Bài thơ "Viếng lăng Bác"

small star

Moderator
Xu
94
I/ MỞ BÀI:

_ “Viếng lăng Bác” là bài thơ giàu chất trữ tình đằm thắm, thiết tha được Viễn Phương sáng tác trong dịp đến thăm nơi yên nghỉ cuối cùng của Bác Hồ - vị cha già kính yêu của dân tộc.

_ Với niềm xúc động chân thành, nhà thơ đã bày tỏ lòng kính yêu, biết ơn sâu sắc, niềm thương nhớ Bác khôn nguôi:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác…

….. Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

( Tháng 4/1976 )

_ Hòa cùng nguồn cảm xúc dạt dào của nhà thơ, chúng ta sẽ cảm nhận và rung động sâu xa trước tình cảm chân thành, thắm thiết của người con miền Nam đối với Bác Hồ kính yêu.


II/ THÂN BÀI: (Kết hợp phân tích nghệ thuật và nội dung)

KHỔ 1:

_ Như một người con xa, nay mới có dịp được trở về viếng thăm “người cha” đã khuất, Viễn Phương vô cùng bồi hồi, xúc động:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát…

_ Trong tâm trạng của người con miền Nam “mong Bác nỗi mong cha”, nhà thơ bày tỏ tình cảm chân thành, tha thiết của mình đối với vị cha già kính yêu của dân tộc. Tác giả xưng “con” biểu lộ tình cảm gần gũi, thân thương, kính trọng đối với Bác.

_ Giờ đây, đứng trước lăng mộ của Người, trong lòng nhà thơ dâng trào bao xúc động, nghẹn ngào. Nguồn cảm xúc ấy cứ dâng trào mãnh liệt:

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.

Từ cảm “ôi” đã diễn tả niềm cảm xúc sâu xa của nhà thơ trước cảnh tượng thiêng liêng nơi lăng Bác.

_ Hình ảnh gợi tả “hàng tre xanh xanh” thật gần gũi, thân thương, biểu tượng cho làng quê Việt Nam tràn đầy sức sống dồi dào, mãnh liệt. Dù có phải trải qua bao “bão táp mưa sa” nhưng hàng tre vẫn xanh tươi, vẫn vươn lên mạnh mẽ. Từ bao đời nay, tre đã trở thành biểu tượng cho con người Việt Nam có chí khí cao cả, có sức sống bền bỉ, dẻo dai, kiên cường, bất khuất:

“Loài tre đâu chịu mọc cong

Chưa lên đã thẳng như chông lạ thường.”

( Tre Việt Nam – Nguyễn Duy )

_ Trong tâm hồn nhà thơ thì hình ảnh hàng tre đứng quanh lăng Bác biểu tượng cho toàn thể dân tộc Việt Nam đã hợp thành đội ngũ trang nghiêm, chỉnh tề, vững vàng bên lăng Bác. Dù trong hoàn cảnh nào, cả dân tộc vẫn giữ trọn tấm lòng thành kính hướng về Bác

KHỔ 2:

_ Với tấm lòng thành kính Viễn Phương tiếp tục suy tưởng khi đứng trước lăng Bác, ngợi ca công ơn của Người:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

_ Hình ảnh “mặt trời đi qua trên lăng” là mặt trời của thiên nhiên, nguồn ánh sáng rực rỡ, vĩnh viễn, bất tận trên thế gian này. Ánh sáng mặt trời đem lại sự sống cho con người và vạn vật

_ Từ hình ảnh thiên nhiên, tác giả đã liên tưởng và sáng tạo một hình ảnh ẩn dụ tinh tế, tài tình, độc đáo, “mặt trời trong lăng rất đỏ” để ca ngợi công ơn to lớn và sự cao cả, vĩ đại của Bác. Trong tâm hồn Bác ngời sáng một vầng hào quang rực rỡ như nguồn sáng của mặt trời đã đem lại sự sống cho con người, vạn vật. Đó cũng chính là vầng hào quang chói lọi của lí tưởng cách mạng mãi mãi soi sáng cho dân tộc Việt Nam vững bước trên con đường phía trước, con đường vươn tới một tương lai tốt đẹp – một đất nước Việt Nam giàu mạnh.

_ Trong trái tim của Bác còn tỏa sáng tình yêu thương nồng ấm, thiết tha đối với dân tộc và đất nước. Nhu nhà thơ Tố Hữu đã viết:

“Bác ơi! Tim Bác mênh mông thế

Ôm cả non sông mọi kiếp người”

_ Với niềm xúc động chân thành, Viễn Phương đã bày tỏ lòng yêu kính, biết ơn sâu sắc đối với Bác:

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân

_ Hình ảnh tiêu biểu, sinh động “dòng người đi trong thương nhớ” gợi lên trước mắt người đọc cảnh nhân dân từ mọi miền đất nước về thủ đô Hà Nội để viếng thăm lăng Bác.

_ Trong tình cảm nhớ thương, biết ơn Bác vô hạn, họ kết thành những “tràng hoa” đời tuyệt đẹp thành kính dâng lên Bác. Những tràng hoa tươi thắm ấy tượng trưng cho muôn triệu cuộc đời nở hoa dưới ánh sáng mặt trời rực rỡ của Bác. Cả dân tộc đời đời tưởng nhớ và ghi khắc trong lòng công ơn to lớn của Bác.

_ Với lòng biết ơn vô hạn, Viễn Phương đã sáng tạo hình ảnh ẩn dụ, giàu ý nghĩa tượng trưng “bảy mươi chín mùa xuân” để ca ngợi sự cống hiến, hi sinh cao cả của Bác Hồ kính yêu. Cuộc đời của Người là “bảy mươi chín mùa xuân” tươi đẹp, cống hiến trọn vẹn cho dân tộc, cho đất nước. Suốt hơn nữa thế kỉ, Bác đã chiến đấu, hy sinh để đem lại độc lập tự do cho dân tộc, đem lại cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Sự cống hiến của Bác thật cao cả, vĩ đại! Vì vậy Bác còn sống mãi trong niềm ngưỡng mộ, tôn kính của nhân dân.

KHỔ 3:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

_ Bác đang yên nghỉ giữa lòng quê hương, đất nước thân yêu. Tác giả đã chọn lọc một hình ành đặc sắc, sinh động, giàu sức gợi cảm “vầng trăng sáng dịu hiền” để ca ngợi tâm hồn trong sáng cao đẹp tuyệt vời của Bác. Trong cảm nhận của nhà thơ, Bác mãi mãi là một vầng trăng ngời ngời tỏa sáng tình yêu thương cho con người và cuộc đời.

_ Hình ảnh của Bác vừa vĩ đại, vừa bình dị và gần gũi.

_ Hình ảnh vầng trăng vĩnh hằng của trời đất, tượng trưng cho sự bất tử của Bác. Vị cha già kính yêu của dân tộc còn sống mãi cùng non sông, đất nước, sống mãi trong tâm trí mỗi người dân đất Việt.

_ Trong tình cảm của dân tộc thì Bác vẫn còn sống mãi nhưng trong thực tế, Bác đã vĩnh biệt chúng ta. Vì vậy, nhà thơ vô cùng đau đớn thương tiếc Bác:

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim.

Viễn Phương đã sáng tạo hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” rất tinh tế và giàu sức gợi cảm để ca ngợi sự bất tử của Bác. Bác đã đi xa nhưng sự nghiệp cách mạng cao cả của Người vẫn luôn tồn tại như bầu trời cao xanh kia. Hình ảnh Bác vẫn mãi soi sáng, sát cánh cùng non sông đất nước, trong tâm hồn dân tộc. Nhưng sự thật vẫn là sự thật, Bác đã ra đi, Viễn Phương nghe mà “nhói ở trong tim”. Hình ảnh “nghe nhói ở trong tim” đã diễn tả chân thực, giàu cảm xúc nỗi nghẹn ngào, tiếc thương, đau đớn của tác giả. Đó là nỗi đau của người con miền Nam bao năm mong ước được gặp Bác và cũng là nỗi đau chung của cả dân tộc. Bác ra đi là một mất mát lớn lao không gì bù đắp được. Dân tộc đã mất đii một vị lãnh tụ vĩ đại, một người cha già kính yêu. Cảm xúc ấy dường như đã len lỏi vào từng câu từng chữ, khiến người đọc cũng không khỏi nghẹn ngào.

KHỔ 4:

_ Khi tạm biệt Bác để trở về miền Nam , trong lòng nhà thơ dâng trào một nỗi buồn thương da diết:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Hình ảnh chứa chan cảm xúc “thương trào nước mắt” diễn tả cái cảm xúc đang dâng trào mãnh liệt trong lòng tác giả. Nhà thơ lưu luyến, nhớ thương, xúc động, nghẹn ngào, không muốn rời xa người cha già kính yêu

_ Với tất cả tấm lòng thành kính, biết ơn Bác, người con miền Nam đã bày tỏ ước nguyện tha thiết của mình:

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

_ Điệp ngữ “muốn làm” được đặt ở đầu 3 câu thơ liên tiếp nhau gắn liền với hình ảnh “con chim hót”, “đóa hoa tỏa hương” và “cây tre trung hiếu” thể hiện ước nguyện giản dị, chân thành và sâu sắc của nhà thơ. Trước anh linh của Bác, người con miền Nam xin hứa luôn giữ mãi phẩm chất cao đẹp, trong sáng, cốt cách của con người Việt Nam để mãi mãi xứng đáng là lớp cháu con của Bác.

_ Hình ảnh nhân hóa sinh động giàu sức biểu cảm “cây tre trung hiếu” gợi lên hình ảnh những người con trung kiên, hiếu nghĩa, một lòng vì nước vì dân. Tác giả nguyện sống xứng đáng là người con trung hiếu của dân tộc. Lời hứa đó thể hiện tình cảm thành kính thiêng liêng của người con miền Nam và của nhân dân cả nước thành tâm hướng về Bác vô hạn.

III/ KẾT BÀI:

_ Bài thơ giàu chất trữ tình đằm thắm, thiết tha. Với những hình ảnh ẩn dụ tinh tế, giàu tính thẩm mĩ và các biện pháp tu từ đặc sắc… đã thể hiện tình cảm chân thành, thiết tha, sâu sắc của nhà thơ và đồng bào miền Nam đối với Bác Hồ, vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc.

_ Bác tuy đã đi xa nhưng những phẩm chất cao đẹp, sự cống hiến to lớn, cao cả và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Bác sẽ luôn sống trong hàng triệu trái tim của những người con đất Việt.

_ Là những HS còn ngồi trong ghế nhà trường, là thế hệ tương lai tiếp bước cha ông, chúng em sẽ nguyện cố gắng thật nhiều, trong học tập lẫn rèn luyện đạo đức, để thực hiện được ước mong của Bác Hồ kính yêu:
 
Tiêu đề


TÌM HIỂU HÌNH TƯỢNG BÁC HỒ QUA BÀI THƠ VIẾNG LĂNG BÁC CỦA NHÀ THƠ VIỄN PHƯƠNG


Nguyễn Thị Xuân Đào


Bài làm:

Sinh thời, Bác Hồ luôn luôn nghĩ đến miền Nam, ngày đêm thương nhớ miền Nam. Với Bác, miền Nam là niềm vui, là hạnh phúc, là nỗi đau không lúc nào nguôi: “Miền Nam trong trái tim tôi”. Niềm mong mỏi thiết tha của Bác là miền Nam mau được giải phóng. Miền Nam cũng ngày đêm thương nhớ Bác, mong ngày giải phóng để được gặp Bác kính yêu. Nhưng tiếc thay, khi Bắc Nam sum họp một nhà thì Bác không còn nữa. Lòng thương nhớ, nỗi niềm đau đớn của đồng bào và chiến sĩ miền Nam dồn nén bao nhiêu năm đã được nhà thơ Viễn Phương thể hiện trong bài Viếng lăng Bác. Bài thơ không những chỉ thể hiện dòng cảm xúc trào dâng của nhà thơ mà còn thể hiện hình tượng lãnh tụ Hồ Chí Minh bằng những hình ảnh vừa quen thuộc, vừa giàu sức khái quát, vừa lung linh gợi cảm. Bằng cảm xúc chân thực và ngôn ngữ thơ gợi cảm, Viễn Phương đã nói hộ chúng ta một chân lý: Bác Hồ vĩ đại sống mãi trong lòng nhân dân ta.


Bài thơ ra đời năm 1976, khi lần đầu tiên sau giải phóng miền Nam, Viễn phương ra thăm Lăng Bác. Bài thơ rất ngắn gọn, súc tích nhưng có sức gợi tạo nên sự xúc động cho người đọc. Ngôn ngữ thơ tuôn trào theo theo dòng cảm xúc chân thành, tha thiết.


Mở đầu bài thơ, Viễn Phương đã bày tỏ ngay tình cảm sâu nặng, ruột thịt của mình bằng câu thơ giản dị: Con ở miềm Nam ra thăm lăng Bác.


Tình cảm giữa miền Nam và Bác Hồ luôn luôn là tình cảm ruột thịt “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà” (Tố Hữu) và tình cảm của miền Nam đối với Bác cũng là tình cảm nhớ mong da diết “Miền Nam mong Bác nỗi mong cha” (Tố Hữu). Tự đáy lòng của người con đến thăm cha, Viễn Phương nói với Bác: Con ở miền Nam…. Câu thơ giản dị nhưng bao hàm một ý nghĩa lớn. Trong tim Bác và trong tim miền Bắc, Miền Nam luôn luôn là nỗi đau chia cắt, nỗi nhớ thương, là niềm tự hào, là biểu tượng anh hùng, bất khuất, dũng cảm, kiên cường, là thành đồng Tổ Quốc… Giờ đây, nhà thơ mang theo cả niềm tự hào đó của đồng bào miền Nam để đến với Bác.


Hình ảnh đầu tiên trong lăng làm nhà thơ xúc động là hình ảnh hàng tre:


Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng


Hàng tre bát ngát cuốn hút cảm xúc của nhà thơ. Qua hình ảnh hàng tre quen thuộc tác giả gửi gắm một ý nghĩa tượng trưng nhằm ca ngợi Bác, ca ngợi dân tộc. Chắc rằng, cũng như mọi người Việt Nam, trong tâm khảm nhà thơ, cây tre là hình ảnh giản dị, thân thuộc, đời đời gắn bó với quê hương làng xóm. Hàng tre xanh xanh trong vườn Bác gợi cho người đọc nhiều liên tưởng. Hàng tre gợi hình ảnh mọi miền quê hương đất nước, nhất là hình ảnh miền Nam yêu thương. Tre kiên cường trong bão táp mưa sa như dân tộc ta vững vàng qua phong ba bão tố, như Bác Hồ suốt đời sống giản dị nhưng kiên cường tranh đấu vì độc lập tự do của dân tộc.


Hoà vào dòng người thăm lăng, nhà thơ tiếp tục dòng suy tưởng. Lời thơ bỗng dạt dào một cảm xúc tự hào, thành kính, thương nhớ Bác:


Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân


Ai đã từng một lần đi viếng lăng Bác mới hiểu hết hàm ý trong câu thơ của Viễn Phương. Ngày ngày, mặt trời - chúa tể của thiên nhiên - thán phục một mặt trời trong lăng rất đỏ. Mặt trời rất đỏ, hình ảnh tượng trưng cho Bác Hồ - là mặt trời cách mạng, là nguồn ánh sáng rực rỡ không bao giờ tắt, mãi mãi chiếu rọi con đường đi tới của dân tộc Việt Nam. Nhiều nhà thơ đã sử dụng hình ảnh mặt trời để thể hiện ánh sáng của lý tưởng cách mạng, nhưng đối sánh hai hình ảnh mặt trời của Viễn Phương quả là rất độc đáo. Đây là một sáng tạo nghệ thuật có tác dụng bộc lộ nội dung rất hiệu quả. Không nhiều lời, chỉ một hình ảnh mặt trời rất đỏ, nhà thơ đã khái quát được hình ảnh Bác Hồ vĩ đại. Nhà thơ đã nói hộ chúng rằng: Bác Hồ là mặt trời cách mạng đẹp nhất, rực rỡ nhất, chói lọi nhất luôn luôn toả sáng trong tâm hồn người Việt Nam.


Cùng với mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng là dòng người đi trong thương nhớ. Nhịp thơ chầm chậm như bước chân của dòng người lặng lẽ đi trong suy tưởng, bao trùm một một không khí thương nhớ Bác không nguôi, thành kính kết tràng hoa tình yêu dâng bảy mươi chín mùa xuân của Người. “Người ta là hoa của đất”, nhà thơ thật sâu sắc và tinh tế khi tôn quí nhân dân. Mỗi người dân là một bông hoa và dòng người đi trong thương nhớ chính là tràng hoa dâng lên Bác.


Ngày ngày… ngày ngày …, thời gian không ngừng trôi và lòng người Việt Nam không bao giờ nguôi tình cảm nhớ thương, yêu quí, kính trọng đối với Bác.


Đặc biệt xúc động là khi vào trong lăng, thấy Bác nằm nghỉ, nhà thơ sững sờ, nghẹn ngào, đau đớn:


Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền,
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi ,
Mà sao nghe nhói ở trong tim


Bác nằm đó như đang trong giấc ngủ bình yên sau bảy mươi chín mùa xuân không hề nghỉ. Từ ánh điện mờ ở trong lăng, nhà thơ liên tưởng đến một hình ảnh rất đẹp: vầng trăng sáng dịu hiền. Hình ảnh đó đã đưa người đọc vào một thế giới huyền diệu, trong sáng và thanh khiết; càng gợi ta nghĩ đến tình yêu thiên nhiên, yêu trăng nồng nàn của Bác. Vầng trăng kia đã bao lần sáng lên trong thơ Người. Cả khi trong ngục: “Người ngắm trăng soi qua cửa sổ, trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”. Cả những khi bận rộn việc nước việc quân, Bác vẫn thấy “trung thu trăng sáng như gương”, “rằm xuân lồng lộng trăng soi”, “trăng ngân đầy thuyền”, “trăng vào cửa sổ đòi thơ”, “trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa…” Giờ đây, Bác nằm đó, trong giấc ngủ bình yên, giữa vầng trăng sáng dịu hiền. Vẫn biết rằng Bác như trời xanh, mãi mãi sống trong sự nghiệp của chúng ta. Nhưng con tim nhà thơ đau đớn vô cùng khi đứng trước Người. Mà sao nghe nhói ở trong tim, chỉ một chữ nhói cũng đủ nói lên nỗi quặn đau, thương nhớ không gì bù đắp được vì mất Bác, vì nỗi thiếu vắng Bác.


Và nỗi đau không còn kìm ném được nữa, nó trào lên dữ dội khi nhà thơ chia tay với Bác:


Mai về miền Nam, thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng
Muốn làm bông hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.


Thương Bác, thương đến trào nước mắt, một tình cảm yêu quý mãnh liệt, trọn vẹn như tình cảm của người con đối với người cha ruột thịt. Nhà thơ chia tay Bác trong tiếng khóc nấc nở nghẹn ngào. Làm sao ngăn được dòng nước mắt thương nhớ Bác-một con người vừa vĩ đại, thanh cao, vừa gần gũi thân thiết với chúng ta, một con người suốt đời hy sinh, cống hiến cho dân tộc nay vĩnh viễn nằm lại trong lăng? Nhà thơ lưu lưyến không muốn rời xa Bác, chỉ ước muốn biến thành con chim, bông hoa, cây tre, góp tiếng hót, làn hương quanh nơi Bác nghỉ cho trọn niềm trung hiếu với Người. Đoạn thơ dạt dào tình cảm, nhịp điệu thiết tha, cùng với hình ảnh cây tre trung hiếu một lần nữa truyền đến người đọc sự xúc động nghẹn ngào.


Bài thơ ngắn, nhưng tác giả đã thành công khi sử dụng hàng loạt hình ảnh ẩn dụ mang tính tượng trưng sâu sắc. Các hình ảnh hàng tre xanh xanh, giữa bão táp mưa sa, đến các hình ảnh mặt trời rất đỏ, tràng hoa, bảy mươi chín mùa xuân, vầng trăng sáng dịu hiền, trời xanh là mãi mãi đã gợi cho người đọc thấy trọn vẹn hình tượng Bác Hồ gần gũi, cao quý, thanh khiết, vĩ đại biết bao. Ngoài ra, nó còn gợi đến hình ảnh quê hương, đất nước, nhân dân. Nhà thơ đã có nhiều dụng ý khi sử dụng các hình ảnh rất đẹp, rất lớn lao của vũ trụ: mặt trời, vầng trăng, trời xanh. Những hình ảnh đó tượng trưng cho cái vĩ đại, lớn lao của Bác Hồ. Bác như vầng mặt trời rực rỡ, như vầng trăng sáng dịu hiền, như bầu trời xanh. Ở Bác toả ra ánh sáng của trí tuệ thiên tài và lấp lánh ánh sáng của một tâm hồn cao đẹp. Còn hình ảnh hàng tre xanh xanh lại tượng trưng cho cái bình dị, gần gũi của Người. Và hơn thế nữa, tất cả các hình ảnh ấy đều gợi cho ta thấy sự bất tử của Bác Hồ. Người sống mãi trong lòng nhân dân ta, trong sự nghiệp của chúng ta. Mãi mãi là vị cha già thân thiết, yêu quý của chúng ta.


Viếng lăng Bác không những là tiếng khóc đau đớn, nghẹn ngào trước sự ra đi của Bác, là lòng thương nhớ không nguôi, lòng kính phục vô hạn của nhà thơ Viễn Phương và của nhân dân ta đối với Bác Hồ mà bài thơ còn diễn tả thành công hình tượng Bác Hồ vĩ đại bằng những hình ảnh đẹp, nhịp điệu tha thiết, cảm xúc nồng nàn chân thực. Âm hưởng của bài thơ ngân vang mãi trong lòng người đọc. Bài thơ được phổ nhạc càng trở nên truyền cảm sâu xa, làm xúc động hàng triệu trái tim Việt Nam từ 1976 đến nay.
 
Viếng lăng Bác - Viễn Phương.

[FONT=&quot]VIẾNG LĂNG BÁC[/FONT]​

[FONT=&quot]I.Tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm[/FONT]
[FONT=&quot]1.Tác giả[/FONT]

[FONT=&quot] - Viễn Phương tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, sinh năm 198, quê ở tỉnh An Giang, tham gia cách mạng từ năm 1915. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, ông hoạt động ở Nam Bộ, là một trong những cây bút có công xây dựng nền văn học cách mạng miền Nam từ những ngày đầu.[/FONT]

[FONT=&quot] - Thơ Viễn Phương thường nhỏ nhẹ, giàu tình cảm và chất mơ mộng ngay trong hoàn cảnh chiến đấu ác liệt của chiến trường.[/FONT]

[FONT=&quot]2.Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm:
Năm 1976 sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa khánh thành, Viễn Phương ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác. Bài thơ Viếng lăng Bác được sáng tác trong dịp đó và in trong tập thơ Như mây mùa xuân ( 1978 )
[/FONT]

[FONT=&quot]II.Phân tích bài thơ[/FONT]

[FONT=&quot]1.Cảm hứng bao trùm bài thơ và mạch vận động của tâm trạng nhà thơ[/FONT]

[FONT=&quot] - Cảm hứng bao trùm trong bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi đau xót khi tác giả từ miền Nam ra viếng lăng Bác. Cảm hứng ấy đã chi phối giọng điệu của bài thơ. Đó là giọng thành kính, trang nghiêm phù hợp với không khí thiêng liêng ở lăng, nơi vị lãnh tụ yên nghỉ. Cùng với giọng suy tư, trầm lắng là nỗi đau xót lẫn niềm tự hào.[/FONT]

[FONT=&quot] - Mạch vận động của cảm xúc đi theo trình tự cuộc vào lăng viếng Bác. Mở đầu là cảm xúc về cảnh bên ngoài lăng, tập trung ở ấn tượng đậm nét là hình ảnh hàng tre bên lăng gợi hình ảnh về quê hương đất nước. Tiếp đó là xúc cảm trước hình ảnh dòng người như bất tận ngày ngày vào lăng viếng Bác. Xúc cảm và suy ngẫm về Bác được gợi lên từ những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng: mặt trời, vầng trăng, trời xanh. Cuối cùng là niềm mong ước thiết tha khi sắp phải trở về quê hương miền Nam, muốn tấm lòng mình vẫ được mãi mãi bên Người.[/FONT]

[FONT=&quot]2.Tâm trạng và cảm xúc của nhà thơ[/FONT]


[FONT=&quot]a.Khổ thơ đầu: Hình ảnh đầu tiên quanh lăng Bác là hàng tre[/FONT]
[FONT=&quot]
- Câu thơ “ Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” chỉ gọn như một thông báo, nhưng lại gợi ra tâm trạng xúc động của một người từ chiến trường miền Nam sau bao năm mong mỏi bây giờ mới được ra viếng Bác.
[/FONT]

[FONT=&quot] - Hình ảnh đầu tiên mà tác giả thấy được và là ấn tượng đậm nét về cảnh quan bên lăng Bác là hàng tre. Thì ra đến đây, nhà thơ gặp lại một hình ảnh hết sức thân thuộc của làng quê, của đất nước Việt Nam, đã thành một biểu tượng của dân tộc ( Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng ). [/FONT]

[FONT=&quot]b.Khổ thơ thứ hai được tạo nên từ hai cặp câu với những hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ sóng đôi:[/FONT]

[FONT=&quot]Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng[/FONT]
[FONT=&quot]Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ[/FONT]

[FONT=&quot] - Câu thơ trên là một hình ảnh thực, câu dưới là một hình ảnh ẩn dụ vừa nói lên sự vĩ đại của Bác Hồ ( như mặt trời) vừa thể hiện sự tôn kính của nhân dân, của nhà thơ đối với Bác.[/FONT]

[FONT=&quot] - “ Dòng người đi trong thương nhớ” là hình ảnh thực, còn câu sau: “ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân” là mộ ẩn dụ đẹp và rất sáng tạo của nhà thơ thể hiện tấm lòng thành kính của nhân dân ta đối với Bác.[/FONT]

[FONT=&quot]c.Khổ thơ thứ ba, nhà thơ diễn tả cảm xúc của mình khi đã vào trong lăng:[/FONT]

[FONT=&quot]Bác nằm trong giấc ngủ bình yên[/FONT]
[FONT=&quot]…[/FONT]
[FONT=&quot]Mà sao nghe nhói ở trong tim[/FONT]

[FONT=&quot] - Khổ thơ gồm bốn câu bảy chữ cân đối, trang nghiêm, phù hợp với không khí thiêng liêng và thanh tĩnh ở trong lăng. Không gian và thời gian như ngưng đọng trước một hình ảnh có tính vĩnh hằng. Nhà thơ cảm nhận như Bác chỉ đang ngủ một “ giấc ngủ bình yên”. Đó cũng là ấn tượng thực của mọi người khi được vào lăng thăm Bác. Hình ảnh “ vầng trăng” là một liên tưởng độc đáo, bất ngờ của nhà thơ. Có thể liên tưởng ấy bắt đầu từ ánh sáng rất dịu nhẹ, trong trẻo của không gian trong lăng. Khi đã xuất hiện thành hình ảnh thơ “ vầng trăng sáng dịu hiền” gợi nghĩ đến tâm hồn cao đẹp, sáng trong và những vần thơ tràn đầy ánh trăng của Người.[/FONT]

[FONT=&quot] - Từ hình ảnh “ vầng trăng” nhà thơ tiếp tục liên tưởng đến hình ảnh “ trời xanh”. Bầu trời xanh là hình ảnh thiên nhiên lớn lao, vĩnh hằng. Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết: “ Bác sống như trời đất của ta”. Bác ra đi nhưng vẫn sống mãi với non sông đất nước, như trời xanh còn mãi. Dù vẫn tin như thế nhưng không thể không đau xót vì sự ra đi của người: “ Mà sao nghe nhói ở trong tim”. Câu thơ biểu hiện cụ thể trực tiếp và trực tiếp nỗi đau xót trong hình thức của một câu hỏi tu từ.[/FONT]

[FONT=&quot]d.Khổ cuối nhà thơ bày tỏ tâm trạng lưu luyến khi sắp phải trở về miền Nam[/FONT]

[FONT=&quot]Mai về miền Nam thương trào nước mắt[/FONT]
[FONT=&quot]…[/FONT]
[FONT=&quot]Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này[/FONT]

[FONT=&quot] - Mai về miền Nam, nhớ thương Bác đến trào nước mắt. Câu thơ có cách diễn đạt chân thành mộc mạc kiểu Nam Bộ. Ba câu thơ cuối bắt đầu bằng điệp ngữ “ muốn làm” bày tỏ niềm mong mỏi. Tấm lòng lưu luyến của nhà thơ gửi vào trong niềm mong ước thiết tha muốn hóa thân vào những cảnh vật bên lăng Bác: muốn làm con chim hót, muốn làm bông hoa tỏa hương, và hơn hết là muốn làm cây tre trung hiếu nhập vào hàng tre bát ngát quanh lăng Bác.[/FONT]

[FONT=&quot] - Hình ảnh hàng tre bên lăng Bác được lặp lại ở câu thơ cuối bài, với một nét nghĩa bổ sung: cây tre trung hiếu. Sự lặp lại như thế đã tạo cho bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng, làm đậm nét hình ảnh gây ấn tượng sâu sắc và dòng cảm xúc được trọn vẹn.[/FONT]

[FONT=&quot]3.Bài thơ có một giọng điệu vừa trang nghiêm, vừa tha thiết, đau xót tự hào, thể hiện đúng tâm trạng xúc động khi vào lăng viếng Bác. Giọng điệu ấy được tạo nên bởi nhiều yếu tố: thể thơ, nhịp điệu của các câu thơ, từ ngữ và hình ảnh.[/FONT]

[FONT=&quot] - Thể thơ và nhịp điệu: thể thơ tám chữ, nhưng có những dòng thơ 7 hoặc 8 chữ. Cách gieo vần trong từng khổ thơ cũng không cố định, có khi liền, có khi cách. Nhịp của các khổ thơ nhìn chung là nhịp chậm, diễn tả sự trang nghiêm, thành kính, lắng đọng trong tâm trạng nhà thơ. Riêng khổ cuối nhịp thơ nhanh hơn, với điệp từ “ muốn làm” được lặp lại ba lần, thể hiện mong ước tha thiết và nỗi lưu luyến của tác giả.[/FONT]

[FONT=&quot] - Hình ảnh thơ trong bài có nhiều sáng tạo, kết hợp cả hình ảnh thực, hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Đặc sắc nhất là hình ảnh ẩn dụ-biểu tượng ( mặt trời trong lăng, tràng hoa, trời xanh, vầng trăng ) vừa quen thuộc gần gũi với hình ảnh thực, lại vừa sâu sắc, có ý nghĩa khái quát và giá trị biểu cảm.[/FONT]


Nguồn: Sưu tầm
 

Suy nghĩ của em về bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương.
“Bác ơi tim Bác mênh mông quá
Ôm cả non sông trọn kiếp người.”


Không có ngôn ngữ nào có thể diễn tả hết được tình cảm của Bác dành cho dân tộc Việt Nam. Chính vì lẽ ấy, khi Người ra đi để lại tiếc nuối nhớ thương cho đồng bào cả nước. Đã biết bao nhà thơ, nhạc sĩ đã thể hiện tình cảm thiêng liêng, thành kính sâu sắc dâng lên Người. Trong đó có người con miền Nam_Viễn Phương được niềm vinh dự ra thủ đô HN viếng lăng bác. Và trong cuộc viếng thăm này, ông đã bày tỏ tình cảm dâng lên Người qua bài thơ:
Viếng Lăng Bác

“Con ở miền nam ra thăm lăng Bác
……………
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”


Đó là những dòng cảm xúc tự hào về dân tộc là những dòng tình cảm chân thành thiết tha của con người VN dâng kính lên Người qua lời thơ dung dị, hàm xúc mà ý nghĩa khái quát biểu cảm.

Đến với những dòng thơ của VPhương, người đọc sẽ thực sự thấu hiểu rằng:

“Vì sao trái đất nặng ân tình
Nhắc mãi tên người Hồ Chí Minh”


Dù rằng Bác của chúng ta đã ra đi nhưng Bác sẽ sống mãi trong lòng dân tộc qua muôn thế hệ với những bài thơ vượt thời gian, không gian tồn tại muôn đời. Đó là tình cảm dân tộc luôn hiện hữu trong tiềm thức của mỗi người về Bác, với tình yêu thương, sự hy sinh vĩ đại của Người. Tình cảm của dân tộc, VPhương không chỉ đơn thuần là tình cảm của nhân dân dành cho vị lãnh tụ mà là tình cảm thiêng liêng bất diệt: tình cha con sậu đậm qua những dòng thơ ân tình:

“Con ở miềm Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát”


Tiếng “con” của VPhương mang sắc thái thân thương rất Nam Bộ mang niềm xúc động thành kính, vì đó là nơi xa xôi, nơi mà Người luôn ấp ủ trong tim “miền Nam trong trái tim tôi” với nỗi nhớ:

“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha.”


Chỉ có tình cảm cha con mới có những dòng thơ như thế. Không chỉ VPhương, nhân dân miền Nam mà cả dân tộc đã từ rất lâu trong tiềm thức mỗi người Bác là cha như nhà thơ Tố Hữu đã từng khẳng định:

“Nơi đây sống một người cha tóc bạc
Người không con mà có triệu con
Nhân dân gọi Người là Bác
Cả đời Người là của nước non.”


Bác chính là người cha vĩ đại của dân tộc, người cha đã đem ánh sáng vinh quang độc lâp, đem lại hạnh phúc cho cuộc đời mỗi chúng ta. Người cha ấy đã khai sinh ra đất nước VN, thử hỏi nơi đâu không có tình yêu thương của Người? Chính vì thế đã có biết bao nhà thơ thay mặt nhân dân cả nước bày tỏ tình cảm của người con:

“Chiều nay con chạy về bên Bác
Ướt lạnh vườn rau mấy góc dừa”


Tình cha con thật sâu đậm! cho nên VPhương không “viếng” mà “ra thăm lăng lăng Bác”. Con về thăm cha, thăm nơi Bác ở, thăm chỗ Bác nằm. Chỉ có tình cha con mới nồng hậu như vậy.

Trong tình cảm cha con thiết tha ấy, còn là niềm xúc động ngẹn ngào qua đôi mắt nhòa lệ:

“Đã thấy trong sương hang tre bát ngát”


Đã biết bao nỗi mong đợi ngày hội ngộ của những đứa con miền Nam cho nên những giây phút gần đế lăng, gần được gặp Người thử hỏi ai không xúc đông? Những giọt nước mắt của nỗi niềm thương nhớ khôn nguôi đặc biệt là nhân dân miền Nam, VPhương. Nỗi niềm xúc động ấy thể hiên nhất là lúc Bác ra đi:

“Suốt mấy đêm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa.”


Với thời gian những tưởng con người có thể quên đi tất cả. Nhưng không! nhân dân vẫn luôn sống trong tình thương, nỗi nhớ:

“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”


Đòan người viếng lăng Bác như những “tràng hoa”, 1 hình ảnh ẩn dụ vừa đẹp, vừa sâu sắc: cuộc đời của mỗi người như nở hoa dưới ánh sáng của Người. Chính Bác đã đem lại mùa xuân cho đất nước, cho dân tộc. “Bảy mươi chín mùa xuân” ngợi ca Người cũng xuất phát từ tình cảm yêu thương, kính trọng và lòng cảm phục của thi nhân.

Tình cảm đối với Bác còn được thể hiện qua niềm tôn kính tột bậc, niềm ngợi ca tôn thờ của VPhương nói riêng và của nhân dân nói chung qua những dòng thơ:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”


Bác là mặt trời trong lăng rất đỏ, 1 mặt trời cao siêu, vĩ đại, mặt trời ấy đã xua tan cảnh đời tâm tối đem lại độc lập_tự do hạnh phúc cho dân tộc. Đó là mặt trời cách mạng. Mặt trời thiên nhiên còn thất hơn, không có mặt trời nào có thể sánh được. Trong suy nghĩ của VPhương, của dân tộc Bác còn là “vầng trăng” , “trời xanh” dịu hiền bất tận, vĩnh hằng trong cuộc đời mỗi con người, trong mọi thế hệ, mọi thời đại. Với bút pháp tu từ ẩn dụ hết sức độc đáo, gợi cảm, VPhương diễn tả tình cảm của dân tộc dành cho Bác là sự tôn thờ tột bậc không gì sánh được.

Lời thơ như 1 sự khẳng định sức song bất diệt của Bác sẽ trường tồn vĩnh hằng trong tiềm thức con người VN. “Dù cho vật đổi sao dời”. Lí trí thật rạch ròi sang suốt nhưng con tim thì lại đau nhói, xót xa, tê tái:

“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”


Càng yên thương kính trọng bao nhiêu thì con tim càng đau nhói bấy nhiêu! Đó chính là sự rung cảm chân thành nhất của VPhương. Không chỉ ca ngợi, kính trọng, cảm phục mà bao hàm cả long biết ơn, lòng ước nguyện đền đáp trước tình yêu của Người dành cho dân tộc:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này!”


Lời thơ thật giản dị nhưng đó là tình yêu thương sâu lắng của thi nhân. Với bút pháp nghệ thuật điệp ngữ “muốn làm” như 1 sự khẳng định tự nguyện: muốn làm con chim để ru Người giấc ngủ ngàn thu, muốn làm đóa hoa để tỏa hương dâng Người, muốn làm cây tre trung hiếu bảo vệ Người giấc ngủ bình yên. Dân tộc sẽ phát huy, gìn giữ sự nghiệp cách mạng mà Bác đã tạo dựng. Dân tộc VN sẽ sống xứng đáng với sự hy sinh của Người.
Cảm xúc chủ đạo bao trùm bài thơ là tình cảm dành cho Bác nhưng trong cảm xúc ấy, người đọc còn cảm nhận được cảm xúc tự hào, kiêu hãnh của nhà thơ về con người VN, dân tộc VN:

“Ôi hàng tre xanh xanh VN
Bão táp mưa sa đứng thẳng hang”


Hình ảnh làng tre biểu hiện cho sức sống mãnh liệt của dân tộc được thể hiện qua dòng suy tưởng của tác giả. Với bút pháp nhân hóa, cách dùng tính từ gợi tả “xanh xanh, thẳng hàng” vừa cụ thể vừa tượng trưng. Hàng tre tương tốt trải dài mênh mông, thẳng hang ẩn mình trong sương sớm. Tre vượt qua thử thách của mưa sa vẫn đứng thẳng hang đó chính là tính cách, phẩm chất của con người VN: dẻo dai, cứng cáp, bất khuất, kiên cường,… Nhà thơ khẳng định sức sống của dân tộc và bất diệt cũng như tình cảm của dân tộc đối với Bác là trường tồn. Bằng nghệ thuật trữ tình tha thiết, ngôn ngữ thơ cô đọng, dung dị, hàm xúc, VPhương 1 lần nữa đã khẳng định tình cảm dân tộc đối với Bác.

Khép trang tác phẩm lại mà âm điệu của bài thơ vẫn đọng lại trong chúng ta âm hưởng ngọt ngào, thiết tha về tình yêu thương của VPhương, của dân tộc đối với Bác. Đồng hành với âm điệu ấy còn là hình ảnh về Bác Hồ kính kêu, về dân tộc VN trong âm khảm người đọc qua cách sử dụng điêu luyên các biên pháp tu từ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc. dù Bác đã ra đi mãi mãi nhưng tình yêu của Người sẽ sống ãi mãi với chúng ta qua mọi thời đại. Trước tình yêu thương của Người, thanh niên học sinh chúng ta phải xác định cho mình 1 con đường đúng đắn sống xứng đáng với sự hy sinh của Người.

GV văn: Đặng Thị Hồng TRang. (THCS Tăng Nhơn Phú B_quận 9)

View attachment 4517
 
Đề bài: Bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương thể hiện niềm xúc động thiêng liêng, tấm lòng thiết tha, thành kính của tác giả từ miền Nam vừa được giải phóng ra viếng Bác. Em hãy làm rã điều đó.

Gợi ý


a.
Mở bài

- Tình cảm với Bác dành cho miền Nam thật sự sâu nặng và miền Nam đối với Bác cũng thế.

- Nhà thơ Viễn Phương, một người con của miền Nam đã thể hiện niềm xúc động thiêng liêng, tấm lòng thiết tha, thành kính khi vừa từ miền Nam vừa được giải phóng ra viếng lăng Bác qua bài thơ Viếng lăng Bác.

b.
Thân bài

Niềm xúc động của nhà thơ khi đến lăng Bác.


- Hình ảnh hàng tre bên lăng Bác gợi liên tưởng đến “Hàng tre xanh xanh Việt Nam”, đến tình đoàn kết của nhân dân
vượt qua gian khó.


- Hình ảnh mặt trời gợi đến hình ảnh Bác “Mặt trời trong lăng rất đỏ”, đến công lao sức sống của Bác đối với đất nước và sự trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh.

- Hình ảnh đoàn người vào lăng viếng Bác gợi liên tưởng đến hình ảnh “kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân” là tình cảm của nhân dân đối với Bác.

Niềm xúc động thành kính thiêng liêng của nhà thơ khi vào lăng viếng Bác.


- Cảm nhận Bác đang trong “giấc ngủ bình yên” thanh thản giữa “vầng trăng sáng dịu hiền” giữa thiên nhiên trong trẻo. Đó là cảm xúc Bác còn sống mãi.

- Giữa lí trí và tình cảm, giữa niềm tin và thực tại có sự khác biệt: tin Bác còn sống mãi nhưng không tránh khỏi nỗi đau mất Bác, không được gặp Người nên nhà thơ “đau nhói ở trong tim” – nỗi đau chan chứa tình yêu thương.
Đó là tình cảm của nhân dân đối với Bác, đối với lãnh tụ.

Nguyện ước thiêng liêng với Bác.


- Nhà thơ giãi bày nỗi nhớ thương khi phải về miền Nam, xa Bác.

- Từ đó mong muốn được hóa thân thành bông hoa tỏa hương, con chim hót bên lăng Bác. Đặc biệt muốn trở thành “cây tre trung hiếu” trong “hàng tre xanh xanh Việt Nam”. Nghĩa là sống đẹp, sống trung thành với lí tưởng của Bác.

c.
Kết bài

- Tình cảm với Bác được nhà thơ thể hiện hết sức chân thành tha thiết.
- Tình cảm ấy trở thành lẽ sống của cuộc đời nhà thơ nói riêng, nhân dân miền Nam nói chung.
 

VnKienthuc lúc này

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top