mauguin thu thập được trong cuốn “Người Bồ Đào Nha” tr. 171 - 177 không tán thành khẳng định này. Rất có thể, tuyến đường “bên ngoài” mởi chỉ được sử dụng vào cuối thế kỷ 16 và chỉ trong một số ít lần hy hữu.
[30] Về địa danh theo tiếng Tây “Paracel”, nghĩa là “đảo đá” hay “bãi cạn”, xin xem, ví dụ như, Mauguin, “Người Bồ Đào Nha”, tr. 73, chú thích số 5. Hàn Chấn Hoa “Gu Palasai' er Kao”, tr.2, trong cuốn “Nam Hải chủ đảo sử địa khảo chứng luận ký” của ông, tr. 216 - 219, đã có nhiều chi tiết hơn về tên và thuật ngữ chung “barreiras” được dùng trước đó một thời gian. Ông này cho rằng “Paracel” thay cho toàn bộ “khu vực” và không phải chỉ riêng quần đảo Hoàng Sa.
[31] Dumoutier, “Nghiên cứu:, tr. 149 và tr. XiX; Mauguin, “Người Bồ Đào Nha”, tr. 73, chú thích số 5.
[32] Về “Thuận Phong Tương Tống” và Đông Tây Dương Khảo, xin xem chú thích số 27 trên đây. Có thể tìm thấy một câu cách ngôn trong cuốn “Mộng Lương Lục” (1275) của Ngô Tự Mục: “Khi đi thì sợ Thất Châu, khi về thì sợ Côn Lôn ...” (Bản tiếng Anh có trong Samuels, “Phản đối”, tr. 17; xem thêm các đoạn trích được dẫn ở trên trong chú thích số 13). Rõ ràng cả hai điểm mốc này đều là những địa điểm quan trọng mà các thủy thủ phải đi về phía Tây tuyến đường để tránh bị đắm tàu tại vùng nước phía Đông quần đảo Hoàng Sa. Về “Mộng Lương Lục”, xem thêm, ví dụ như, tái bản., “Die Paracel - und - Spratly - inseln”, tr. 174. Có một nhận xét thú vị là ngư dân Trung Quốc sử dụng từ “Thạch Đường” làm tên chỉ nhóm Vĩnh Nhạc (nhóm Tây) nhóm tạo thành “vành” phía Tây của quần đảo Hoàng Sa. Dong buồm từ Việt Nam về phía Đông, khoảng 16 độ và 17 độ vĩ Bắc người ta sẽ đi vào Thạch Đường. Về mối liên hệ giữa các địa danh Vĩnh Nhạc và Thạch Đường, xin xem, ví dụ như, “Nam Hải chư đảo địa danh tư liệu hội biên”, biểu tr. 69 (số 10), bản đồ tr. 75.
[33] Hàn Chấn Hoa “Gu 'Palasai'er Kao”, P.2, tr. 206-207; tái bản. “Doe Andamanen und Nikobaren nach chinesischen Quellen (Ende sung bis Ming)” “Zeitschrift der Deutchen Morgenlandischen Gesellschaft 140 (1990), tr. 356, 362; Mills/tái bản., “Tinh sai thắng lãm”, tr. 62. Mới đây, một số bản đồ trong bộ sưu tập “Portugaliae Monumenta Cartographica” cũng được công bố trong Alfredo Pinhero Marques, “A cartographica portuguesa do Japão (séculos XVI e XVII). Catálago das cartas portuguesas (Lisbon: Funda†ão Oriente, v.v...,n.d; lời tựa 1996). Luis Filipe Barreto và những người khác, “Cartographica de Macau Séculos XVI e XVII” (Lisbon: Missão de Macau em Lisboa, centro Cientdico e Cultural de Macau, 1997), và “Fernão Mendes Pinto e os mares da China” (Lisbon: cùng nhà xuất bản, 1998).
[34] Albert Kammerer, “Việc người Bồ Đào Nha khám phá Trung Hoa vào thế kỷ 16 và việc vẽ các hải đồ cổ” (Leiden: E.J.Brill, 1944, bổ sung cho “T’oung Pao” 39) đặc biệt tr. 10; Hàn Chấn Hoa, ‘Thất lục sử ký”, tr.162-164. - Tại một chỗ nào đó trong bài viết của mình, ông Hàn gắn địa danh “Cantao” với địa danh Gandao mà ngư dân Trung Quốc sử dụng. Rõ ràng là ‘Gandao” được dùng để chỉ Bắc Tiêu, nghĩa là đá Bắc (North Reef) nằm ở phần phía Tây Bắc của quần đảo Hoàng Sa. Về các địa danh, xin xem bảng trong “Nam hải chư đảo địa danh tư liệu hội biên”, tr. 69, và bản đồ tr.175 - Vấn đề này rất phức tạp vì ‘Cantao” (có nhiều cách viết khác nhau) thường được đồng nhất với Cù Lao Ré (xem chú thích số 26 trên đây). Cả Pulau Cantao và Bắc Tiêu nằm cách nhau không quá xa. Có thể một số thủy thủ lẫn lộn chúng với nhau.
[35] “Portugaliae Monumenta Cartographica”, ii, tr.285; Hàn Chấn Hoa, ‘Thất lục sử ký” tr.166-167, và “Gu’Palasai’er Kao”, P. 2, tr. 209 (bảng). Hàn nhận thấy mối liên hệ giữa “Pulau Mio” và các địa điểm như Maoxing và Maozhu được liệt kê trong các sổ tay hàng hải truyền thống được ngư dân Trung Quốc sử dụng. Một số trong các sách này (được gọi là ‘Thủy lộ bộ” hay ‘Canh lộ bộ” được in trong cuốn “Nam hải chư đảo địa danh tư liệu hội biên”. Về các địa dnah này, xin xem, ví dụ như, tr.70 (số 31), 71 (số 45) và 88 trong tác phẩm đó. - Những dữ liệu được sưu tập trong “Thủy lộ bộ’nhắc lại các chi tiết có trong các chuên khảo về hàng hải cuối thời Minh như “Thuận Phong Tương Tống”, nhưng rất có thể là nó có nguồn gốc sau đó rất xa. Tôi nghi là liệu ông He Jisheng và các tác gia khác có đúng khi khẳng định rằng cuốn “Thủy lộ bộ” có từ thời Minh-Thanh hay không; Thanh thì có thể chấp nhận được nhưng Minh xem ra hoàn toàn không thể. Xem “Thuỷ lộ bộ’ sơ đàm” của ông He trong “Nam hải chư đảo địa danh tư liệu hội biên” tr. 542 - 543.
[36] Như trên, tr. 542. He Jisheng dẫn ra một từ điển địa lý cuối thời Thanh hình như đã nói bóng gió về sự hiện diện của nông dân tại các đảo này, nhưng đoạn trích này rất mơ hồ. Hơn nữa, tài liệu được dẫn ra trong từ điển địa lý này không thể kiểm chứng và thời điểm mà ông He đưa ra (1488) không phù hợp với thời điểm mà tôi có thể tìm thấy trong danh mục hiện nay (1511). Về thời điểm năm 1511 xin xem Li Mo, “Quảng Đông Phương chí yếu lục”, tr. 435.
[37] Về Bành Hồ, xem, ví dụ như Cai PingLi, “Bành Hồ Thông sử” (Đài Bắc: Trung Văn đồ thư cố phần hữu hạn công ty, 1979).