Có thể bạn đã biết tới những áng văn của chị Tư, bạn cảm những câu chữ rất chân thật và ấm nóng tình thương của chị. Chị Tư có một tác phẩm mà mình rất thích đó là "Cánh đồng bất tận". Tác phẩm ấy đã được chuyển thể thành phim. Đọc và xem xong mình có những cảm giác đau xót và thương cảm tới các nhân vật trong truyện. Bạn có thể đã đọc hoặc xem nó, bạn có thấy biểu tượng cánh đồng chạy dọc xuyên suốt không ? Bạn có thắc mắc nhiều về những ý nghĩa sâu sắc của biểu tượng này ?
Sau đây, xin giới thiệu tới bạn đọc tham khảo bài viết: Biểu tượng cánh đồng trong cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư.
Cánh đồng bất tận - Nguyễn Ngọc Tư
Thứ hai - 11/09/2017 14:47
Tác giả : TS. Lê Thị Thùy Vinh
Văn học nói chung và văn học hiện đại, hậu hiện đại nói riêng được xem là văn học của các ẩn dụ và biểu tượng. Những tác giả của dòng văn học này luôn nhìn cuộc đời bằng cái nhìn tỉnh táo, giàu chất suy tư và chiêm nghiệm đồng thời luôn cố gắng tìm ra cho mình những hướng đi mới tạo ra những quan niệm riêng về đời sống. Quan niệm ấy hoá thân vào hình tượng, dồn nén thành những biểu tượng buộc người đọc phải giải mã những thông điệp thẩm mĩ được gửi gắm trong đó.
Trong số những cây bút trẻ mới xuất hiện gần đây, Nguyễn Ngọc Tư sớm gây được ấn tượng mạnh với độc giả bởi giọng văn đậm chất Nam bộ và lối viết hồn nhiên, chân chất. Chị được biết đến rộng rãi từ tập truyện đầu tay Ngọn đèn không tắt rồi Biển người mênh mông, Giao thừa, Nước chảy mây trôi… nhưng phải đến truyện ngắn Cánh đồng bất tận trong tập truyện cùng tên chị mới thực sự “vượt tầm” và để lại một hiệu ứng trong lòng độc giả. Một trong những yếu tố đặc biệt quan trọng làm nên sức hấp dẫn của Cánh đồng bất tận chính là dòng chảy sâu kín của ngôn ngữ biểu tượng. Đó là biểu tượng cánh đồng, một biểu tượng xuất hiện đậm đặc, một biểu tượng đầy sức ám ảnh trong hệ thống những biểu tượng của không gian vùng sông nước mà Nguyễn Ngọc Tư đã khai thác. Trong bài viết này, chúng tôi tập trung khai thác biểu tượng cánh đồng trong Cánh đồng bất tận với mục đích giải mã những thông điệp thẩm mĩ, những ý tứ sâu xa mà Nguyễn Ngọc Tư gửi gắm từ đó thấy được vai trò của nhà văn trong việc điều chỉnh, tái tạo, bổ sung những ý nghĩa mới cho hình tượng nghệ thuật.
1. Vấn đề biểu tượng và biểu tượng ngôn từ
1.1. Biểu tượng
Biểu tượng là một khái niệm được nhiều ngành khoa học sử dụng với những nội hàm khác nhau cho nên có thể nói rằng có rất nhiều những cách hiểu khác nhau về khái niệm biểu tượng. Ở đây chúng tôi tiếp thu cách hiểu của TS Nguyễn Thị Ngân Hoa và lấy đó làm xuất phát điểm để xem xét. “Biểu tượng (tiếng Pháp: symbole, tiếng Anh: symbol) theo nghĩa rộng nhất là một tín hiệu mà mặt hình thức cảm tính (tồn tại trong hiện thực khách quan hoặc trong sự tưởng tượng của con người: cái biểu trưng) và mặt ý nghĩa (cái được biểu trưng) mang tính có lí do, tính tất yếu. Chính mối quan hệ giữa hai mặt này của biểu tượng là điểm chủ yếu để phân biệt biểu tượng với dấu hiệu và ký hiệu đơn thuần. Nếu dấu hiệu, ký hiệu chỉ là những quy ước tuỳ tiện trong đó cái biểu đạt và cái được biểu đạt (khách thể hay chủ thể) vẫn xa lạ với nhau thì biểu tượng “giả định có sự đồng chất giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt theo nghĩa một lực năng động tổ chức” (Từ điên biểu tượng văn hoá thế giới). Mặt khác cũng cần nhấn mạnh rằng tương quan của cái biểu trưng và cái được biểu trưng trong biểu tượng không phải là quan hệ 1 – 1 mà là 1- n. Nói khác đi biểu tượng luôn mang tính đa trị “chỉ một cái biểu đạt giúp ta nhận thức ra nhiều cái được biểu đạt hoặc giản đơn hơn cái được biểu đạt dồi dào hơn cái biểu đạt” hay đó chính là “sự không thích hợp giữa tồn tại và hình thức… sự ứ tràn của nội dung ra ngoài hình thức biểu đạt của nó” (Todorov) .
1.2. Biểu tượng ngôn từ
Biểu tượng ngôn từ là một loại biểu tượng thuộc loại hình nghệ thuật. Nó được hình thành thông qua các cấp độ chuyển hoá và sản sinh: từ mẫu gốc (bản tổng kết đã được công thức hoá của khối kinh nghiệm to lớn của các thế hệ tổ tiên), rồi biểu tượng văn hoá (trong các thần thoại, truyền thuyết, nghi lễ, phong tục…) và biểu tượng ngôn từ (văn học) .
2. Biểu tượng “cánh đồng” trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”
2.1. Sự đa dạng trong tên gọi của biểu tượng
Cánh đồng bất tận là một tác phẩm được dệt bởi sự đan cài giữa xúc cảm và suy tưởng của nhân vật chính trên phông nền là cuộc sống của những kiếp người nhọc nhằn, tủi cực. Dựa vào sự vận động của tâm lí nhân vật, hành trình khám phá tác phẩm là sự bóc tách từ bình diện ngôn ngữ trần thuật đến bình diện những tri nhận, ẩn ức đã lắng đọng thành các biểu tượng ám ảnh đời sống nội tâm nhân vật. Tiếp cận với truyện ngắn, dễ thấy “cánh đồng” là biểu tượng xuyên suốt thiên truyện, qua 8 trường đoạn trong toàn hệ thống. Biểu tượng này hiện lên với các tên gọi theo các trạng thái khác nhau.
Theo khảo sát, chúng tôi thấy có 14 tên gọi khác nhau về biểu tượng cánh đồng. Đó là cánh đồng rộng, cánh đồng hoang vắng, cánh đồng không có tên, cánh đồng vắng ngắt, cánh đồng lúa chết khô, cánh đồng vắng người, cánh đồng hoang lạnh, cánh đồng khơi, cánh đồng miên viễn với gió lắt lay những khói nắng héo xèo, cánh đồng ủ ê tin buồn, cánh đồng hoang liêu, cánh đồng trở thành đô thị, cánh đồng Chia Cắt, cánh đồng Bất Tận. Gắn liền với những tên gọi về cánh đồng là những sự vật, vật thể liên quan đến cánh đồng: chiếc ghe, dòng sông, cây lúa chết non trên đồng, mặt nước váng phèn, những bông lúa khô quắt queo trên đồng, vụ lúa thất bát cháy khô trên đồng, gió hoang liêu trên đồng… Tất cả những mã ngôn ngữ này cứ chồng chất lên nhau, lắng đọng thành những ẩn ức có sức ám ảnh lớn trong lòng độc giả.
2.2. Giải mã các nghĩa biểu trưng của biểu tượng “cánh đồng”
Khác với đặc điểm bản thể vốn có của cánh đồng là sự tĩnh lặng, hiền hoà, tình yêu và sự sum vầy, “cánh đồng” trong văn Nguyễn Ngọc Tư lại “buồn thiệt buồn”. Nó cô đơn, hiu quạnh, não nề, nó gắn với bức tranh quê buồn tím ngắt (gắn với các tính từ chỉ tên gọi cánh đồng và những sự vật liên quan đến cánh đồng). Điều này phải chăng bắt nguồn từ lối viết “phũ phàng” như để đoạn tuyệt với lối cũ trong việc phản ánh sự tàn nhẫn, sự hung bạo của thực tại xã hội hôm nay.
Có thể nói biểu tượng cánh đồng là một khám phá độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư khi được nhìn nhận như là ẩn dụ của nỗi đau, tình thương, nỗi nhớ và thời gian.
2.2.1. Cánh đồng – những nỗi đau
“Cánh đồng bất tận” là câu chuyện về một người đàn ông bị vợ phụ tình đâm ra căm ghét đàn bà và say mê trong những ý định trả thù những người phụ nữ bước qua đời ông ta mà quên đi trách nhiệm của mình với hai đứa con dứt ruột đẻ ra. Đến một ngày, một cô gái điếm len chân vào cuộc đời họ, làm xáo trộn cuộc đời họ: thằng con đuổi theo hình bóng của cô gái không chịu được sự bạc ác của người cha; đứa con gái trong tận cùng của tủi nhục và đau đớn gắng chìa tay ra để kéo người cha về phía thế giới của mình nhưng vô vọng. Hai cha con gần sát nhau trong cơn hoạn nạn mà vẫn thuộc về hai thế giới xa cách. Mỗi người là khối cô đơn tuyệt đối không chỉ đối với thế giới của người khác mà ngay cả ở thế giới của chính mình.
Cốt truyện tưởng như chẳng thể hứa hẹn đem đến một câu chuyện hay thế nhưng có lẽ sự lấn lướt của mạch tâm trạng so với ngôn ngữ miêu tả chính là sức hút của thiên truyện này. Qua mạch tâm trạng, người ta thấy hiện lên những số kiếp con người, những số kiếp khổ đau và bất hạnh. Nói khác đi, “Cánh đồng bất tận” là cánh đồng của những nỗi đau, những nỗi đau hiện hình trong số phận của những con người cùng khổ trong xã hội đang quay trong cơn lốc. Chính Nguyễn Ngọc Tư trong những lời phi lộ của “Cánh đồng bất tận” đã phải thốt lên “Khi nào bạn bực tức, giận dữ, hãy bất động! Ngay tại đó! Đừng cử động! Đừng làm gì cả! Đừng nói gì – dù chỉ một lời. Hãy im lặng và bất động hoàn toàn. Tuyệt đối không biết gì đến kẻ hoặc sự việc làm cho mình giận dữ” (Hạn chế sân hận, trải rộng tình thương) và chị cũng khẳng định “Trời ơi, mình giận muốn chết, muốn gào thét, muốn cào cấu, muốn đập phá mà không cho mình nhúc nhích, sao có thể hả hê?”. Và trong “Cánh đồng bất tận”, Nguyễn Ngọc Tư đã đưa những nỗi đau mà chị dằn vặt, xa xót cho nhân vật của mình vào trong cõi hận.
“Con kinh nhỏ nằm vắt qua một cánh đồng rộng. Và khi chúng tôi quyết định dừng lại, mùa hạn hán hung hãn dường như cũng gom hết nắng đổ xuống nơi này. Những cây lúa chết non trên đồng, thân đã khô cong như tàn nhang chưa rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn”. Những câu mở đầu của thiên truyện đã mở ra một trúc trắc, một lênh đênh, một khốn khó đang bủa vây một gia đình du mục gồm ba người: Cha, Tôi, Điền – đứa em trai, cùng gia tài: một đàn vịt đang độ lớn cần thức ăn còn sót lại trên đồng và nhất là cần nước trong một mùa nắng chát chúa, khô rát mặt người. Từ cái bắt đầu này, những nhân vật khác xuất hiện mà phần lớn là những người đàn bà không tên, trôi dạt. Tất cả những con người ở cái xứ sông nước, thổ ngư này đều nhuốm một nỗi đau riêng trong cái nền xám chung của thiên truyện.
- Người cha
Út Vũ là cha của nhân vật xưng “tôi” trong “Cánh đồng bất tận”. Vì hận tình, hận đời mà ông đã đốt nhà của mình rồi dẫn hai đứa con và đàn vịt vào những cánh đồng trong cõi hận. Điều này bắt nguồn từ vết thương lòng của chính ông. Đó là nỗi hận người vợ trẻ không chung tình, để rồi từ đó quay ra trả thù đời.Trước hết là sự đánh đập đứa con gái chỉ vì nó giống mẹ. Đau đơn và xót xa biết bao khi đọc những dòng này của Nguyễn Ngọc Tư “Cha vẫn thường đánh chị em tôi, thường đánh khi vừa ngủ dậy. Đó là khi người ta thấy hoang hoải, chán chường sau một giấc dài, mở mắt ra, vẫn gió đìu hiu, vẫn nắng võ vàng trên những cánh đồng hoang lạnh… hay tại tôi càng lớn càng giống má”.
Khó chịu với những gì liên quan đến người vợ không chung tình, người cha ấy nâng nỗi hận của mình thành nỗi hận phổ quát: hận tất cả những người đàn bà trên thế gian này. “Đàn bà với ông càng trải nghiệm càng chán chường. Càng gieo rắc càng đau. Vết thương cũ mở miệng toang hoác, không da thịt nào có thể lắp đầy”. Ông đã quyến rũ họ và khi họ vừa bỏ nhà, bỏ cửa, bỏ chồng, bỏ con để “cuốn gói” theo… tiếng gọi tình yêu thì ngay lập tức ông bỏ rơi họ. “Cha tôi tính toán rất vừa vặn, sao cho vừa đủ yêu, vừa đủ đau, vừa đủ bẽ bàng và bỏ rơi họ đúng lúc…tôi có cảm giác cha quắp lấy người ấy vùi mặt vào da, vào thịt, ngấu nghiến mà lòng cha lạnh ngắt… trong cha tôi không còn một chút cảm xúc nào, nét mặt tràn ngập những rắp tâm, chưa gặp mặt đã tính chuyện phụ phàng”. Rõ ràng hận thù đã ngự trị trong trái tim khô héo của người cha, không cách gì tẩy được đến mức Nguyễn Ngọc Tư đã phải thốt lên “Trời ơi, trừ chị em tôi, không ai thấy được đằng sau khuôn mặt chữ điền ngời ngợi đó là một hố sâu đen thẳm, bến bờ mờ mịt, chơi vơi, dễ hụt chân”.
Nỗi đau của người cha là nỗi đau của con người bị quá khứ làm cho tê liệt cả thể xác lẫn tâm hồn. Chính từ nỗi đau ấy mà ông đã luôn tạo ra nhiều nguyên nhân cho đau khổ trổ quả. Cho nên sự mê muôi, sự đau đớn ở người cha làm cho người đọc vừa thương vừa giận.
- Những người đàn bà
Biểu tượng về cánh đồng hoang hoải trong bức tranh quê buồn không chỉ gắn liền với nỗi đau của người cha thù hận mà còn gắn liền với số kiếp của những người đàn bà – những kiếp người mòn mỏi, sống tù túng nghèo nàn, không yêu thương và không hi vọng. Đó là Má tôi, sống cùng tiếng thở dài buồn não ruột “Má tôi thở dài khi nghe cha ghé bến… Má tôi thở dài khi tắm… Mỗi lần ghe vải ghé trước bến, má cũng thở dài, tay bối rối nắm vào hai túi áo mỏng lẹp kép. Thở dài cả khi thằng Điền bảo cho con xin tiền mua kẹo”. Đó còn là những người đàn bà mà “tôi” đã gặp trên những con sông cạn nước, trên những cánh đồng khô nẻ, trên những phiên chợ đầy mùi người. Và hơn hết là những người đàn bà bị cha tôi gạt gẫm, bỏ rơi, bịt lối quay về. “Tôi nhớ người đàn bà ở Bàu Sen, nhớ bóng người xấp xãi, ngơ ngác chạy theo chiếc ghe sáng ấy… người vừa bán xong cái quán nhỏ của mình, người vừa nói xong những lời dứt tình với chồng con, người vừa phũ phàng chia xong tài sản…”. Mỗi người đàn bà mang một số phận như những con nước trong mùa hạn hán. Mỗi con nước có một nguồn riêng nhưng phần lớn đều cạn kiệt trước khi hoà mình vào dòng lớn. Trong số những người đàn bà không tên ấy, “chị” là người gắn với gia đình “tôi” như một định mệnh.
Nguyễn Ngọc Tư đã xoáy sâu miêu tả nỗi đau của “chị” – nỗi đau của một người đàn bà làm điếm, bị đánh ghen. Sự đánh ghen thật tàn nhẫn và ác ý “người ta đổ keo dán sắt vào cửa mình của chị”. Nỗi đau ấy thiết nghĩ bắt nguồn từ sự xô đẩy của cuộc đời “chị, cũng giống như họ, chớm tàn tạ, đói rã ruột ở thị thành mới chạy xuống quê”. Cho nên ở nhân vật này, người ta thấy thương cảm hơn là miệt thị. Ngay cả khi kể lại những trò chơi giường chiếu, gạ gẫm lấy một, hai triệu đồng xoá đói giảm nghèo của một gã nông dân háu ăn món lạ hoặc khi tự thốt ra sau một đêm phải đi hối lộ thân xác cho cán bộ ấp trở về “Chị làm đĩ quen rồi, mấy chuyện này nhằm bà gì mà mấy cưng buồn” khiến người ta vẫn cảm thấy xót xa thương chị hơn là lên án. Một con đĩ vẫn khát khao được làm vợ, được sống tình nghĩa yêu thương, khát khao đời thường đơn giản vậy nhưng đối với chị tất cả là một sự tuyệt vọng. Tuyệt vọng làm sao khi người cha thanh toán tiền sòng phẳng rồi sau đó điềm nhiên phớt lờ, hắt hủi, “khinh miệt và đắc thắng no nê”. Nguyễn Ngọc Tư đã miêu tả rất hay cái tâm trạng chờ đợi và hivọng của người phụ nữ này “Chị hướng cái nhìn sâu nhói về phía cha tôi, rất chậm rãi, chị thay áo, lấy nón, xỏ dép… Thời gian dằng dặc. Tôi biết chị chờ và hi vọng. Tôi biết, đi một quãng xa chị vẫn còn dỏng tai đợi một tiếng gọi, quay lại đi, Sương. Nhưng chỉ gió nghêu ngao soi mói vào mảng thịt sau tà áo người phụ nữ đang xiên xiên trên bờ cỏ rập rờn”. Người phụ nữ da diết chờ đợi, mỏi mòn hivọng để lại trong lòng người đọc cái cảm giác ngậm ngùi, đắng đót khôn nguôi.
- Hai chị em Nương và Điền“Cánh đồng bất tận” là suy nghĩ của Nguyễn Ngọc Tư về nỗi đau thân phận người. Đó không chỉ là nỗi đau về người đàn ông bị vợ phụ tình, về thân phận những người đàn bà bị ruồng bỏ mà ở đó còn thổn thức về kiếp sống của hai chị em Nương và Điền lớn lên trong cảnh thiếu vắng tình thương, chỉ biết “tự học” cách để mà sống, mà chứng kiến những bất công.
Sống lang bạt cùng cha, đi hết cánh đồng này đến cánh đồng khác, Nương và Điền phải tự học cách sống để làm người và học ngay cả bản năng để chứng kiến và… bỏ qua. “Những gì không biết chúng tôi thử. Những gì không hiểu, chúng tôi chất thành khối trong lòng. Nhiều khi thấu đáo được một điều nào đó, chúng tôi phải trả giá rất cao”.
Nguyễn Ngọc Tư đã chú tâm hướng ngòi bút của mình để xây dựng nhân vật Điền – đứa em trai mới lớn, một nhân vật không hoàn thiện (không được trở thành người đàn ông thực thụ). Không phải ngẫu nhiên, tác giả để cho nhân vật Điền từ ngày “ngủ kẹt bồ lúa” mắc phải chứng bệnh chảy nước mắt. Nhìn qua làn nước mắt chứng nhân cho một ngày đau đớn, nhục nhã khi phải chứng kiến cái xấu, cái “bậy” rồi phải cô độc để “tự học lấy cách sống”, Điền đã phản kháng bằng cách “trút sạch” những cái gì có cho là ác, là xấu… thậm chí “tự kìm hãm bản năng trỗi dậy mạnh mẽ ở tuổi dậy thì bằng tất cả sự miệt thị, giận dữ, căm thù”. Buộc phải tự tìm lấy con đường đi, bằng xúc cảm và trải nghiệm, làm sao có thể tránh được ngộ nhận nên có khi đủ thấu hiểu một điều gì đó thì đã “phải trả một giá cao”. Đến khi sửng sốt trước sự hoan lạc của bầy vịt “đầy ắp một thứ tình yêu”, “tuyệt không có gì là thô tục, cưỡng đoạt, gạ gẫm” như những gì đã biết, Điền chới với, “nghi hoặc lan ra như những vòng sóng”. Và khi Sương xuất hiện thì trong Điền “chỉ là một nỗi ân hận dày vò”. Điền yêu chị nhưng “tình yêu ấy đã bị khiếm khuyết mất rồi”, sau giấc ngủ dài “bản năng nó không trở dậy”. Cho nên việc Điền phải hồng hộc chạy đi giữa đất trời hoang vu phải chăng chính là cách để giải thoát chính mình.
Như vậy có thể thấy “cánh đồng” được nhìn nhận như là biểu tượng về những nỗi đau của con người – nỗi đau nhân thế. Đó là cái nỗi đau của người mẹ khi hiểu ra hai đứa con đã thấy tường tận việc phạm tội tà dâm của mình nên hoảng loạn bỏ nhà trốn đi. Rồi người cha uất ức, đốt nhà bỏ đi. Đến lượt chị Sương cũng lao đi, khi nhận ra sự thật não nề: Má cưng ác một nhưng người cha này của cưng ác tới mười. Rồi đến lượt Điền, chàng trai tuổi 18 cũng chạy hồng hộc về phía đó. Tất cả đã lao đi giữa đất trời mênh mông, biền biệt tăm tích, không phương hướng, không nơi chốn, chẳng biết về đâu. Thiết nghĩ suy cho cùng đó cũng chỉ là nỗi đau có tự ngàn đời xưa, cho đến mãi ngàn đời sau khi con người vẫn tồn tại trên chốn nhân gian này. Phải chăng chính cái nỗi đau không cùng của những con người ấy đã thấm sâu vào cảnh vật, vào cánh đồng khiến cánh đồng trong văn Ngọc Tư cũng trở nên buồn và cô lạnh. Cứ sau mỗi trường đoạn sự kiện, ngòi bút của nhà văn lại hướng về tả cánh đồng: rộng, hoang vắng, vô danh, vắng ngắt, ủ ê tin buồn… tất cả đều nhuốm màu tâm trạng của những thân phận người, khiến người ta càng đọc càng thấm thía, xót xa.
Sau đây, xin giới thiệu tới bạn đọc tham khảo bài viết: Biểu tượng cánh đồng trong cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư.
Cánh đồng bất tận - Nguyễn Ngọc Tư
Tác giả : TS. Lê Thị Thùy Vinh
Văn học nói chung và văn học hiện đại, hậu hiện đại nói riêng được xem là văn học của các ẩn dụ và biểu tượng. Những tác giả của dòng văn học này luôn nhìn cuộc đời bằng cái nhìn tỉnh táo, giàu chất suy tư và chiêm nghiệm đồng thời luôn cố gắng tìm ra cho mình những hướng đi mới tạo ra những quan niệm riêng về đời sống. Quan niệm ấy hoá thân vào hình tượng, dồn nén thành những biểu tượng buộc người đọc phải giải mã những thông điệp thẩm mĩ được gửi gắm trong đó.
Trong số những cây bút trẻ mới xuất hiện gần đây, Nguyễn Ngọc Tư sớm gây được ấn tượng mạnh với độc giả bởi giọng văn đậm chất Nam bộ và lối viết hồn nhiên, chân chất. Chị được biết đến rộng rãi từ tập truyện đầu tay Ngọn đèn không tắt rồi Biển người mênh mông, Giao thừa, Nước chảy mây trôi… nhưng phải đến truyện ngắn Cánh đồng bất tận trong tập truyện cùng tên chị mới thực sự “vượt tầm” và để lại một hiệu ứng trong lòng độc giả. Một trong những yếu tố đặc biệt quan trọng làm nên sức hấp dẫn của Cánh đồng bất tận chính là dòng chảy sâu kín của ngôn ngữ biểu tượng. Đó là biểu tượng cánh đồng, một biểu tượng xuất hiện đậm đặc, một biểu tượng đầy sức ám ảnh trong hệ thống những biểu tượng của không gian vùng sông nước mà Nguyễn Ngọc Tư đã khai thác. Trong bài viết này, chúng tôi tập trung khai thác biểu tượng cánh đồng trong Cánh đồng bất tận với mục đích giải mã những thông điệp thẩm mĩ, những ý tứ sâu xa mà Nguyễn Ngọc Tư gửi gắm từ đó thấy được vai trò của nhà văn trong việc điều chỉnh, tái tạo, bổ sung những ý nghĩa mới cho hình tượng nghệ thuật.
1. Vấn đề biểu tượng và biểu tượng ngôn từ
1.1. Biểu tượng
Biểu tượng là một khái niệm được nhiều ngành khoa học sử dụng với những nội hàm khác nhau cho nên có thể nói rằng có rất nhiều những cách hiểu khác nhau về khái niệm biểu tượng. Ở đây chúng tôi tiếp thu cách hiểu của TS Nguyễn Thị Ngân Hoa và lấy đó làm xuất phát điểm để xem xét. “Biểu tượng (tiếng Pháp: symbole, tiếng Anh: symbol) theo nghĩa rộng nhất là một tín hiệu mà mặt hình thức cảm tính (tồn tại trong hiện thực khách quan hoặc trong sự tưởng tượng của con người: cái biểu trưng) và mặt ý nghĩa (cái được biểu trưng) mang tính có lí do, tính tất yếu. Chính mối quan hệ giữa hai mặt này của biểu tượng là điểm chủ yếu để phân biệt biểu tượng với dấu hiệu và ký hiệu đơn thuần. Nếu dấu hiệu, ký hiệu chỉ là những quy ước tuỳ tiện trong đó cái biểu đạt và cái được biểu đạt (khách thể hay chủ thể) vẫn xa lạ với nhau thì biểu tượng “giả định có sự đồng chất giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt theo nghĩa một lực năng động tổ chức” (Từ điên biểu tượng văn hoá thế giới). Mặt khác cũng cần nhấn mạnh rằng tương quan của cái biểu trưng và cái được biểu trưng trong biểu tượng không phải là quan hệ 1 – 1 mà là 1- n. Nói khác đi biểu tượng luôn mang tính đa trị “chỉ một cái biểu đạt giúp ta nhận thức ra nhiều cái được biểu đạt hoặc giản đơn hơn cái được biểu đạt dồi dào hơn cái biểu đạt” hay đó chính là “sự không thích hợp giữa tồn tại và hình thức… sự ứ tràn của nội dung ra ngoài hình thức biểu đạt của nó” (Todorov) .
1.2. Biểu tượng ngôn từ
Biểu tượng ngôn từ là một loại biểu tượng thuộc loại hình nghệ thuật. Nó được hình thành thông qua các cấp độ chuyển hoá và sản sinh: từ mẫu gốc (bản tổng kết đã được công thức hoá của khối kinh nghiệm to lớn của các thế hệ tổ tiên), rồi biểu tượng văn hoá (trong các thần thoại, truyền thuyết, nghi lễ, phong tục…) và biểu tượng ngôn từ (văn học) .
2. Biểu tượng “cánh đồng” trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”
2.1. Sự đa dạng trong tên gọi của biểu tượng
Cánh đồng bất tận là một tác phẩm được dệt bởi sự đan cài giữa xúc cảm và suy tưởng của nhân vật chính trên phông nền là cuộc sống của những kiếp người nhọc nhằn, tủi cực. Dựa vào sự vận động của tâm lí nhân vật, hành trình khám phá tác phẩm là sự bóc tách từ bình diện ngôn ngữ trần thuật đến bình diện những tri nhận, ẩn ức đã lắng đọng thành các biểu tượng ám ảnh đời sống nội tâm nhân vật. Tiếp cận với truyện ngắn, dễ thấy “cánh đồng” là biểu tượng xuyên suốt thiên truyện, qua 8 trường đoạn trong toàn hệ thống. Biểu tượng này hiện lên với các tên gọi theo các trạng thái khác nhau.
Theo khảo sát, chúng tôi thấy có 14 tên gọi khác nhau về biểu tượng cánh đồng. Đó là cánh đồng rộng, cánh đồng hoang vắng, cánh đồng không có tên, cánh đồng vắng ngắt, cánh đồng lúa chết khô, cánh đồng vắng người, cánh đồng hoang lạnh, cánh đồng khơi, cánh đồng miên viễn với gió lắt lay những khói nắng héo xèo, cánh đồng ủ ê tin buồn, cánh đồng hoang liêu, cánh đồng trở thành đô thị, cánh đồng Chia Cắt, cánh đồng Bất Tận. Gắn liền với những tên gọi về cánh đồng là những sự vật, vật thể liên quan đến cánh đồng: chiếc ghe, dòng sông, cây lúa chết non trên đồng, mặt nước váng phèn, những bông lúa khô quắt queo trên đồng, vụ lúa thất bát cháy khô trên đồng, gió hoang liêu trên đồng… Tất cả những mã ngôn ngữ này cứ chồng chất lên nhau, lắng đọng thành những ẩn ức có sức ám ảnh lớn trong lòng độc giả.
2.2. Giải mã các nghĩa biểu trưng của biểu tượng “cánh đồng”
Khác với đặc điểm bản thể vốn có của cánh đồng là sự tĩnh lặng, hiền hoà, tình yêu và sự sum vầy, “cánh đồng” trong văn Nguyễn Ngọc Tư lại “buồn thiệt buồn”. Nó cô đơn, hiu quạnh, não nề, nó gắn với bức tranh quê buồn tím ngắt (gắn với các tính từ chỉ tên gọi cánh đồng và những sự vật liên quan đến cánh đồng). Điều này phải chăng bắt nguồn từ lối viết “phũ phàng” như để đoạn tuyệt với lối cũ trong việc phản ánh sự tàn nhẫn, sự hung bạo của thực tại xã hội hôm nay.
Có thể nói biểu tượng cánh đồng là một khám phá độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư khi được nhìn nhận như là ẩn dụ của nỗi đau, tình thương, nỗi nhớ và thời gian.
2.2.1. Cánh đồng – những nỗi đau
“Cánh đồng bất tận” là câu chuyện về một người đàn ông bị vợ phụ tình đâm ra căm ghét đàn bà và say mê trong những ý định trả thù những người phụ nữ bước qua đời ông ta mà quên đi trách nhiệm của mình với hai đứa con dứt ruột đẻ ra. Đến một ngày, một cô gái điếm len chân vào cuộc đời họ, làm xáo trộn cuộc đời họ: thằng con đuổi theo hình bóng của cô gái không chịu được sự bạc ác của người cha; đứa con gái trong tận cùng của tủi nhục và đau đớn gắng chìa tay ra để kéo người cha về phía thế giới của mình nhưng vô vọng. Hai cha con gần sát nhau trong cơn hoạn nạn mà vẫn thuộc về hai thế giới xa cách. Mỗi người là khối cô đơn tuyệt đối không chỉ đối với thế giới của người khác mà ngay cả ở thế giới của chính mình.
Cốt truyện tưởng như chẳng thể hứa hẹn đem đến một câu chuyện hay thế nhưng có lẽ sự lấn lướt của mạch tâm trạng so với ngôn ngữ miêu tả chính là sức hút của thiên truyện này. Qua mạch tâm trạng, người ta thấy hiện lên những số kiếp con người, những số kiếp khổ đau và bất hạnh. Nói khác đi, “Cánh đồng bất tận” là cánh đồng của những nỗi đau, những nỗi đau hiện hình trong số phận của những con người cùng khổ trong xã hội đang quay trong cơn lốc. Chính Nguyễn Ngọc Tư trong những lời phi lộ của “Cánh đồng bất tận” đã phải thốt lên “Khi nào bạn bực tức, giận dữ, hãy bất động! Ngay tại đó! Đừng cử động! Đừng làm gì cả! Đừng nói gì – dù chỉ một lời. Hãy im lặng và bất động hoàn toàn. Tuyệt đối không biết gì đến kẻ hoặc sự việc làm cho mình giận dữ” (Hạn chế sân hận, trải rộng tình thương) và chị cũng khẳng định “Trời ơi, mình giận muốn chết, muốn gào thét, muốn cào cấu, muốn đập phá mà không cho mình nhúc nhích, sao có thể hả hê?”. Và trong “Cánh đồng bất tận”, Nguyễn Ngọc Tư đã đưa những nỗi đau mà chị dằn vặt, xa xót cho nhân vật của mình vào trong cõi hận.
“Con kinh nhỏ nằm vắt qua một cánh đồng rộng. Và khi chúng tôi quyết định dừng lại, mùa hạn hán hung hãn dường như cũng gom hết nắng đổ xuống nơi này. Những cây lúa chết non trên đồng, thân đã khô cong như tàn nhang chưa rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn”. Những câu mở đầu của thiên truyện đã mở ra một trúc trắc, một lênh đênh, một khốn khó đang bủa vây một gia đình du mục gồm ba người: Cha, Tôi, Điền – đứa em trai, cùng gia tài: một đàn vịt đang độ lớn cần thức ăn còn sót lại trên đồng và nhất là cần nước trong một mùa nắng chát chúa, khô rát mặt người. Từ cái bắt đầu này, những nhân vật khác xuất hiện mà phần lớn là những người đàn bà không tên, trôi dạt. Tất cả những con người ở cái xứ sông nước, thổ ngư này đều nhuốm một nỗi đau riêng trong cái nền xám chung của thiên truyện.
- Người cha
Út Vũ là cha của nhân vật xưng “tôi” trong “Cánh đồng bất tận”. Vì hận tình, hận đời mà ông đã đốt nhà của mình rồi dẫn hai đứa con và đàn vịt vào những cánh đồng trong cõi hận. Điều này bắt nguồn từ vết thương lòng của chính ông. Đó là nỗi hận người vợ trẻ không chung tình, để rồi từ đó quay ra trả thù đời.Trước hết là sự đánh đập đứa con gái chỉ vì nó giống mẹ. Đau đơn và xót xa biết bao khi đọc những dòng này của Nguyễn Ngọc Tư “Cha vẫn thường đánh chị em tôi, thường đánh khi vừa ngủ dậy. Đó là khi người ta thấy hoang hoải, chán chường sau một giấc dài, mở mắt ra, vẫn gió đìu hiu, vẫn nắng võ vàng trên những cánh đồng hoang lạnh… hay tại tôi càng lớn càng giống má”.
Khó chịu với những gì liên quan đến người vợ không chung tình, người cha ấy nâng nỗi hận của mình thành nỗi hận phổ quát: hận tất cả những người đàn bà trên thế gian này. “Đàn bà với ông càng trải nghiệm càng chán chường. Càng gieo rắc càng đau. Vết thương cũ mở miệng toang hoác, không da thịt nào có thể lắp đầy”. Ông đã quyến rũ họ và khi họ vừa bỏ nhà, bỏ cửa, bỏ chồng, bỏ con để “cuốn gói” theo… tiếng gọi tình yêu thì ngay lập tức ông bỏ rơi họ. “Cha tôi tính toán rất vừa vặn, sao cho vừa đủ yêu, vừa đủ đau, vừa đủ bẽ bàng và bỏ rơi họ đúng lúc…tôi có cảm giác cha quắp lấy người ấy vùi mặt vào da, vào thịt, ngấu nghiến mà lòng cha lạnh ngắt… trong cha tôi không còn một chút cảm xúc nào, nét mặt tràn ngập những rắp tâm, chưa gặp mặt đã tính chuyện phụ phàng”. Rõ ràng hận thù đã ngự trị trong trái tim khô héo của người cha, không cách gì tẩy được đến mức Nguyễn Ngọc Tư đã phải thốt lên “Trời ơi, trừ chị em tôi, không ai thấy được đằng sau khuôn mặt chữ điền ngời ngợi đó là một hố sâu đen thẳm, bến bờ mờ mịt, chơi vơi, dễ hụt chân”.
Nỗi đau của người cha là nỗi đau của con người bị quá khứ làm cho tê liệt cả thể xác lẫn tâm hồn. Chính từ nỗi đau ấy mà ông đã luôn tạo ra nhiều nguyên nhân cho đau khổ trổ quả. Cho nên sự mê muôi, sự đau đớn ở người cha làm cho người đọc vừa thương vừa giận.
- Những người đàn bà
Biểu tượng về cánh đồng hoang hoải trong bức tranh quê buồn không chỉ gắn liền với nỗi đau của người cha thù hận mà còn gắn liền với số kiếp của những người đàn bà – những kiếp người mòn mỏi, sống tù túng nghèo nàn, không yêu thương và không hi vọng. Đó là Má tôi, sống cùng tiếng thở dài buồn não ruột “Má tôi thở dài khi nghe cha ghé bến… Má tôi thở dài khi tắm… Mỗi lần ghe vải ghé trước bến, má cũng thở dài, tay bối rối nắm vào hai túi áo mỏng lẹp kép. Thở dài cả khi thằng Điền bảo cho con xin tiền mua kẹo”. Đó còn là những người đàn bà mà “tôi” đã gặp trên những con sông cạn nước, trên những cánh đồng khô nẻ, trên những phiên chợ đầy mùi người. Và hơn hết là những người đàn bà bị cha tôi gạt gẫm, bỏ rơi, bịt lối quay về. “Tôi nhớ người đàn bà ở Bàu Sen, nhớ bóng người xấp xãi, ngơ ngác chạy theo chiếc ghe sáng ấy… người vừa bán xong cái quán nhỏ của mình, người vừa nói xong những lời dứt tình với chồng con, người vừa phũ phàng chia xong tài sản…”. Mỗi người đàn bà mang một số phận như những con nước trong mùa hạn hán. Mỗi con nước có một nguồn riêng nhưng phần lớn đều cạn kiệt trước khi hoà mình vào dòng lớn. Trong số những người đàn bà không tên ấy, “chị” là người gắn với gia đình “tôi” như một định mệnh.
Nguyễn Ngọc Tư đã xoáy sâu miêu tả nỗi đau của “chị” – nỗi đau của một người đàn bà làm điếm, bị đánh ghen. Sự đánh ghen thật tàn nhẫn và ác ý “người ta đổ keo dán sắt vào cửa mình của chị”. Nỗi đau ấy thiết nghĩ bắt nguồn từ sự xô đẩy của cuộc đời “chị, cũng giống như họ, chớm tàn tạ, đói rã ruột ở thị thành mới chạy xuống quê”. Cho nên ở nhân vật này, người ta thấy thương cảm hơn là miệt thị. Ngay cả khi kể lại những trò chơi giường chiếu, gạ gẫm lấy một, hai triệu đồng xoá đói giảm nghèo của một gã nông dân háu ăn món lạ hoặc khi tự thốt ra sau một đêm phải đi hối lộ thân xác cho cán bộ ấp trở về “Chị làm đĩ quen rồi, mấy chuyện này nhằm bà gì mà mấy cưng buồn” khiến người ta vẫn cảm thấy xót xa thương chị hơn là lên án. Một con đĩ vẫn khát khao được làm vợ, được sống tình nghĩa yêu thương, khát khao đời thường đơn giản vậy nhưng đối với chị tất cả là một sự tuyệt vọng. Tuyệt vọng làm sao khi người cha thanh toán tiền sòng phẳng rồi sau đó điềm nhiên phớt lờ, hắt hủi, “khinh miệt và đắc thắng no nê”. Nguyễn Ngọc Tư đã miêu tả rất hay cái tâm trạng chờ đợi và hivọng của người phụ nữ này “Chị hướng cái nhìn sâu nhói về phía cha tôi, rất chậm rãi, chị thay áo, lấy nón, xỏ dép… Thời gian dằng dặc. Tôi biết chị chờ và hi vọng. Tôi biết, đi một quãng xa chị vẫn còn dỏng tai đợi một tiếng gọi, quay lại đi, Sương. Nhưng chỉ gió nghêu ngao soi mói vào mảng thịt sau tà áo người phụ nữ đang xiên xiên trên bờ cỏ rập rờn”. Người phụ nữ da diết chờ đợi, mỏi mòn hivọng để lại trong lòng người đọc cái cảm giác ngậm ngùi, đắng đót khôn nguôi.
- Hai chị em Nương và Điền“Cánh đồng bất tận” là suy nghĩ của Nguyễn Ngọc Tư về nỗi đau thân phận người. Đó không chỉ là nỗi đau về người đàn ông bị vợ phụ tình, về thân phận những người đàn bà bị ruồng bỏ mà ở đó còn thổn thức về kiếp sống của hai chị em Nương và Điền lớn lên trong cảnh thiếu vắng tình thương, chỉ biết “tự học” cách để mà sống, mà chứng kiến những bất công.
Sống lang bạt cùng cha, đi hết cánh đồng này đến cánh đồng khác, Nương và Điền phải tự học cách sống để làm người và học ngay cả bản năng để chứng kiến và… bỏ qua. “Những gì không biết chúng tôi thử. Những gì không hiểu, chúng tôi chất thành khối trong lòng. Nhiều khi thấu đáo được một điều nào đó, chúng tôi phải trả giá rất cao”.
Nguyễn Ngọc Tư đã chú tâm hướng ngòi bút của mình để xây dựng nhân vật Điền – đứa em trai mới lớn, một nhân vật không hoàn thiện (không được trở thành người đàn ông thực thụ). Không phải ngẫu nhiên, tác giả để cho nhân vật Điền từ ngày “ngủ kẹt bồ lúa” mắc phải chứng bệnh chảy nước mắt. Nhìn qua làn nước mắt chứng nhân cho một ngày đau đớn, nhục nhã khi phải chứng kiến cái xấu, cái “bậy” rồi phải cô độc để “tự học lấy cách sống”, Điền đã phản kháng bằng cách “trút sạch” những cái gì có cho là ác, là xấu… thậm chí “tự kìm hãm bản năng trỗi dậy mạnh mẽ ở tuổi dậy thì bằng tất cả sự miệt thị, giận dữ, căm thù”. Buộc phải tự tìm lấy con đường đi, bằng xúc cảm và trải nghiệm, làm sao có thể tránh được ngộ nhận nên có khi đủ thấu hiểu một điều gì đó thì đã “phải trả một giá cao”. Đến khi sửng sốt trước sự hoan lạc của bầy vịt “đầy ắp một thứ tình yêu”, “tuyệt không có gì là thô tục, cưỡng đoạt, gạ gẫm” như những gì đã biết, Điền chới với, “nghi hoặc lan ra như những vòng sóng”. Và khi Sương xuất hiện thì trong Điền “chỉ là một nỗi ân hận dày vò”. Điền yêu chị nhưng “tình yêu ấy đã bị khiếm khuyết mất rồi”, sau giấc ngủ dài “bản năng nó không trở dậy”. Cho nên việc Điền phải hồng hộc chạy đi giữa đất trời hoang vu phải chăng chính là cách để giải thoát chính mình.
Như vậy có thể thấy “cánh đồng” được nhìn nhận như là biểu tượng về những nỗi đau của con người – nỗi đau nhân thế. Đó là cái nỗi đau của người mẹ khi hiểu ra hai đứa con đã thấy tường tận việc phạm tội tà dâm của mình nên hoảng loạn bỏ nhà trốn đi. Rồi người cha uất ức, đốt nhà bỏ đi. Đến lượt chị Sương cũng lao đi, khi nhận ra sự thật não nề: Má cưng ác một nhưng người cha này của cưng ác tới mười. Rồi đến lượt Điền, chàng trai tuổi 18 cũng chạy hồng hộc về phía đó. Tất cả đã lao đi giữa đất trời mênh mông, biền biệt tăm tích, không phương hướng, không nơi chốn, chẳng biết về đâu. Thiết nghĩ suy cho cùng đó cũng chỉ là nỗi đau có tự ngàn đời xưa, cho đến mãi ngàn đời sau khi con người vẫn tồn tại trên chốn nhân gian này. Phải chăng chính cái nỗi đau không cùng của những con người ấy đã thấm sâu vào cảnh vật, vào cánh đồng khiến cánh đồng trong văn Ngọc Tư cũng trở nên buồn và cô lạnh. Cứ sau mỗi trường đoạn sự kiện, ngòi bút của nhà văn lại hướng về tả cánh đồng: rộng, hoang vắng, vô danh, vắng ngắt, ủ ê tin buồn… tất cả đều nhuốm màu tâm trạng của những thân phận người, khiến người ta càng đọc càng thấm thía, xót xa.
Sửa lần cuối: