• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Bình giảng tác phẩm Những đứa con trong gia đình

hoangphuong

New member
NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH


ĐỖ KIM HỒI​


Đã có một lần nào, tôi thử điểm lại trong trí nhớ của mình tên những tác phẩm chính của Nguyễn Thi: Người mẹ cầm súng, Mẹ vắng nhà, Những đứa con trong gia đình, Những sự tích ở đất thép, Ước mơ của đất, Chuyện xóm tôi, Ở xã Trung Nghĩa… Để rồi sực nghĩ ra rằng: hình như làm nên một Nguyễn Thi trong nền văn học của chúng ta không phải là cảm hứng về những gì lạ lẫm, xa vời, bay bổng, mà là Mẹ, là Đất, là Quê hương, làng xóm, những cái gắn bó ruột rà, thân thiết với đời sống thuần hậu và còn rất nhiều cực khổ của con người. Đọc Nguyễn Thi, thấy tác phẩm của ông nồng nàn hơi thở thô phác, ấm áp và mạnh mẽ của đất đai, những nhân vật của ông cắm chắc vào đời sống, luôn luôn lăn lộn trong gian nguy vất vả, da dẻ cứ đỏ au lên vì nắng gió, khẩu súng lúc nào cũng ấm tay người và áo quần dường như vẫn đẫm chất mồ hôi mặn mòi, khét cháy.

Có thể bởi vậy mà khi nghĩ đến Nguyễn Thi, trong óc tôi thường cứ hay hiện về một ý thơ của Nadim Hikmet:

Làm đám mây rất thích
Làm con chim lại càng thích hơn.
Nhưng tôi vui sướng được làm con người,
Và cái yêu thích nhất của tôi là đất,
… Hễ cứ rời xa mặt đất là một nỗi buồn xâm chiếm lấy tôi …

Nguyễn Thi hay viết về người anh hùng. Phẩm chất anh hùng, có thể nói, luôn có mặt ở các mức độ khác nhau trong hầu như tất cả các nhân vật chính diện trong tác phẩm của ông. Nhưng đó là kiểu người anh hùng – con đẻ của đất cày và sông nước; ở đó, cái anh hùng hòa lẫn với cái bình dị, sự cao cả hiện ra dưới vẻ thân thuộc, gần gũi, chất phác tự nhiên, và rất lắm khi chất anh hùng lại bộc lộ ra qua những biểu hiện đến là thơ ngây, ngộ nghĩnh.

Có cảm giác như, khi tìm cách lí giải, cắt nghĩa phẩm chất anh hùng của con người, Nguyễn Thi đã rất tâm đắc với ý tưởng nghệ thuật này: người anh hùng đó là sản phẩm sinh ra từ thời đại. Nhưng người anh hùng lại không chỉ là sản phẩm của thời đại mà thôi. Đọc Nguyễn Thi, ta thấy rõ: phẩm chất anh hùng của họ còn phải được hiểu như sự tiếp nối một nguồn cội, một nếp nhà, còn phải được xem như là truyền thống, là di sản, một di sản thiêng liêng mà các thế hệ cha anh đã truyền lại, đã bàn giao lại cho lớp cháu con. Tôi thấy Nguyễn Thi hình như không muốn chia sẻ với loại cảm hứng thiên về khai thác những xung đột lí tưởng giữa những con người trong một gia đình hay dòng họ. Hứng thú nghệ thuật của ông dồn cả cho kiểu gia đình như gia đình chị Út trong Người mẹ cầm súng và nhất là trong Mẹ vắng nhà, ở đó, người mẹ đã đem lại cho đứa con không chỉ một hình hài mà còn là một tấm gương về cách sống.

Nhưng ở vị trí trung tâm của Mẹ vắng nhà đang là những đứa trẻ còn rất nhỏ và còn chưa rời khởi mái nhà của cha mẹ. Vấn đề sẽ có ý nghĩa nhiều hơn trong một truyện ngắn khác, cái truyện ngắn mà giờ đây ta bàn tới, truyện Những đứa con của gia đình.

Nhân vật chính trong thiên truyện là những thanh niên đã bước sang lứa tuổi mười tám đôi mươi, đã trở thành những chiến sĩ xông pha trận mạc, và đã lập chiến công. Hai chị em Chiến, Việt – tên những thanh niên ấy – đã từng bắn giặc trên sông Định Thủy. Riêng Việt, cậu em trai, còn “diệt được một xe đầy Mĩ với sáu thằng Mĩ lẻ” trong một trận đọ lê đẫm máu. Vậy mà trong tác phẩm, Nguyễn Thi vẫn thể hiện họ trong tư cách những đứa con. Họ quả có được miêu tả trong quan hệ với anh em đồng đội: anh Tánh, anh Công… Thế nhưng họ vẫn được miêu tả nhiều hơn trong quan hệ với gia đình.

Còn một điểm khác nữa giữa truyện ngắn này với truyện Mẹ vắng nhà mà ta vừa nhắc đến: ở đây, được nói tới như những đứa con trong gia đình lại là Chiến, Việt, những người mà gia đình thực đã không còn nữa: cha mẹ đều đã hi sinh, ngôi nhà cũ đã nhường để làm trường học, bàn thờ má phải gửi sang nhà khác, và bản thân thì đang chiến đấu ở nơi xa… Nhưng ngay cả với những người như thế, hình ảnh của gia đình, những kí ức về gia đình, những tình cảm với gia đình và những truyền thống mà họ là lớp người kế tục… tất cả vẫn sống như là một thực thể, một nguồn sinh lực nuôi dưỡng tinh thần, một nguồn sáng soi đường cho con người cảm xúc, nghĩ suy, hành động.

*
* *​

Những đứa con trong gia đình có một lối tự sự mang khá nhiều nét riêng. Câu chuyện được thuật lại không hoàn toàn theo trật tự thời gian mà chủ yếu là nhịp theo dòng hồi tưởng miên man đứt nối của Việt, vào lúc người chiến sĩ trẻ ấy bị thương sau cuộc đọ lê, cứ liên tục ngất đi rồi tỉnh lại trong hoàn cảnh chỉ có mình với mình giữa một chiến trường mênh mông đầy bóng tối – bóng tối của màn đêm và bóng tối do mắt Việt bị thương nên không thể nhìn thấy gì ở bên ngoài.
Khi chọn kiểu kể chuyện này không rõ tác giả có nghĩ đến và có chịu ảnh hưởng gì của lối viết theo “dòng ý thức” của tác giả bộ Đi tìm thời gian đã mất hay không. Nhưng lối thuật chuyện mà Nguyễn Thi đã chọn quả có giúp tác giả dễ dàng cất bỏ những tấm vách ngăn giữa quá khứ và hiện tại, giữa cái đang ở trước mặt và cái đã thành kỉ niệm xa xưa, giữa những chi tiết thoáng đến thoáng đi, tưởng chứng như bâng quơ, như ngẫu nhiên, với những tư tưởng tình cảm lớn lao, trọng đại.

Hãy dõi theo một đoạn văn nào đó, chẳng hạn như cái đoạn bắt đầu từ câu: “Việt tỉnh dậy lần thứ hai lúc trời lất phất mưa”. Tiếng máy bay, tiếng động duy nhất mà Việt nghe thấy trên một bãi chiến trường đã trở nên vắng lặng từ lần tỉnh đầu tiên, bây giờ đã tắt hẳn rồi. Chỉ còn tiếng “ếch nhái kêu dậy lên”. Âm thanh ấy dẫn Việt trở lại những ngày còn chưa đi bộ đội, những đêm trời vừa dứt mưa, hai chị em lóp ngóp ra đồng soi đèn bắt ếch. “Cười từ lúc đi cho đến lúc về”. Mạch liên tưởng miên man tràn đến chú Năm, vì “khi để ếch vào thùng, chú Năm thế nào cũng sang”. Rồi ý nghĩ lại đi từ “Việt thương chú Năm…” lần lần chuyển qua cuốn sổ gia đình mà chú vẫn ghi đều đặn, và những gì cuốn sổ ấy gợi lên. Đến đây, dòng ý nghĩ chợt đứt, vì Việt lại ngất đi. Đoạn văn tiếp liền sau cũng thế. Nó mở đầu đột ngột với câu: “Việt choàng dậy”. Ta sẽ không còn gặp ở đây tiếng ếch kêu đêm. Chỉ có, trong buổi ban ngày, tiếng chim cu rừng gù gù đâu đó. Tiếng chim gợi nhớ chiếc ná thun. Và chiếc ná thun, đến lượt nó, thật không ngờ mà cũng thật tất nhiên, đưa Việt về với những kỉ niệm về người mẹ, thoạt đầu là khi mẹ mất, rồi mới ngược dần về những ngày mẹ còn sống với đàn con, về đôi mắt mẹ “sắc ánh lên nhìn bọn lính, đôi mắt của người đã từng vượt sông, vượt biển”. Đến đúng khúc thiêng liêng ấy, mạch văn đột nhiên bị ngắt giữa chừng, vì Việt lại bị ngất đi lần nữa.

Cứ thế, dòng tâm tư trong truyện chảy trôi, khi đến gần bờ hiện tại, khi lại lượn xa tắp về quá vãng, nhịp trôi khi chậm khi nhanh, khi liền khi đứt. Tâm trạng con người hiện lên chân thật, tự nhiên, bởi nó vốn dĩ vẫn như thế trong đời sống. Nhưng chính nhờ qua cái tổ chức lại, cải tạo lại, những khoảng thời gian rất xa nhau bây giờ đồng hiện bên nhau, những khối không gian rất cách biệt nhau bây giờ tồn tại cạnh nhau; đời sống như được soi chiếu dưới một thứ ánh sáng khác, nó hiện lên trong nhiều màu vẻ phong phú, bất ngờ.

Nhưng ưu điểm của lối thuật chuyện theo dòng kí ức vừa liên tục vừa gián đoạn như đã nói ở trên không chỉ thể hiện ở chỗ nó làm cho kết cấu của truyện ngắn thêm linh hoạt, thêm sống động, thêm những ngã rẽ, những khúc quanh người đọc không dễ dự kiến ra. Không chỉ có thế. Bởi không nên quên rằng nhà văn đã để cho nhân vật Việt của mình hồi tưởng trong hoàn cảnh hoàn toàn đơn độc giữa một trận địa vắng lặng đến ghê sợ, và giữa sự rình rập của hiểm nguy và của cái chết có thể ập đến bất cứ lúc nào. Hãy đọc lại truyện để xem Nguyễn Thi đã viết hay đến thế nào về “cái cảm giác một mình bật lên” thật rõ ràng, giữa một cái mênh mông đầy đe dọa trong một chàng tân binh trơ trọi, hai mắt không còn nhìn thấy gì, tay đau không thể quẹo ra sau mà lấy bình nước trong khi người đã khô khốc đi vì đói khát, mười ngón tay không còn ngón nào kéo nổi cơ bẩm súng, lết người đi được một đoạn cũng là cả một kì công. Và nếu cái “bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo bao tròn lấy Việt” trong cánh rừng cao su vừa trải qua trận đọ lê dữ dội kia thỉnh thoảng có bị phá vỡ thì cái phá vỡ nó lại là “tiếng trực thăng phàng phạch bay từng bầy trên đầu”, tiếng “pháo bầy nổ càng gần hơn”, “tiếng xe bọc thép ào ào chạy qua hướng trước mặt”.

Vào một lúc như thế, người ta có thể nghĩ gì? Chắc chắn người ta sẽ nhớ lại, và cũng sẽ chỉ nhớ lại những gì gắn bó thân thiết nhất, những gì đã thực sự làm nên đời sống của bản thân mình. Vì thế, với việc để nhân vật Việt trong thế đối mặt với cái chết và đối diện với bản thân, chỉ nghĩ nhiều nhất, lâu nhất đến những người trong gia đình (chị Chiến, má, chú Năm…), tác giả đã tìm được một cách thức nghệ thuật hữu hiệu để chứng tỏ rằng: gia đình, đó là phần nguồn cội thấm sâu nhất của con người ấy, và truyền thống gia đình là thực sự thiêng liêng vì nó đã hiện lên trong một thời khắc thiêng liêng.

Như thế, kiểu kết cấu theo dòng chảy của một quá trình hồi tưởng là một công phu sáng tạo về hình thức. Nhưng ý nghĩa nghệ thuật của sự sáng tạo hình thức ấy lại ở chỗ nó góp phần đắc lực nhất trong việc biểu hiện những khám phá về mặt nội dung.

*
* *​

Nếu phải chọn trong truyện ngắn này của Nguyễn Thi một câu văn nào cô đúc được tư tưởng cơ bản của toàn thiên truyện thì tôi sẽ xin được dẫn ra câu nói của chú Năm: “… Chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó”. Tôi muốn hiểu câu nói này trên hai ý nghĩa. Thứ nhất, chỉ được coi là con của gia đình những ai đã ghi vào được, ai đã làm nên được khúc của mình trong dòng sông truyền thống. Con, đó là sự tiếp nối, nhưng không chỉ là sự tiếp nối một huyết thống, mà còn là sự tiếp nối một truyền thống. Nhưng còn một ý nghĩa thứ hai: không thể hiểu khúc sau của một dòng sông, nếu không hiểu ngọn nguồn đã sinh ra nó. Cũng tương tự vậy, ta chỉ có thể hiểu về những đứa con của một truyền thống gia đình khi, và chỉ khi ta hiểu ít nhiều về chính cái truyền thống gia đình đã sinh thành ra những đứa con.

Trong truyện, cái truyền thống ấy không kết tinh ở nơi đâu đấy đủ hơn là trong hình tượng Chú Năm. Đọc truyện, tôi thấy thích ông già này trước hết vì thứ ngôn ngữ đầy cá tính của ông. Một thứ ngôn ngữ chỉ cần nghe thoáng qua đã nhận ra ngay cái chất Nam Bộ không thể nào trộn lẫn. Nhưng có lẽ phải đợi tới khi qua miệng của chú Năm thì những từ Nam Bộ như trọng trọng, thỏn mỏn mới được dịp trở nên cực thú. Truyện kể rằng chú Năm là người “đi đây đi đó nhiều” và cũng “ham sông ham bến”. Nhưng đọc Những đứa con trong gia đình, ta thấy nhân vật này không chỉ ham sông bến mà còn ham đạo nghĩa. Trong con người sống giữa thời chống Mĩ này, vẫn thấy phảng phất cái tinh thần Nguyễn Đình Chiểu thuở xa xưa. Và điều đó được nhận ra vẫn chủ yếu là qua lời nói: “Chú Năm nói mầy với ta đi kì nầy là ra chân trời mặt biển…” – đấy là Chiến nhắc lại lời của chú Năm. Còn đây là lời nói trực tiếp của ông già ấy: “Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non”. Những câu nói như thế này đặc sắc bởi đâu, nếu không phải bởi trong chúng ta nghe thấy âm vang của sóng nước và của đạo lí nghìn xưa.

Nguyễn Thi đã trao cho tính cách thú vị này vai trò của một thứ gia phả sống. Đọc truyện, ta sẽ thấy rõ rằng nhân vật này luôn hướng về truyền thống, sống với truyền thống, đại diện cho truyền thống và lưu giữ truyền thống trong câu hò và cuốn sổ. Trong toàn truyện chỉ có chú Năm là người duy nhất hay hò. “Chú hay kể sự tích của gia đình và cuối câu chuyện thế nào chú cũng hò lên mấy câu… những câu nói về cuộc đời cơ cực của chú và những chiến công của đất này”. Nhưng nhà văn muốn loại trừ ngay trong ta mọi vấn vương, dù nhỏ, của cách hiểu rằng cái người hay hò này ít nhiều cũng là một tài năng nghệ thuật. Trong chú Năm, không hề có chút bóng dáng nào của Trương Chi. “Chú già rồi, giọng hò đã đục và tức như gà gáy”. Nhưng hãy xem con người có cái giọng “đục và tức” nọ hò mới thật hết mình, thật trang nghiêm, tha thiết làm sao! “Gân cổ chú nổi đỏ lên, tay chú đặt lên vai Việt, đôi mắt chú mở to, đọng nước, nhìn thẳng vào mắt Việt, đầu chú lắc lư, nhắc nhủ, làm như Việt chính là nơi cụ thể chú gửi gắm những câu hò…”. Thì ra, những tấm áo vá quàng, con sông dài cá lội, người nghĩa quân Trương Định, ngọn đèn biển Gò Công… Không chỉ đơn thuần là những câu ca réo rắt mà là ngọn nguồn, là hồn thiêng của cha ông đang nhập vào chú Năm – người ca công thành kính – để truyền đến đời đời con cháu.

Song tôi vẫn nhớ cho là trong toàn bộ phần viết về chú Năm thì đoạn văn nói về cuốn sổ gia đình vẫn hay hơn, tài hơn tất cả. Gọi là cuốn sổ, nhưng nó thực là một thứ biên niên ấy được viết ra từ một ngòi bút thực sự bình dân, “chữ viết lòng còng”, lời văn mộc mạc. Một cuốn sử hay một cuốn gia phả “chính thống” chắc sẽ không có những chi tiết “thỏn mỏn” kiểu như: thím Năm bị bắn bể xuồng khi đi rọc lá chuối, “chết còn mặc cái quần mới, trong túi còn hai đồng bạc”; ông nội ra nắm giàm bò bị lính tổng Phòng bắn vào giữa bụng… Lại càng không có cuốn gia phả nào ghi kĩ càng đến ngày bọn lính chửi bác Hai một câu, ngày bà nội bị chúng đánh (thậm chí còn cặn kẽ đến mức: đánh ba roi!). Lời lẽ trong cuốn sổ của chú Năm có vẻ đúng là những sự kể lể dài dòng và cứ như không thèm biết thế nào là thanh nhã và trau chuốt. Nhưng xin hãy thử tẩn mẩn và dông dài như thế xem nó khó hơn hành văn gọn gàng đẽo gọt gấp mấy lần? Và hãy thử bỏ những câu chữ mà ta vẫn nông nổi tưởng như thừa, tưởng như không đáng kể, đáng viết xem, cuốn sổ ấy sẽ còn gì? Mất cái chất vụng về, thô mộc đó, chắc chắn những gì chú Năm viết ra sẽ không còn giá trị của những bằng chứng nóng hổi về nợ máu của kẻ thù và về sự dũng cảm, kiên cường của dòng họ trong chiến đấu.
Hình tượng người mẹ cũng là một hiện thân cho truyền thống. Đây là một hình tượng mang những dấu ấn riêng của phong cách Nguyễn Thi. Thiết nghĩ rằng, dù thích hay là không thích mặc lòng, chúng ta vẫn không thể không nhận rằng Nguyễn Thi đã tạo được cho những người phụ nữ, người mẹ trong tác phẩm của mình một vẻ đẹp riêng biệt, không giống ai và cũng chưa ai giống nổi. Đừng mong chờ tìm thấy ở Nguyễn Thi một người mẹ đẹp một vẻ đẹp mảnh mai yếu đuối. Ngược lại, họ chắc khỏe về mặt thể chất và mạnh mẽ về mặt tinh thần. Người mẹ của Việt trong truyện ngắn này cũng thế. Chị được sinh ra không để hưởng sự chiều chuộng, vuốt ve, mà để chống chọi với gian nguy, khó nhọc. Cái gáy đo đỏ, đôi vai lực lưỡng, chiếc nón rách, tấm áo bà ba đẫm mồ hôi đã đen lại không còn thấy bạc, dư sức một mình rinh thúng lúa từ dưới thuyền đặt lên giường ngủ – đó là vài nét họa trong bức chân dung người mẹ trong truyện ngắn này. Tuy nhiên, đấy vẫn là một con người rất phụ nữ. Phụ nữ ở sự tảo tần, xốc vác: sáng sáng, câu dặn dò con vừa hối hả buông khỏi miệng thì chân đã vội đẩy xuồng ra tít giữa sông. Chiều về, cái nón rách có dễ chưa kịp quạt cho khuôn mặt bớt đi một hai phần đỏ rực, lại đã bơi đi, canh hai mới trở lại nhà, người sực mùi lúa gạo và mồ hôi, thứ mùi của đồng áng, của cần cù sương nắng.

Nhưng ấn tượng đậm đà và có sức gây cảm động lòng người nhiều hơn ở cả con người ấy là khả năng cắn răng ghìm nén đau thương để sống và duy trì sự sống, để chở che cho đàn con và tranh đấu. Tôi cho đó mới là phẩm chất đích thực cao quý của người mẹ, chí ít thì cũng là của người mẹ của một đất nước như đất nước mình, và của một thời như thời chống Mĩ. Là người mẹ, tức là trở thành một sức mạnh mà không một tàn bạo, đau thương nào hòng khuất phục. Người mẹ của chị em Chiến, Việt chính là như thế. Chồng bị giặc chặt đầu, nỗi đau ấy khác gì dao cứa ngang tim, nhưng chị cố không để rơi nước mắt. “Chiều hôm đó, về tới nhà má mới khóc… Bao nhiêu năm sau đó cũng vậy, lúc nào nói đến chuyện trên má cũng không khóc”. Và nếu lệ cứ ứa ra, thì “má chỉ nằm khóc chứ không kể gì hết”. Đau thương ấy, người mẹ một mình nuốt sâu vào đáy lòng, để lặng lẽ một mình chịu đựng sức thiêu đốt của một nỗi đau âm ỉ cháy. Đấy mới đúng là người mẹ Việt Nam, con người vì tình yêu, sẵn sàng một mình chịu đau, một mình chịu ướt.

Người mẹ nông dân bình dị đó, cũng như mọi người mẹ, đúng là hiện thân của yêu thương. Nhưng cảm hứng của Nguyễn Thi về tình yêu người mẹ thường vẫn là cảm hứng về một tình cảm có sức khiến con người không biết sợ, không biết chùn bước. Không thể không cảm động khi đọc lời chị kể hồn nhiên: “Tao dạn là nhờ ba mày. Ba mày bị Tây nó chặt đầu, tao cứ đi theo cái thằng xách đầu mà đòi. Đi từ ấp trong tới ấp ngòai, nó qua sông tao cũng qua, nó về quận tao cũng tới. Một tay tao bồng em mày, một tay tao cắp rổ”. Ai ngờ truyền thống “yêu nhau tam tứ núi cũng trèo…” có ngày lại hiện ra dưới hình thức đau đớn, dữ dội, bạo liệt thế này? Một người vợ bồng con cắp rổ đi theo thằng giặc đòi đầu chồng, một người mẹ hiên ngang đối đáp với kẻ thù mà “hai bàn tay to bản” vẫn “phủ lên đầu đàn con đứng nép dưới chân”…, những hình ảnh ấy đáng được coi như biểu tượng về người mẹ ở một xứ sở mà cuộc sống quá nhiều khốc liệt nhưng rất đỗi kiên cường, hết sức đau thương nhưng vô cùng cao cả.

Kiên cường, cao cả vì dưới một núi khổ đau, người mẹ ấy vẫn là sự sống: đôi mắt mở to, đôi bắp chân tròn vo dính đầy sinh đất lội hết đồng này sang bưng khác, “con mắt tìm việc, bàn chân dò đường”, vừa làm công cấy công gặt vừa dò tình thế bọn lính làng.

*
* *​

Một hình ảnh, một truyền thống như thế, tác giả muốn phải là bất tử, cho dù con người cụ thể có phải hi sinh. Người mẹ ngã xuống, nhưng trái đạn mà chị nhặt vào rổ bưng về để tiếp sức cho cuộc đấu tranh thì vẫn nóng nguyên. Người mẹ ngã xuống, nhưng dòng sông truyền thống kia vẫn chảy. Và hình ảnh chị lại hiện về trước hết trong Chiến, một trong những đứa con của gia đình.

Người con gái trẻ ấy mang vóc dáng của mẹ mình: “hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng…, thân người to và chắc nịch”. Vẫn cái vẻ đẹp phụ nữ mà Nguyễn Thi ưa thích đang tồn tại trong đứa con mà người mẹ ấy đã sinh thành – vẻ đẹp của những con người sinh ra ở đời để gánh vác, để chống chọi, để chịu đựng và để chiến thắng. Nhưng nói đến giống mẹ thì chưa bao giờ Chiến giống mẹ hơn cái đêm sắp xa nhà đi bộ đội. Phải đến đêm ấy, người ta mới thấy một cô Chiến biết lo liệu, toan tính việc nhà thật trọn vẹn trước sau, từ em út, nhà cửa, giường ván, ruộng nương đến nơi gửi bàn thờ má. Chiến liệu việc y hệt má, “nói nghe in như má vậy”. Hình ảnh người mẹ như bao bọc lấy Chiến, từ cái lối nằm với thằng Út em trên giường ở trong buồng nói với ra đến lối hứ một cái “cóc” rồi trở mình. Đến nỗi chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi trong đêm, Việt đã không dưới ba lần thấy chị mình giống in người mẹ, có sai khác thì cũng chỉ ở chỗ chị “không bẻ tay rồi đập vào bắp vế chân mỏi” mà thôi. Chính Chiến cũng thấy mình trong đêm ấy đang hòa vào trong mẹ: “Tao cũng lựa ý nếu má còn sống chắc má tính vậy, nên tao cũng tính vậy”. Nguyễn Thi muốn cho ta hiểu: trong cái thời điểm thiêng liêng ấy, người mẹ sống hơn bao giờ hết trong những đứa con. “Cả chị cả em cùng nhớ đến má. Hình như má cũng đã về đâu đây. Má biến theo ánh đom đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa mà cầm nón quạt? Đêm nay, dễ gì má vắng mặt…”. “Thác là thể phách…”, người mẹ ấy chỉ thác trong thể phách.
Ta hãy trở về với Chiến. Hơn em chỉ chừng hơn một tuổi nhưng Chiến người lớn hơn hẳn so với Việt. Mà cũng gắn bó với lớp người đi trước hơn. Chiến có thể bỏ ăn để gánh vần cuốn sổ gia đình. Chiến không chỉ “nói in như má” mà còn học được cách nói “trọng trọng” của chú Năm. Nhưng so với thế hệ mẹ thì người con gái ấy là khúc sông sau. Khúc sông sau bao giờ cũng chảy được xa hơn khúc sông trước đó. Cho nên cũng dễ tìm ra những nét khiến cho Chiến khác mẹ mình. Cái khác ấy không chỉ ở chiếc gương trong túi mà Việt tưởng tượng có thể theo Chiến ra tận ngoài mặt trận, cũng không chỉ ở cái dáng trẻ trung “kẹp một nhúm tóc mai vào miệng” hay là tính hay cười. Người mẹ, trước nỗi đau mất chồng, đã không có dịp nào cầm súng. Còn Chiến, Chiến đi bộ đội để trả thù nhà, với quyết tâm như dao chém đá: “Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: nếu giặc còn thì tao mất, vậy à”. “Đã làm thân con gái…”, ra ở đời này không chỉ có “chí làm trai”.

Ở trên, ta đã nhiều lần nhắc đến nhân vật Việt, hình tượng xuất hiện nhiều nhất trên những trang văn. Việt được bạn đọc yêu thích trước nhất là ở cái vẻ lộc ngộc, vô tư của một câu con trai đang tuổi ăn tuổi lớn. Chiến nhường nhịn em bao nhiêu thì Việt hay tranh giành với chị bấy nhiêu. Đêm trước ngày ra đi, Chiến nói với em những lời nghiêm trang thì Việt lúc “lăn kềnh ra ván cười khì khì”, lúc lại rình “chụp một con đom đóm úp trong lòng tay”. Vào bộ đội, Chiến đem theo tấm gương soi – cái vật tùy thân của một cô gái lớn – còn Việt, anh chàng đem đi… một chiếc súng cao su! Tôi đã đọc đi đọc lại mấy lần đoạn đối thoại dài nhất và xuất sắc nhất trong toàn thiên truyện, và càng đọc càng thấy chịu tài tác giả. Sao mà ông có thể tái hiện lại sống đến thế lời ăn tiếng nói của một anh chàng tồ tồ, vô lo vô nghĩ. Những lời đối thoại ấy không câu nào giống câu nào mà sao câu nào cũng trúng phóc cái thần hồn thần tính của anh chàng Việt.
Nhưng sự vô tư không ngăn cản Việt trở nên một anh hùng. Ngược lại, nó cho cái chất anh hùng của Việt thêm đẹp, thêm độc đáo. Đọc truyện, ta cảm thấy hình như chưa lúc nào Việt hết thơ ngây của một con người không biết thế nào là khuất phục. Nên từ lúc còn bé tí, Việt đã dám xông vào đá cái thằng đã giết cha mình. Và vẫn dòng máy đỏ chảy trong anh tân binh Việt chỉ khi một mình, với đôi mắt không còn nhìn thấy gì, với hai bàn tay đau đớn vẫn quyết tâm ăn thua sống mái với quân thù: “Trên trời có mày, dưới đất có mày, khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày”. Cứ vậy, người trai giản dị ấy thấy việc đi đánh giặc nó cũng tự nhiên như đi bắt ếch hay bắn ná thun, việc đánh giặc cho kỳ đến lúc trả xong thù nhà nợ nước nó là chuyện dĩ nhiên như thế, có gì đâu để mà bàn, để mà nghĩ ngợi…? Ấy thế mà xem ra Việt lại là người đi xa hơn cả trong dòng sông truyền thống. Không chỉ vì Việt là người lập chiến công lớn nhất. Mà còn vì thế hệ cha chú Việt đánh giặc đấy, nhưng vẫn lo tránh giặc. Còn Việt, ngay khi chỉ có một tấm thân trơ trọi và đầy thương tích, Việt vẫn là người đi tìm giặc. “Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy”. Hồi bấy giờ, người ta thường nói đến khí thế tiến công cách mạng của thời đại. Việt chính là hiện thân của sức trẻ tiến công.

Tôi sẽ không nói nhiều về đoạn văn vẫn được nhiều người cho là hay nhất truyện: đoạn tả chị em Chiến, Việt khiêng bàn thờ mẹ, sang nhà chú. Chỗ hay nhất của đoạn văn hay nhất ấy có lẽ là cái không khí thiêng liêng nó hoán cải cả cảnh vật lẫn con người. Con đường quen thuộc bỗng thấy có thêm mùi hoa cam thoảng lại tự chân vườn. Còn Việt, cái không khí ấy biến anh thành con người khôn lớn. Lần đầu tiên Việt hiểu rõ lòng mình để thấy “thương chị lạ” và để thấy “mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai”. Nhưng tôi muốn được để ý thêm đến chi tiết: chị em Chiến, dáng vóc khỏe, to, giang cả thân người lên nhấc bổng bàn thờ. Nghĩa là thế hệ sau đã cứng cáp, trưởng thành. Những đứa con trong gia đình đã đủ sức để bay xa, xa hơn cha mẹ.

*
* *​

Nhân vật chú Năm trong truyện sau khi ví chuyện gia đình dài như dòng sông, còn nói tiếp: “Trăm sông đổ về một biển, con sông của gia đình ta cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm…, rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta”.
Điều đó có nghĩa là Nguyễn Thi, ở truyện ngắn này, chỉ nói về một con sông, nhưng chúng ta không thể chỉ thấy có một dòng sông. Nhà văn muốn ta phải nghĩ đến biển cả, đến đại dương của nhân dân, và nhân loại. Nhà văn muốn ta phải nghĩ đến không chỉ một gia đình, mà cả một Tổ quốc đang hào hùng chiến đấu bằng sức mạnh sinh ra từ nỗi thương đau.

Chỉ có điều ở Nguyễn Thi, sự khái quát lớn lao trên sẽ không bay bổng trên đôi cánh của cảm hứng thi ca. Nhà văn muốn đứng trên hai bàn chân bấm chắc vào đất, vào hiện thực. Từ bỏ mọi sự khoa trương, nhà văn hết sức cố gắng để chi tiết, hình ảnh, ngôn từ… tất cả phải giống như nó vốn có ở đời, dẫu cho sự thực ở đời lắm khi tàn nhẫn. Bởi vậy, tôi sẽ không hùa theo ai đó trách Nguyễn Thi đã dựng lên những chi tiết ghê khiếp quá, như cảnh đòi đầu, với hình ảnh thằng bé Việt để “đầu ba dưới đất không lượm, cứ nhè cái thằng vừa liệng đầu mà đá”. Một hình ảnh như thế quả đáng để cho ta suy nghĩ, nhưng tuyệt nhiên không phải vì nó dữ dội, kinh khủng nếu đấy đúng là thực tại? Chỉ có là hình ảnh ấy hình như gợi lên một cái gì bất nhẫn. Nhưng đó lại là câu chuyện khác rồi…

In trong Giảng văn văn học Việt Nam, Nxb GD, 1997.​
 
đoạn văn viết rất hay.nhưng đoạn bây giờ em cần gấp để fân tích đó là:" phân tích đoạn 2 chị em Việt va Chiến khiên bàn thờ mẹ gửi nhà chú năm trước khi đi đánh giặc" thì chị làm đơn giản quá.hjxhjx.nhưng dù sao cũng rất cảm ơn bài viết của chị..
 
I. Tác giả
- Nguyễn Thi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải phóng miền Nam trong thời kì chống Mĩ
- Sinh ra ở miền Bắc nhưng gắn bó máu thịt với mảnh đất miền Nam và được mệnh danh là nhà văn của người nông dân Nam Bộ
- Có biệt tài phân tích tâm lí

II. Tác phẩm


1. Hoàn cảnh sáng tác

Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình được hoàn thành vào tháng 2 năm 1966, trong những ngày chiến đấu chống Mĩ ác liệt, khi nhà văn công tác ở tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng.

2.Tóm tắt

Truyện kể về gia đình anh giải phóng quân tên Việt. Việt được sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng, ba mẹ đều bị giết dưới bàn tay của kẻ thù. Chính mối thù sâu sắc với Mĩ- ngụy đã thôi thúc những người con trong gia đình ấy khát khao chiến đấu để trả thù nhà, nợ nước. Trong một trận đánh, Việt bị thương, bị lạc đồng đội. Việt ngất đi tỉnh lại nhiều lần. Cũng giống như những lần tỉnh dậy trước, hồi ức quá khứ, hiện tại luôn đan xen nhau. Lần tỉnh thứ 4 của Việt, kí ức về má hiện về, mấy hạt mưa làm Việt choàng tình hẳn. Việt sợ bóng tối, sợ ma hơn là sợ giặc. Dù bị thương nhưng phân biệt rất rõ đâu là tiếng súng nổ của ta, đâu là tiếng pháo lễnh lãng của giặc. Việt nhớ lại cảnh hai chị em tranh nhau đi tòng quân. Việt đòi đi nhưng chi Chiến không nghe, sau đó phải nhờ chú Năm phân giải. Chú Năm nhất trí cho cả hai đi. Trước khi lên đường, chị Chiến lo thu xếp công việc gia đình. Gửi em Út sang chú Năm, nhà cửa gửi cho các anh trong chi bộ làm nơi dạy học, ruộng trả lại cho xã, gởi bàn thờ má sang chỗ chú Năm. Đoạn trích kết thúc bằng hình ảnh hai chị em Việt- Chiến khiêng bàn thờ má sang gửi chú Năm.

3. Nhan đề

“Những đứa con” trong nhan đề của truyện trước hết chính là Việt và Chiến - những người con trong một “gia đình” nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc, thuỷ chung son sắt với quê hương cách mạng. Mở rộng hơn, còn có thể hiểu đó là thế hệ trẻ miền Nam, những người con của đại “gia đình” miền Nam ruột thịt trong những năm kháng chiến chống Mĩ ác liệt.
Nhan đề gợi lên mối quan hệ giữa riêng với chung, nhà với nước, giữa tình cảm gia đình, với tình yêu nước, yêu cách mạng. Chính sự kết hợp giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ.
4. Tình huống truyện
- Việt – nhân vật chính của truyện bị thương nặng trong một trận đánh, Việt bị lạc đồng đội, ngất đi tỉnh lại nhiều lần. Và chính trong trạng thái khi ngất đi, lúc tỉnh lại, Việt đã hồi tưởng lại những sự kiện diễn ra ở gia đình mình, với mình, chị Chiến.
- Truyện được kể theo dòng ý thức của nhân vật khi liền mạch (lúc tỉnh), khi gián đoạn (lúc ngất) của người trong cuộc làm cho câu chuyện trở nên chân thật hơn; có thể thay đổi đối tượng không gian, thời gian, đan xen tự sự và trữ tình.

5. Nhân vật


5.1. Nhân vật Chiến

- Sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng vẻ vang, có mối thù sâu sắc với Mỹ- ngụy, có tình yêu thương gia đình sâu đậm.

- Chiến 19 tuổi, mang vẻ đẹp trẻ trung khỏe khoắn của người con gái Nam Bộ: Hai bắp tay tròn vo sạm đỏ, màu cháy nắng, thân hình to và chắc nịch. Dáng hình ấy dường như sinh ra để xốc vác, để chống chọi, để chịu đựng để chiến đấu và chiến thắng.
- Hoàn cảnh đã đẩy người con gái ấy sớm trưởng thành, già dặn hơn lứa tuổi rất nhiều, biết chăm lo quán xuyến việc gia đình.
+ Là chị lớn nhất trong gia đình, ba má mất sớm, Chiến gánh vác phần việc chăm lo gia đình, chăm sóc các em.
+ Cách sắp xếp công việc trước khi lên đường: không ngủ, có biết bao nhiêu việc phải lo, viết thư cho chị Hai, gửi thằng Út sang chỗ chú Năm, gửi nhà cho các anh trong chi bộ làm nơi dạy học, nồi, lu, chén, đĩa, cuốc, vá, đèn soi với nơm sang gửi chú Năm, gửi bàn thờ má sang chỗ chú Năm.
+ Chiến liệu việc y hệt má. Hình ảnh người mẹ như bao bọc lấy Chiến từ cái lối nằm với thằng Út em ở trên giường rồi nói với ra, đến lối hứ “cóc” rồi trở mình. Đến nỗi chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi trong đêm, Việt đã không dưới ba lần thấy chị mình giống in như má vậy. Và bản thân Chiến cũng thấy mình cũng giống má “tao lựa ý má còn sống chắc má tính vậy, nên tao cũng tính vậy”. Điều mà Nguyễn Thi muốn khẳng định, trong thời điểm thiêng liêng, lúc quyết định lên đường hình ảnh người mẹ sống hơn bao giờ hết trong lòng những đứa con “Má biến theo con đom đóm trên nóc nhà, hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa mà cầm nón quạt? Đêm nay, dễ gì má vắng mặt”
+ Cách sắp xếp việc nhà đâu vào đó đã khiến cho Chú Năm nhìn cháu thiệt lâu và nói: “Khôn! Việc nhà nó thu được gọn, thì việc nước nó mở được rộng. Gọn bề gia thế, đặng bề nước non. Con nít chúng bây giờ kì đánh giặc này khôn hơn chú hồi trước”. Câu nói ấy, thể hiện sự yên tâm của thế hệ trước đối với lớp người sau. Rõ ràng họ đã trưởng thành, có thể gánh vác được những việc lớn của đất nước.

- Khát khao cầm súng chiến đấu để trả thù cho ba, mẹ, quê hương

+ Tranh giành với em đi chiến đấu: Tao lớn tao mới đi, mầy còn nhỏ, ở nhà phụ làm với chú Năm.
+ Mượn lời chú Năm, dặn dò em: Chú Năm nói, mầy với tao đi kì này là ra chân trời mặt biển, xa nhà thì ráng học chúng học bạn, thù cha mẹ chưa trả mà bỏ về là chú chặt đầu.
+ Câu nói như một lời quyết tâm thư: Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!
- Hình ảnh Chiến cùng Việt khiêng bàn thờ má sang gửi chú Năm đã khẳng định Chiến cũng như em trai của mình đã ý thức rất rõ về trách nhiệm của mình, tấm lòng yêu nước, sự căm thù quân giặc, quyết tâm trả thù cho gia đình, quê hương và tấm lòng thành kính thiêng liêng đối với cha mẹ.

=> Bằng nghệ thuật dựng chân dung nhân vật độc đáo, kết hợp thành công ngôn ngữ Nam Bộ và ngôn ngữ trần thuật hiện đại, Nguyễn Thi đã tạo nên một phong cách mới lạ. Chiến là hiện thân của thế hệ trẻ miền Nam trong chiến tranh : gan góc, dũng cảm, khát khao chiến đấu để trả thù nhà nợ nước. Chiến mang vẻ đẹp của người con gái Nam Bộ nói riêng và người con gái Việt Nam nói chung . Từ hình ảnh Chiến, một mặt, Nguyễn Thi muốn khẳng định vẻ đẹp của thế hệ trẻ miền Nam những năm đánh Mĩ; mặt khác, thông qua nhân vật này nhà văn muốn gửi đến một thông điệp : sức mạnh của dân tộc được làm nên bởi sức mạnh của mỗi cá nhân; một dân tộc anh hùng là một dân tộc của những con người anh hùng. Một khi lòng yêu nhà và yêu nước hài hòa trong một khối thống nhất, khi tình riêng và lý tưởng chung hòa quyện làm một thì không sức mạnh nào có thể chuyển dời.

5.2. Nhân vật Việt


- Sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng, có mối thù sâu sắc với Mỹ - ngụy.

- Tính tình hồn nhiên, vô tư:
+ Hay tranh giành với chị: Nó là em tôi mà cái gì nó cũng giành
+ Dỗi chị, khi chị Chiến nói: Mầy ở nhà với chú Năm, qua năm hãy đi thì Việt đá trái dừa xuống mương tỏ ý không bằng lòng.
+ Trước hôm lên đường, chị Chiến nói Việt viết thư cho chị Hai, Việt nói: Mai đi rồi mà còn bắt viết thư.
+ Khi chị Chiến lo thu xếp công việc gia đình, Việt mải chụp đom đóm, phó mặc để một mình chị lo toan, coi như những việc chị làm đều là do má dặn. Nghe một lúc, lăn ra ngủ khì.
+ Khi bị thương, Việt sợ bóng tối, sợ con ma cụt đầu ngồi trên cây xoài mồ côi và chỏng thụt lưỡi nhảy nhót ngoài vàm sông mỗi đêm mưa.
=> Có thể nói, Việt được bạn đọc yêu thích trước nhất là ở cái vẻ lộc ngộc, vô tư. Chiến nhường nhịn em bao nhiêu thì Việt lại hay tranh giành bấy nhiêu. Đêm trước ngày tòng quân, Chiến nói với em những lời trang nghiêm thì Việt lại lăn ra ván cười khì khì, phó thác toàn bộ việc thu xếp cho chị, coi những việc đó là do má dặn chị rồi. Vả lại, là một người chiến sĩ rồi vậy mà Việt vẫn sợ ma.

- Có tình yêu thương gia đình sâu đậm, khát khao cầm súng để chiến đấu:

+ Kí ức về người thân luôn hiện hữu trong Việt, trong lần tỉnh dậy thứ 4, người Việt nhớ đến đầu tiên là má, Việt nhớ lại má đi làm đồng về, xoa đầu Việt, lấy xoong cơm đi làm đồng ở dưới xuồng lên cho Việt ăn. Việt mong ước được má che chở, khát khao được trở lại trong vòng tay của mẹ.
+ Khi hai chị em khiêng bàn thờ má sang gửi chú Năm, Việt thấy thương chị lạ. Việt hứa với người đã khuất: má sang ở tạm bên nhà chú Năm, chừng nào nước nhà độc lập chúng con lại đưa má về.
+ Trong việc tranh giành với chị Chiến để đi tòng quân, “bộ mình chị biết đi trả thù à” không chỉ đơn thuần là sự hồn nhiên mà ẩn chứa trong đó là tình yêu thương gia đình sâu đậm, niềm khát khao chiến đấu để trả thù cho ba mẹ, quê hương.
- Ý chí chiến đấu dũng cảm, kiên cường:
+ Trước hôm lên đường, trong cuộc đối thoại với hai chị em, chị Chiến nói: Chú Năm nói, mầy với tao đi kỳ này là ra chân trời mặt biển, xa nhà thì ráng học chúng học bạn, thù cha mẹ chưa trả mà bỏ về là chú chặt đầu. Việt trả lời chị với lòng đầy quyết tâm: Chị có bị chặt đầu thì chặt chớ chừng nào tôi mới bị.
+ Chiến đấu, bị thương, nhưng bằng sự nhạy cảm của người chiến sĩ, Việt vẫn phân bịêt rất rõ đâu là tiếng súng của ta, đâu là tiếng pháo nổ lễnh lãng của giặc.
+ Bị thương, nhưng quên đi nỗi đau của bản thân vẫn cố gắng lết đi tìm đồng đội và luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.

- Hình ảnh Việt cùng chị Chiến khiêng bàn thờ má sang gửi chú Năm
đã khẳng định Việt cũng như chị gái của mình đã ý thức rất rõ về trách nhiệm đối với gia đình, quê hương, tấm lòng yêu nước, sự căm thù quân giặc, quyết tâm trả thù cho gia đình, quê hương. Có yêu thương, có căm thù, có mất mát nhưng có cái vĩnh hằng, có sự quyết liệt nhưng cũng có sự thanh thản, có yếu tố hành động nhưng cũng có yếu tố tâm linh... và mùi thơm thoang thoảng của hoa cam, mùi vị của quê hương sẽ theo Việt trên suốt chặng đường chiến đấu.
=> Bằng nghệ thuật dựng chân dung nhân vật độc đáo, kết hợp thành công ngôn ngữ Nam Bộ và ngôn ngữ trần thuật hiện đại, Nguyễn Thi đã tạo nên một phong cách mới lạ. Việt là hiện thân của thế hệ trẻ miền Nam trong chiến tranh : gan góc, dũng cảm, khát khao chiến đấu để trả thù nhà nợ nước. Từ hình ảnh Việt, một mặt, Nguyễn Thi muốn khẳng định vẻ đẹp của thế hệ trẻ miền Nam những năm đánh Mĩ; mặt khác, thông qua nhân vật này nhà văn muốn gửi đến một thông điệp : sức mạnh của dân tộc được làm nên bởi sức mạnh của mỗi cá nhân; một dân tộc anh hùng là một dân tộc của những con người anh hùng. Một khi lòng yêu nhà và yêu nước hài hòa trong một khối thống nhất, khi tình riêng và lý tưởng chung hòa quyện làm một thì không sức mạnh nào có thể chuyển dời.

7
.Đặc sắc nghệ thuật
- Tình huống truyện hấp dẫn, nghệ thuật trần thuật: trần thuật chủ yếu qua dòng hồi tưởng của nhân vật Việt khi bị thương, ngất đi tỉnh lại nhiều lần. Lối kết cấu dựa vào dòng hồi tưởng nhân vật như thế làm cho truyện giàu cảm xúc, diễn biến linh hoạt, không tuân theo trật tự thời gian.
- Chi tiết được chọn lọc vừa cụ thể, giàu ý nghĩa, gây ấn tượng mạnh. Ngôn ngữ bình dị, phong phú, giàu giá trị tạo hình và đậm sắc thái Nam Bộ.
- Khắc họa tính cách nhân vật đậm chất Nam Bộ: thẳng thắn, bộc trực, lạc quan, yêu quê hương, gia đình, thủy chung đến với cách mạng, ngùn ngụt ngọn lửa căm thù giặc...
- Dựng đối thoại và độc thoại nội tâm hấp dẫn, cảm động.

8. Biểu hiện của khuynh hướng sử thi

Khuynh hướng sử thi thể hiện ở:
+ Chủ đề: ngợi ca tinh thần yêu nước, truyền thống cách mạng của một gia đình cũng là của nhân dân miền Nam trong kháng chiến chống Mĩ.
+ Nhân vật: có tính khái quát cao.
+ Giọng điệu: ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng

9. Chủ đề

Qua hồi ức của Việt khi bị thương, tác giả ngợi ca tinh thần yêu nước, truyền thống cách mạng của một gia đình miền Nam trong kháng chiến chống Mĩ đồng thời khẳng định: chính sự kết hợp giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ.
 
Là một truyện ngắn tiêu biểu của nền văn học cách mạng Việt Nam 1945 - 1975, Những đứa con trong gia đình hiển nhiên mang đậm tính sử thi và giàu cảm hứng lãng mạn (xem thêm phần viết về tính sử thi ở bài Rừng xà nu). Tuy vậy, nói đến tác phẩm này, người ta không thể không nói đến tính hiện thực sâu sắc của nó. Nguyễn Thi quả là một nhà văn hiện thực chủ nghĩa đích thực. Trong khi chịu sự chi phối của bối cảnh sáng tạo chung, ông vẫn kiên trì theo đuổi những nguyên tắc sáng tạo của mình, cố gắng tái hiện cho được diện mạo chân thực của hiện thực thông qua những tính cách điển hình, hoàn cảnh điển hình. Để xây dựng các tính cách điển hình, hoàn cảnh điển hình đó, ông rất chú ý tới mối quan hệ giữa tính cá thể, cá biệt và tính khái quát của hình tượng. Sự chính xác và sống động của các chi tiết luôn được đề cao. Chi tiết nào cũng gây ấn tượng, như được lấy "trực tiếp" từ đời sống, nóng hổi, giàu sức biểu hiện, giàu tính thẩm mỹ. Chính công việc chuẩn bị tư liệu chu đáo, cẩn thận, việc ghi chép miệt mài những điều mắt thấy tai nghe vào sổ tay đã hỗ trợ đắc lực cho Nguyễn Thi ở phương diện này. Đọc từng trang viết của ông, ta cảm nhận được một trữ lượng dồi dào những kinh nghiệm sống thấp thoáng ở phía sau. Truyện ngắn mà nhiều khi có sức chứa của một tiểu thuyết lớn. Tham vọng khái quát của nhà văn luôn được thể hiện thông qua cách ông sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật khác nhau, nhưng tham vọng đó không hề khiến ông quên đưa ra những đường nét chạm khắc rạch ròi về nhân vật, bối cảnh. Sự hứng thú quan sát, miêu tả ngôn ngữ, tâm lí nhân vật, sự vận dụng đầy ý thức ngôn ngữ Nam Bộ trong trần thuật có mối liên hệ lô gích với động cơ sáng tạo này. Ngoài ra, việc học tập kinh nghiệm của các nhà tiểu thuyết hiện đại phương Tây trên vấn đề tái hiện dòng ý thức của nhân vật cũng được chú ý đúng mức, tạo nên những trang viết xuất thần, hiếm quý (đoạn miêu tả dòng hồi tưởng, suy nghĩ của nhân vật Việt khi bị thương nằm lại trên trận địa là một ví dụ cụ thể, điển hình).

Tuy là một truyện ngắn hoàn chỉnh, có cấu trúc chặt chẽ, nhưng rất có thể, với chính Nguyễn Thi, Những đứa con trong gia đình vẫn còn mang nhiều tính tư liệu. Phải chăng, trong khát vọng sáng tạo của nhà văn, đây mới chỉ là bước chuẩn bị cho một công trình đồ sộ hơn, xứng tầm với cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc mà ông mong muốn được hoàn thành. Cảm nhận được điều đó, độc giả ngày nay không thể không thấy tiếc nuối khi nghĩ về sự ra đi quá sớm của Nguyễn Thi - một hiện tượng "bùng nổ về tài năng" (đánh giá của Nguyên Ngọc) trong thế hệ các nhà văn trưởng thành sau cách mạng tháng Tám.

tiếp cận văn bản

Nguyễn Thi là một nhà văn - chiến sĩ mà cuộc đời và sự nghiệp sáng tác đã để lại nhiều bài học lớn cho cả một thế hệ nhà văn thời chống Mĩ. Ông đã hi sinh ở mặt trận Sài Gòn trong chiến dịch Mậu Thân 1968. Trong di sản văn học viết về chiến tranh của ông, có tác phẩm đã hoàn chỉnh, có tác phẩm mới ở dạng phác thảo nhưng tất thảy đều ngồn ngộn chất sống và giàu tính thẩm mĩ chứng tỏ tác giả của nó là một tài năng văn học lớn.

\Từng sống ở Nam Bộ trước Cách mạng và sau này lại tham gia chiến đấu trên chiến trường ấy, Nguyễn Thi rất hiểu con người và cảnh vật nơi này. Có thể nói ông là nhà văn của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long trong cuộc chiến tranh chống Mĩ ác liệt. Ông đã trút tấm huyết xây dựng họ thành những nhân vật văn học đáng nhớ đầy cá tính, có lòng yêu nước và lòng căm thù giặc sâu sắc, sống bộc trực, hồn nhiên, giàu tình nghĩa.

\ Những đứa con trong gia đình là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Thi rút từ tập Truyện và kí xuất bản năm 1978. Truyện kể về những đứa con trong một gia đình nông dân một lòng một dạ đi theo cách mạng và có những mối thù riêng đối với quân giặc. Chiến và Việt - hai chị em đồng thời là hai nhân vật chính của tác phẩm không còn cha mẹ. Cha bị địch giết hồi chín năm (kháng chiến chống Pháp) còn mẹ thì chết vì trúng đạn đại bác Mĩ. Họ lớn lên trong sự dìu dắt, đùm bọc của ông Năm (người chú ruột) và sau này là của đoàn thể, đồng đội (một gia đình mới thân thiết của họ). Tuy nói chuyện một gia đình nhưng tác phẩm của Nguyễn Thi có khả năng ôm trùm hiện thực rộng lớn. Số phận của mấy chị em ở đây cũng như cảnh ngộ gia đình họ không phải chỉ có ý nghĩa cá biệt. Có biết bao người, bao gia đình cũng phải gánh chịu những mất mát và đã vượt lên như thế trong cuộc chiến tranh khốc liệt này. Hình tượng cuốn sổ gia đình được nhắc tới mấy lần trong truyện có ý nghĩa nghệ thuật rất quan trọng. Nó hé lộ cho ta thấy ý đồ nghệ thuật của nhà văn muốn qua câu chuyện một gia đình mà đề cập những vấn đề khái quát hơn. Lời của chú Năm trong truyện đã nói lên điều đó : "Chú thường ví chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó. Chú kể chuyện con sông nào ở nước ta cũng đẹp, cũng lắm nước bạc, nhiều phù sa, vườn ruộng mát mẻ cũng sinh ra từ đó, lòng tốt của con người cũng sinh ra từ đó. Trăm sông đổ về một biển, con sông của gia đình ta cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm, chị em Việt lớn lên rồi sẽ biết, rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta". Thông thường, sự khái quát nghệ thuật của Nguyễn Thi là như vậy. Nó luôn tự nhiên như đời sống do bắt mạch thực sự được vào cuộc sống.

Trên một ý nghĩa khác, hình tượng cuốn sổ ngầm chứa chức năng lí giải chiều sâu hành động hiện tại của các nhân vật. Cuốn sổ ghi chép đủ những sự việc đáng nhớ xảy ra với gia đình lớn của chị em Chiến - Việt, từ chuyện người nào bị giặc giết vào ngày nào đến chuyện ai bị chúng nhục mạ ra sao. Đặc biệt, cuốn sổ kể khá tỉ mỉ từng chiến công đánh giặc của các thành viên gia đình, trong đó có chiến công của Chiến và Việt theo du kích bắn tàu Mĩ trên sông Định Thuỷ. Cuốn sổ - ấy là lịch sử một gia đình, nó cho thấy truyền thống và sự tiếp nối. Nó là một hình thức giáo dục lòng tự hào về truyền thống mà chú Năm rất có ý thức xây dựng cho thế hệ con cháu. Chú nói : "Chừng nào bây trọng trọng (lớn lớn) tao giao cuốn sổ cho chị em bây". Câu nói ấy cũng rất mực tự nhiên mà chứa đầy ý nghĩa. Chính thế hệ mới sẽ là người viết tiếp những trang mới, vẻ vang cho truyền thống. Không thể nói mọi chiến công mà Chiến và Việt lập được lại không liên quan tới cuốn sổ gia đình này. Kể lại sự việc nhưng không bao giờ quên khám phá chiều sâu của nó chính là thuộc tính bản chất của ngòi bút Nguyễn Thi.

Nguyễn Thi rất có biệt tài dựng người, dựng cảnh. Vốn sống của ông phong phú khiến cho các chi tiết mà ông lẩy ra bao giờ cũng như giẫy trên trang sách, rất sinh động. Nhiều nhân vật chỉ xuất hiện thoáng qua trong truyện nhưng đã kịp để lại một ấn tượng khó quên, cả về hành động lẫn ngôn ngữ. Chú Năm của Chiến, Việt thật dễ nhớ với "giọng hò đã đục và tức như gà gáy" ("Chú hay kể sự tích của gia đình và cuối câu chuyện, thế nào chú cũng hò lên mấy câu"). Giọng hò của người đàn ông trung niên này tuy không hay nhưng chứa đựng một cái gì đó thật tha thiết khiến cho chị em Chiến, Việt tuy thấy buồn cười nhưng vẫn rất cảm động. Theo như lời kể trong tác phẩm, ông ít nói, nhưng những câu nói của ông được hai chị em nhân vật chính khắc ghi trong tâm khảm. Nó tương tự như những châm ngôn kết tinh của cả một đời từng trải sông nước, lăn lộn với ruộng vườn và thuỷ chung một dạ với cách mạng. Bên cạnh nhân vật chú Năm, hình ảnh người má của chị em Chiến, Việt cũng hiện lên với những nét chạm khắc rạch ròi. Đó là người đàn bà xốc vác, gan dạ, giỏi thu xếp cả việc chung lẫn việc riêng. Nguyễn Thi đã chọn được nhiều chi tiết thật tài tình để xây dựng chân dung con người ấy. Nào là chuyện bà đi đấu tranh về bị cà nông giặc bắn đuổi theo, một trái rơi bịch trước mặt, không nổ, "bà đén dòm dòm rồi bỏ luôn vào rổ, cắp về" ; nào chuyện bà bế con, dắt con đi đòi đầu chồng từ ấp trong tới ấp ngoài, vượt qua sông về tới quận ; nào chuyện bà tần tảo sớm hôm làm lụng nuôi con, miệng nói, tay làm, chưa dứt câu dặn con mà chân đã "đẩy xuồng ra tuôt giữa sông"... Đặc biệt, chi tiết bà đối mặt với quân thù hai bàn tay to bản "phủ lên đầu đàn con đang nép dưới chân" hoặc "dùa đàn con lại đàng sau tránh đạn" đã cho ta hình dung đặc biệt rõ nét hình ảnh một người mẹ nơi Thành đồng Tổ quốc những năm đánh Mĩ.

Hai nhân vật được khắc hoạ đậm nét trong tác phẩm là Chiến và Việt. Chiến là chị. Theo lời chú Năm, cô "không khác mẹ một chút nào". Ngay cả Việt cũng nhận thấy thế. Cô có đức tính kiên trì, chịu khó, chỉ nội một việc bỏ ăn để ngồi đánh vần cuốn sổ gia đình suốt từ trưa cho tới lúc trời chạng vạng đã đủ chứng tỏ điều đó. Cô cũng thừa hưởng ở mẹ đức tính gan góc. Trong ngày tòng quân, cô nói với em : "Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu : Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à !". ở cô, khả năng vun vén, thu xếp gia đình cũng thể hiện rất rõ. Trước khi cùng em đi bộ đội, mọi chuyện nhà đã được cô xếp đặt đâu vào đó, tỉ mỉ, chu đáo, "nói nghe thiệt gọn" khiến cho chú Năm cũng phải có chút sững sờ, "nhìn hai cháu thiệt lâu" rồi nói : "Khôn ! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non. Con nít chúng bây kì đánh giặc này khôn hơn chú hồi trước". Câu nói của chú Năm thể hiện sự yên tâm của thế hệ trước đối với lớp người sau. Rõ ràng, họ đã trưởng thành, có thể gánh vác được những việc lớn của đất nước.

Khác với chị Chiến đã có dáng dấp của một người lớn thực thụ dù đôi lúc còn tranh giành với em, Việt còn giữ nguyên tính chất của một cậu bé. "Cậu Tư" này trong gia đình có điệu cười "lỏn lẻn" rất dễ thương. Cậu ta thường ngày vẫn hay tranh phần hơn với chị, từ chuyện bắt ếch đến chuyện đòi đi bộ đội trước chị. Cậu còn vô tâm vô tính, phó mặc chuyện nhà cho chị "Tôi nói chị tính sao cứ tính mà". Trong khi chị bàn những việc phải làm ngày mai, Việt vẫn đùa nghịch "chụp một con đom đóm úp trong lòng tay" và thú vị quan sát điệu bộ, cử chỉ, cách nói năng "in hệt má" của chị. Vào bộ đội rồi, cậu ta "giấu chị như giấu của riêng vậy" vì sợ mất chị trước những lời gạ gẫm đùa tếu của anh em. Trong hành trang người lính của mình, ngoài cái võng, bộ quân phục, Việt còn mang theo cái ná thun (súng cao su) - một vật bất li thân từng gắn bó từ ngày cậu "để đầu trần, mình mẩy tèm lem sình đất từ chỗ móc mương lên, lội tắt trong vườn, đi tìm chim". Tuy còn rất trẻ con như thế, Việt đã chiến đấu rất dũng cảm không thua kém ai. Việt đã dùng thủ pháp tiêu diệt được một chiếc xe bọc thép của địch. Bị thương, Việt quyết bò đi tìm đồng đội. Nghe tiếng xe, pháo của giặc, Việt nằm chờ với tâm niệm : "Tao sẽ chờ mày ! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này chỉ còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày. Nghe súng nổ, các anh tao sẽ chạy tới đâm mày ! Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy". Có bao nhiêu là quyết tâm, bao nhiêu là niềm trìu mến với đồng đội, bao nhiêu là sự coi thường, khinh bỉ kẻ thù thể hiện qua lời độc thoại ấy. Quả thực, Việt đã là một người lính chững chạc trong khi còn mang đầy đủ nét thơ ngây, trong sáng, đáng yêu của một cậu bé vừa đến tuổi thành niên.

Nhìn chung, trong khi xây dựng nhận vật, Nguyễn Thi rất quan tâm đến việc cá thể hoá. Nhân vật nao cũng có những nét riêng, độc đáo hiện lên mồn một trước mắt độc giả. Chú Năm nói khác má Việt và Việt nói khác chị Chiến. Lời nói của ai thể hiện rõ tính cách người đó. Nhưng mặt khác, nhà văn cũng có ý thức nhấn mạnh điểm giống nhau giữa họ. Chẳng thế mà ông nhiều lần qua lời chú Năm, qua lời Việt so sánh Chiến với người má của cô, và để người má ấy nói về Việt : "Đó, lại giống cái thằng cha nó rồi !". Nói lên điểm giống nhau ở đây tức là nói đến nét bền vững trong truyền thống một gia đình giàu tinh thần cách mạng, có lòng căm thù giặc sâu sắc, sống rất mực tình nghĩa thuỷ chung. Đây chính là điểm nút sẽ giúp ta lí giải được sức mạnh tinh thần nào đã giúp các nhân vật vượt qua được những thử thách lớn lao, gay gắt đến như vậy. Mở rộng ra, đấy cũng là điểm nút khiến cho mọi chi tiết, sự việc được mô tả trong tác phẩm quy tụ lại, thống nhất ở tinh thần chung là khẳng định những phẩm chất đẹp đẽ của người dân Nam Bộ trong chiến tranh chống Mĩ cứu nước. Nhiều câu nói thốt ra từ miệng chú Năm hay từ miệng má Việt, vì vậy, có tầm khái quát triết lí, mang âm vang triết lí của cả một dân tộc bất khuất, dù nó được biểu hiện ra trong một hình thức rất mực giản dị - giản dị đến bất ngờ (chẳng hạn câu của má Viêt : "người chết có cái vui của người chết, nếu không, người ta sanh con ra làm gì ?"). ở đây, có thể nhận ra một đặc điểm trong sáng tác của Nguyễn Thi : tính triết lí rất cao nhưng đấy là triết lí của chính cuộc đời - một cuộc đời được tái hiện sinh động qua những biểu hiện mang tính bản chất. Ta có thể chứng minh thêm cho điều vừa nói bằng vào chi tiết "cực đắt" sau đây mà nhà văn đã đưa vào cuối tác phẩm : chi tiết hai chị em Chiến, Việt khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm : "Chị Chiến đứng ra giữa sân, kéo cái khăn trên cổ xuống, cũng xắn tay áo để lộ hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng, rồi dang cả thân người to và chắc nịch của mình nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên. Việt ghé vào một đầu. Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập con lại đưa má về. Việt khiêng trước. Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mới thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai. Hai chị em khiêng má băng tắt qua dãy đất cày trước cửa, men theo chân vườn thoảng mùi hoa cam, con đường hồi trước má vẫn đi để lội hết đồng này sang bưng khác". Khó mà không dẫn hết ra đoạn văn đầy xúc động này. Nó đã nói lên hết sức cô đọng về cuộc chiến đấu của chúng ta : có yêu thương, có căm thù, có cái mất mát nhưng có cái vĩnh hằng, có sự quyết liệt nhưng cũng có sự thanh thản, có yếu tố hành động nhưng cũng có yếu tố tâm linh... Và mùi hoa cam, nó chỉ thoảng qua một lần mà thơm mãi. Trong văn Nguyễn Thi, mùi hương "trữ tình" này thường chỉ được dùng rất dè sẻn, nhưng chính vì vậy mà nó vô cùng quý, để lại trong lòng người đọc những cảm nghĩ sâu xa.

Một thành công nữa rất cơ bản của Nguyễn Thi trong Những đứa con trong gia đình là nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật. Ta đã thấy phần nào điều đó qua việc phân tích cái tài của ông khi lựa chọn các chi tiết đặc sắc làm nổi bật cá tính nhân vật ở trên. Cần đặc biệt lưu ý rằng truyện ngắn này được tổ chức dựa trên dòng hồi ức của nhân vật Việt khi bị thương trên trận địa. Miêu tả tâm lí của người tỉnh táo đã khó mà ở đậy lại là tâm lí của con người luôn nằm trong trạng thái giữa mê và tỉnh, hiển nhiên nhiệm vụ nghệ thuật đặt ra càng khó bội phần. Nhưng nhà văn đã thể hiện một cách xuất sắc trạng thái "chập chờn cơn tỉnh cơn mê" đó của nhân vật. Bốn lần Việt "tỉnh dậy" trên trận địa, mỗi lần Việt nhớ gì, nghĩ gì đều được nhà văn miêu tả rất cụ thể, tinh tế và chính xác. Thông thường, mạch hồi tưởng của nhân vật trong bước khởi đầu phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố dẫn dụ của ngoại cảnh. Tác giả hiểu điều đó rất rõ. Tâm lí con người tuy phức tạp nhưng vẫn diễn biến một cách có lôgic. Lần thứ hai Việt tỉnh dậy, nghe tiếng ếch nhái kêu dậy lên, Việt tự nhiên nhớ về những đêm đi soi ếch, nhớ "Khi đổ ếch vào thùng, chú Năm thế nào cũng sang". Thế là hình ảnh chú Năm hiện lên với những câu hò và cuốn sổ gia đình cùng ý nghĩa của nó. Lần thứ ba Việt tỉnh dậy, tiếng cu rừng nhắc Việt nhớ tới chiếc ná thun, rồi chiếc ná thun nhắc tới hành trang trong chiếc ba lô ngày nhập ngũ, ngày nhập ngũ là ngày má Việt vừa mất, thế là nỗi nhớ "chuyển vùng" sang hình ảnh của người má thân yêu. Việt tỉnh dậy lần thứ tư trong tiếng súng thôi thúc. Sự thôi thúc ấy khiến Việt liên hệ tới ý nghĩ thôi thúc ngày đi bộ đội, liên hệ chuyện chị em giành nhau nhập ngũ trước, sau đó là chuyện mang bàn thờ má đi gửi bên nhà chú... Nhìn chung nhà văn nắm rất chắc quy luật diễn biến tâm lí con người. Ông đã khéo léo tạo cho tác phẩm một hình thức kết cấu độc đáo tương đồng với "kết cấu" của những giấc mơ chập chờn, từ đó cứ mở rộng dần đối tượng được miêu tả và đi mỗi lúc một sâu vào đời sống tâm hồn của nhân vật.

Trong khi làm sáng tỏ tâm lí nhân vật, nhà văn đã sử dụng một ngôn ngữ trần thuật đặc biệt phù hợp. Đấy là ngôn ngữ của chính nhân vật nói về mình và kể về người khác, mặc dù bề ngoài có vẻ là ngôn ngữ khách quan của người trần thuật. Điều đó thể hiện ngay ở cách xưng hô rất đỗi thân thương, gắn bó : "Việt" (chứ không phải là "anh" hay "chú bé"), "chị Chiến" (chứ không phải là "cô", "chị"), "chú Năm" (chứ không phải là "ông Năm"), "má" (chứ không phải là "má Việt")... Điều đó cũng thể hiện ở màu sắc địa phương của lời trần thuật (chưa kể đến lời nói thực thụ của nhân vật): "Chú ít nói, nhưng đã nhậu vào ba hột là chú nói tới", "Thím Năm vừa khóc vừa kể thôi là kể", "Hai bên giáp mặt, ba cười hề hề, nhưng má chẳng thèm dòm, hai mắt hứ một cái "cóc", rồi đi thẳng"... Thật khó kể hết được những ví dụ sinh động như thế. Nhiều người từng biểu dương Nguyễn Thi rất thạo ngôn ngữ Nam Bộ. Cần phải thấy rằng cách sử dụng ngôn ngữ của ông ở đây trước hết có tác dụng làm nổi bật tâm lí những con người sống ở vùng đất ấy, sau nữa mới gọi dậy không khí của một vùng, của một thời...

Những đứa con trong gia đình thể hiện khá rõ tài năng của Nguyễn Thi trên nhiều mặt : khả năng khái quát cao, khả năng dựng cảnh, dựng người và mô tả tâm lí sâu sắc, khả năng vận dụng ngôn ngữ Nam Bộ đầy linh hoạt, biến hoá và cả chất triết lí rất riêng, toát lên từ chính hiện thực chứ không phải từ những lời trữ tình ngoại đề của tác giả. Tất nhiên, những phương diện tài năng ấy không biểu lộ riêng rẽ. Chúng hoà lẫn vào nhau hết sức tự nhiên đưa đến sức thuyết phục lớn cho tác phẩm, làm cho độc giả khi đọc tác phẩm không còn thấy đó là văn mà chỉ thấy đó là cuộc đời.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top