Bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam

ButNghien

Học tập suốt đời!
Thành viên BQT
Xu
46
BỨC TRANH ĐỜI SỐNG CỦA PHỐ HUYỆN NGHÈO LÚC CHIỀU TỐI TRONG TRUYỆN NGẮN "HAI ĐỨA TRẺ" CỦA THẠCH LAM



Trong Tự Lực văn đoàn, nhà văn Thạch Lam đứng thành một dòng riêng biệt. Nhất Linh với Khái Hưng còn có thể viết tiểu thuyết chung nhưng Thạch Lam thì không. Giọng điệu của Thạch Lam nhỏ nhẹ, điềm tĩnh, sâu lắng, nhiều dư vị, có sức truyền cảm đặc biệt. Thạch Lam lại hướng về các nhân vật bé nhỏ ở tầng lớp dưới của xã hội. Trong khi đó, các nhà văn khác của Tự lực văn đoàn lại hướng về các nhân vật thượng lưu. “Hai đứa trẻ” là truyện ngắn tiêu biểu cho văn phong Thạch Lam, cho khuynh hướng tư tưởng của Thạch Lam, hướng về cuộc đời, hướng về cái Thiện, cái Mĩ.

Truyện của Thạch Lam không có chuyện. Truyện “Hai đứa trẻ” cũng vậy. Chỉ có hai đứa trẻ từ Hà Nội chuyển về một phố huyện nghèo, trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. Chiều, hai chị em ngồi trên chiếc chõng tre ngắm cảnh phố xá lúc hoàng hôn, rồi đêm đến, tuy đã buồn ngủ ríu cả mắt, hai chị em vẫn cố thức để đợi xem chuyến tàu đêm từ Hà Nội chạy qua rồi mới khép cửa hàng đi ngủ. Thạch Lam muốn tránh lối viết tầm thường là hấp dẫn người đọc bằng cốt truyện li kì, những tình tiết éo le, những cuộc tình mùi mẫn, hoặc là những xung đột gay cấn hồi hộp. “Hai đứa trẻ” hấp dẫn người đọc bằng chất liệu thật của đời sống. Cách lựa chọn chất liệu này gần với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài (các nhà văn hiện thực giàu tính nhân đạo), lại kích thích người đọc bằng những ước mơ, hoài bão tốt đẹp. Tinh thần lãng mạn ấy gắn với các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo. Thạch Lam có một lối văn nhẹ như cánh bướm đậu trên hoa. Bức tranh bằng ngôn ngữ của ông có thể ví với tranh lụa chứ không phải sơn dầu. Thạch Lam trước sau vẫn là một nhà văn lãng mạn. lãng mạn tích cực, đẹp.

Trong “Hai đứa trẻ” chất lãng mạn và hiện thực hòa quyện với nhau hiện ra trong bức tranh thiên nhiên của một vùng quê vào một buổi chiều ả. Rồi màn đêm dần dần buông xuống “Một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát...” thiên nhiên thì cao rộng thì cao rộng và thơ mộng. “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Nhưng làng quê thì đầy bóng tối, thảm hại. “Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”. “Đôi mắt Liên, bóng tối ngập đầy dần”. “Chỉ thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn”. Chính bức tranh đời sống rất mực chân thật vừa thấm đượm cảm xúc chữ tình này đã gây nên cảm giác buồn thương day cho người đọc. Ý nghĩa tư tưởng của truyện chủ yếu toát ra từ bức tranh đời sống phố huyện nghèo.

Dưới mắt của hai đứa trẻ, cảnh phố huyện hiện lên thật là cụ thể, sinh động, gợi cảm. Đó là cảnh bãi chợ trống trải, vắng vẻ khi buổi chợ đã vãn từ lâu. “Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”. Cảnh chợ tàn phơi bày sự nghèo nàn, xơ xác của đời sống phố huyện. Ống kính cần mẫn của nhà văn lia qua phố huyện: trên đất chỉ còn “rác rưởi, bỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Cảnh còn được miêu tả bởi khứu giác tinh tế của nhà văn “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Bức tranh phố huyện trong “Hai đứa trẻ” đầy sức ám ảnh là vì những màu sắc và hương vị như thế.

Trong khung cảnh tiêu điều, buồn bã đó, hình ảnh những con người nghèo khổ, lam lũ, nhếch nhác của phố huyện hiện dần ra. Những đứa trẻ đi nhặt nhạnh những thứ rơi vãi ở bãi chợ. Mẹ con chị Tí lễ mễ đội chõng xách điếu đóm ra dọn hàng, “ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này...”. Gia đình bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để ở trước mặt”. Thằng con bò ra đất nghịch nhặt rác bẩn bên đường. Và hai chị em Liên với cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê vì thầy Liên mất việc. Bà cụ Thi điên điên tàng tàng mua rượu uống và cười “khanh khách” lảo đảo đi vào bóng tối. Tất cả đều là những **** sống lầm than, cực khổ, tàn tạ. Qua con mắt của bé Liên, tất cả cuộc sống chìm trong đêm tối mênh mông, chỉ còn ngọn đèn của chị Tí, cái bếp lửa của bác Xiêu, ngọn đèn Hoa Kỳ vặn nhỏ của Liên... tức chỉ là mấy đốm sáng tù mù, những đốm lửa nhỏ nhoi ấy chẳng làm cho phố huyện sáng sủa mà chỉ càng khiến cho đêm tối mịt mù dầy đặc mà thôi. “Tất cả phố xá trong huyện bây giờ thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí”. Hình ảnh ngọn đèn con nơi hàng nước của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ ấy trở đi trở lại tới bẩy lần trong huyện là hình ảnh đầy ám ảnh và có sức gợi rất nhiều về những **** sống nhỏ nhoi, lay lắt, mù tối trong đêm đen mênh mông của cuộc đời.

Cảnh phố huyện lúc chiều tối như một khúc nhạc buồn mà điệp khúc cứ lặp lại. Chiều tối nào mẹ con chị Tí cũng lễ mễ dọn hàng, chị em Liên lại kiểm hàng rồi tính tiền, rồi ngồi trên chõng tre ngắm cảnh. Bác phở Siêu lại gánh hàng và thổi lửa, bác Xẩm lại trải chiếu, đặt thau. Điệp khúc ấy cứ lặp đi lặp lại đơn điệu, buồn tẻ. Họ cũng lóe lên một chút hi vọng. Hi vọng là liều thuốc an thần cho những con người **** khổ ấy. Nhất Linh cũng từng nói những người dân quê rất nghèo khổ tiền bạc nhưng rất giàu hi vọng hão “chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.

Hai đứa trẻ làm sao ý thức rõ rệt được cảnh tù đọng, buồn chán, bế tắc mà chúng đang sống cũng như về những khát vọng tinh thần mơ hồ của mình. Song với tâm hồn ngây thơ, nhạy cảm, cô bé Liên cảm nhận thấm thía tuy chỉ là vô thức hiện thực đó, khát vọng đó. Chính vì khao khát được thoát khỏi cảnh tù đọng mù tối ấy mà chị em Liên đêm đêm cố thức đợi chuyến tàu đi qua. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua, một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn chị Tí và ánh lửa bác Siêu.

“Hai đứa trẻ” của Thạch Lam không đi sâu miêu tả những xung đột xã hội, xung đột giai cấp. Ông cũng không để tâm miêu tả những bộ mặt gớm ghiếc của những kẻ bóc lột và khuôn mặt bi thảm của những kẻ bị áp bức, vì nói cho cũng Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn. Ông phác họa bức tranh phố huyện nghèo, chân thật trong từng chi tiết và trong chiều sâu tinh thần của nó. Bức tranh làng quê mù xám với những con người nhỏ nhoi đáng thương ấy thấm đẫm niềm cảm thương chân thành của tác giả đối với những người lao động nghèo khổ sống quẩn quanh bế tắc, tối tăm. Qua bức tranh ảm đạm của phố huyện và qua hình ảnh của những con người bé nhỏ với chút hi vọng le lói, ta thấy được mơ ước lớn của nhà văn là muốn thay đổi cuộc sống ngột ngạt đó cho những con người lao động nghèo khổ.


Bài viết sưu tầm
 
bức tranh nhân thế trong truyện ngắn Hai đứa trẻ-

Khi nhắc đến Thạch Lam, người ta thường nghĩ ngay đến những tác phẩm truyện ngắn của ông, bởi “mỗi truyện ngắn của Thạch Lam là một bài thơ trữ tình đầy xót thương”. Xót thương, vì trong từng câu chữ của Thạch Lam ta tìm thấy những mảnh đời bé nhỏ nép mình trong bóng tối của một không gian hẹp thường là nơi phố huyện tiêu điều, xơ xác, hay có đôi khi là những xóm nghèo nơi ngoại ô Hà Nội. Ở đó, có những phận người tìm kím nơi ẩn náu cho chính mình, họ như tách khỏi cuộc đời, nơi xã hội đầy bất trắc bên ngoài. Có lẽ chỉ có những con người như thế mới cảm nhận hết về mình và về cuộc sống xung quanh. Dường như họ thu mình trước thực tại để xót mình và thương người, để bâng khuâng man mác khi hồi tưởng về quá khứ? Để mang nặng một mặc cảm mờ mịt trong lòng khi nghĩ đến tương lai. Không có cốt truyện, tình tiết nhẹ nhàng, không gây cấn, không xung đột nhưng qua truyện ngắn Hai đứa trẻ, nhà văn Thạch Lam đã chuyển tải một cách thành công cuộc sống tối tăm, nghèo khổ của những con người bé nhỏ, đáng thương ngày ngày quay quất trong bóng tối nơi phố huyện nghèo. Không như những nhà thơ, nhà văn cùng thời, văn Thạch Lam nói chung cũng như “Hai đứa trẻ” nói riêng không phải là những tiểu thuyết bóng bẩy hay các câu chuyện mờ ảo phi hiện thực mà ở đó là sự kết tinh của những yếu tố bình dị nhất, thực tế nhất tận trong các ngõ ngách của cuộc đời mà có đôi khi, những con người bình thường như chúng ta lại không thể nhìn thấy được.

Bức tranh phố huyện mở ra với cảnh ngày tàn, một ngày lại kết thúc “dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời” và lúc ấy, những con người cùng khổ lại lầm lũi tiếp tục cuộc sống mưu sinh. Chẳng có gì là lạ, vì cuộc sống của những phận đời nơi đây vốn đã luôn bị phủ trùm trong bóng tối. Bóng tối như phủ đầy thiên truyện, phủ mờ cảnh vật và đè nặng lên cuộc đời của những con người đáng thương nơi phố huyện nghèo xác xơ. Cửa hàng phên nứa dán giấy nhật trình, chiến chõng tre nơi chị em Liên ngập đầy bóng tối. Con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng như bị bao trùm bởi một lớp không khí đen quánh đặc. Tiếng trống cầm canh, tiếng ếch nhái kêu ran từ đồng xa vọng đến, tiếng cười giòn giã của bà cụ Thi… Tất cả chìm sâu vào bóng đêm một cách lặng lẽ, con người cũng dần chìm đi, hoà tan, nhập thân vào lớp màn đêm không ánh sáng.


Trong cảnh xác xơ tiêu đìu của cảnh ngày tàn đang hoà lẫn vào trong màn đêm, bức tranh nhân thế hiện lên với những mảnh đời lầm lũi, đáng thương. “Những đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại”. Những đứa trẻ ấy, những con người ấy đang từng ngày sống bằng những thứ dư thừa của cuộc đời, những thứ mà người ta vứt đi, không cần dùng đến nữa. Thật trớ trêu làm sao, thứ mà người ta bỏ đi lại là thứ có thể neo buộc, dù chỉ là mỏng manh cuộc sống lay lắt của những con người nơi đây. Cuộc sống của mẹ con chị Tí có lẽ cũng chẳng khá gì hơn, cuộc đời họ như gắn liền với màn đêm tăm tối. “Thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra”, mẹ của nó, chị Tí đi theo sau, “đội cái chõng trên đầu và tay mang không biết bao nhiêu là đồ đạc…”. Hình ảnh hai mẹ con chị Tí đã làm ta nhớ đến cuộc đời hai mẹ con cái Hiên trong truyện ngắn “Gío lạnh đầu mùa”, mẹ thì mò cua bắt óc, con thì áo rách phong phanh, đứng co ro trước làn gió lạnh... Thạch Lam đã dành cho những bà mẹ, những em bé nghèo khổ nhiều trắc ẩn, xót thương!


Hình ảnh bà cụ Thi hơi điên “tiếng cười khanh khách, tay cầm cút rượu soi lên rồi cười giòn giã, vừa đi vừa ngửa cổ ra đằng sau, dốc cút rượu uống một hơi cạn sạch, chép miệng”. Mường tượng ra hình ảnh này, chắc ít nhiều người đọc cũng có những suy nghĩ khác lạ thoáng qua trong đầu, những thắc mắc về nguyên cớ đưa một bà cụ điên vào trong tác phẩm. Cái điên ấy, nào chỉ là một sự ngẫu nhiên? Sự điên kia phải chăng là một cách cười khẩy cái sự đời, cười cho bớt đi những đau xót về cái cảnh đời cùng khổ? Hình ảnh ấy, đã và đang gợi cho ta nhiều thương xót về một cuộc đời xế bóng ở chốn tối tăm.

Cảnh gia đình bác xẩm mới thê lương. Tiếng đàn bầu bần bật. Vợ chồng ngồi trên manh chiếu, trước mắt là cái chậu thau sắt trắng, thằng con bò lê la trên đất “nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường”. Và bác Siêu, bán phở rong trong đêm, một thứ quà xa xỉ mà chị em Liên không bao giờ mua được. Đòn gánh bác kêu “kĩu kịt”, bóng bác “mênh mang ngã xuống đất một vùng…”. Tất cả góp phần vào cảnh đời đầy bóng tối nơi phố huyện nghèo nàn xơ xác, những kiếp sống cơ cực, tàn tạ và lầm than. Những con người ở nơi đây, dù họ là ai, dù hoàn cảnh có khác nhau như thế nào thì ở họ vẫn có những điểm chung nhất định, họ túm tụm vào nhau giữa một màn đêm tăm tối, tăm tối như chính cuộc đời của họ.


Gĩưa những con người đang hoà mình vào nhau và hoà vào bức màn màu đen đặc kín, hai đứa trẻ hiện lên cũng hoà vào cùng một tâm trạng với những người dân phố huyện. Bởi cuộc sống của hai chị em Liên vốn cũng chẳng hơn gì bác xẫm, bác Siêu hay mẹ con chị Tí. Có thể nói, hai chị em Liên là hình ảnh trung tâm của bức tranh đời sống của phố huyện nghèo. Cảnh nhà sa sút, bố mất việc, cả nhà bỏ Hà Nội về quê, mẹ làm hàng xáo. Hai chị em Liên được mẹ cho trông coi một cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu, dán giấy nhật trình, bán lèo tèo vài que diêm, dăm miếng xà phòng, một ít rượu. Ngay tựa đề tác phẩm, ta đã cảm giác một sự rất lạ trong cách gọi tên nhân vật. Liên, được Thạch Lam trân trọng gọi bằng chị Liên, nghe có vẻ như một cô gái chừng đã đến tuổi chững chạc. Nhưng không, đúng như cái tên tác phẩm, Liên cũng chỉ là một đứa trẻ, một cô bé không hơn không kém mà thôi. Thế nhưng có lẽ sớm ý thức được hoàn cảnh gia đình mình, là một người chị lớn, Liên đã biết cách tỏ ra là một cô gái đảm đang, vén khéo. Điều này thể hiện rõ ở chi tiết Liên nâng niu và giữ gìn chiếc dây xà tích bạc ở thắt lưng, đơn giản vì nó giúp Liên tỏ ra được là một cô gái lớn. Nhân vật Liên trong thời khắc chiều tối gây ấn tượng cho người đọc ở sự nhạy cảm và chiều sâu tâm hồn: Cảnh thiên nhiên trong ánh nắng chiều lăng trầm và u uất làm Liên “buồn man mác trước thời khắc của ngày tàn”. Liên thương những đứa trẻ nhặt rác ở bãi chợ, thương những con người cùng có cảnh đời nghèo khổ như mình. Ta nhận thấy ở Liên một tâm hồn trong sáng và cao thượng. Dù chỉ là một cô bé, Liên vẫn có những xúc cảm đáng trân trọng, cô cảm nhận được mùi riêng của đất, cảm nhận được hương vị của quê hương. Và hơn hết, cô dành một tình cảm gắn bó đặc biệt cho mảnh đất nơi phố huyện nghèo xơ nghèo xác, dù nơi ấy chỉ có những con người lầm lũi, dù nơi ấy sau mỗi buổi chợ tàn trên mặt đất chỉ còn lại vỏ thị, vỏ bười và mùi âm ẩm, mùi cát bụi quen thuộc bốc lên.

Không có quá nhiều tâm tạng và những nỗi niềm phải lo toan như chị Liên, An còn rất ngây thơ, vô lo vô nghĩ. Tuy chỉ là nhân vật phụ, qua ngòi bút điêu luyện và sắc sảo của mình, Thạch Lam cũng đã ngầm mượn nhân vật An để chuyển tải tâm tư của những con người sống trong cảnh âm u, tăm tối. Cũng như Liên, An dù vô tư song qua sự vô tư ấy, An cũng thể hiện niềm mơ ước và hi vọng được hướng tới ánh sáng, được thay đổi cuộc đời, thoát khỏi cái nơi bị bóng tối bao trùm lên tất cả.

Vâng, tối tăm là thế, mờ mịt là thế, cứ tưởng như ngày mai của Liên, An cũng như những mảnh đời họ đã bị một màn đen dày đặc phủ kín, cứ tưởng như những con người lầm lũi nơi đây đã cam lòng, yên vị nhốt mình ở chốn nghèo khổ đầy kín bóng đêm. Nhưng không, Thạch Lam đã cùng những mảnh đời bé nhỏ đi tìm cánh cửa vượt qua khó khăn đó bằng sự đồng cảm, lòng yêu thương con người và bằng cả những trải nghiệm của chính mình. Thạch Lam lắng nghe, cảm nhận từng biến đổi tinh vi của tâm trạng nên chọn cách miêu tả theo trình tự thời gian. Bức tranh phố huyện của Thạch Lam được mở đầu bằng cảnh chiều tàn kéo dài đến đêm khuya, những gì mà ta có thể nghe và thấy chỉ là những tiếng ếch nhái vọng lên từ một màn đêm tối đen u uất. Màn đen ấy như bao trùm lên vạn vật, “trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ đen như nhung và thoảng qua gió mát. Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”. Và giữa cái khoảng không đầy bóng tối ấy, xuất hiện những chút ánh sáng leo loét, nhỏ nhoi: quầng sáng của ngọn đèn mẹ con chị Tí, vệt sáng của những con đom đóm, hột sáng từ ngọn đèn của Liên và khe sáng từ những cửa hàng còn thức… Nhưng dù bức tranh của Thạch Lam bị màu đen tối tăm làm chủ, Thạch Lam vẫn không bao giờ để nhân vật của mình phải sống trong cảnh tuyệt vọng, thiệt thòi. Bằng niềm cảm thông và sự trân trọng nhân vật của mình, Thạch Lam đã nhóm lên trong những người dân nơi phố huyện chút gì đó gọi là niềm tin. Sống trong bóng tối, sống trong yên lặng, cả phố huyện ngày càng nặng trĩu sự tĩnh mịch và âm u, , le lói đâu đây chút ánh sáng nhạt màu nhưng vẫn sáng lên một tia hi vọng, hi vọng về một nguồn ánh sáng mới vụt qua sẽ cuốn đi tất cả sư tăm tối nơi đây, mang đến cho những con người nơi phố huyện ngheo một niềm an ủi. Bởi một lẽ đơn giản, dù hàng nước của chị Tí may lắm mới có dăm ba anh lính huyện ghé vào uống bát nước chè nóng, dù vợ chồng bác xẩm đến nỗi phải ngủ gục trên manh chiếu rách mà cái thau sắt trắng đặt trước mặt thì vẫn trống không, song ở họ luôn có một niềm tin vượt lên số phận, một nỗi khát khao mơ hồ, một ước mơ không bao giờ vụt tắt, một chút tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ hằng ngày. Chuyến tàu đêm đem một thế giới khác đi qua nơi phố huyện tối tăm , mang đến cho con người một sự sống mới. Chuyến tàu đêm vụt qua, rầm rộ trong chốc lát, bừng sáng lên trong khoảnh khắc, mang bao nhiêu kỉ niệm về một thời thơ ấu và tràn ngập cả không gian. Màn đêm tạm thời bị xua tan đi nhường vị trí cho ánh sáng ngự trị, con người lồng vào trong bóng đêm đã được ánh sáng phủ lên một niềm hi vọng, khát khao. Chuyến tàu đêm đã mở thành một biến cố trọng đại nơi phố huyện nghèo. “Chừng ấy người trong bóng tối mong chờ một điều gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”. Và cũng như những con người ấy, Liên và An- hai đứa trẻ của Thạch Lam cũng có những mơ ước bé nhỏ, tuy bé nhỏ mà lớn lao, tuý bé nhỏ nhưng đáng trân trọng Với chiều sâu tâm hồn của mình, Liên cảm thấy vương vấn, luyến tiếc về một quá khứ và biết hướng đến một tương lai. Và An, dù còn rất vô tư vè trẻ con, song trong tâm hồn trẻ con ấy cũng biết hi vọng, cũng biết ước mơ. Ta có thể nhận thấy rõ chi tiết này qua việc dù buồn ngủ đến ríu cả mắt An vẫn dặn chị khi nào đoàn tàu đến thì gọi mình dậy để xem cho thoả sự mong đợi. Sự chờ đợi và mong mỏi này, phải chăng chính là niềm khao khát có một ngày được thoát khỏi bóng tối và hoà vào ánh sáng cuộc đời? Hay đơn giản hơn, hai đứa trẻ của Thạch Lam nói riêng và những người dân nơi phố huyện nghèo nói chung đang chờ đợi đoàn tàu đến mang theo cái ồn ào và náo nhiệt nơi đô thành Hà Nội, tạm xua đi cái bóng tối buồn tẻ đang bao quanh lấy cuộc đời.


Tiếng còi và ánh sáng con tàu cứ chậm rãi tiến xa dần, rồi khuất sau rặng tre. Con tàu đến mang đến cho những con người khốn khổ những ước mơ và đem ước mơ của họ đi xa hơn. Con tàu qua rồi, những mảnh đời bé nhỏ lại tiếp tục trở về với cuộc sống tối tăm, lầm lũi vốn có. Họ vẫn là họ, lặng lẽ, âm thầm trong bóng tối, nhưng hi vọng thì không bao giờ vụt tắt…
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top