• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Bá tước Dracula ( Truyện kinh dị ) - Bram Stoker

Chương 13

Nhật ký của bác sĩ Seward


Chúng tôi quyết định hai ngày nữa sẽ tổ chức tang lễ cho cả Lucy và mẹ cô. Tôi bận lo mọi thủ tục giấy tờ. Các nhân viên nhà tang lễ có vẻ rất phục tùng ông chủ của họ, ngay cả bà già lắm lời chuyên làm công việc tắm rửa cho người quá cố cũng rất nhiệt tình với nhà đám. Khi bước ra khỏi phòng Lucy, bà ta còn tâm tình với tôi bằng một giọng rất nghề nghiệp :
- Ông thấy không, cô bé chết rất đẹp ma, được chăm lo cho cô ấv lúc này quả là một ưu tiên đối với chúng tôi. Nếu có nói cô ấy sẽ mang lại vinh hạnh cho công ty chúng tôi thì cũng chẳng phải là quá lời!
Trong suốt thời gian tôi bận công việc, Van Helsing không hề bước chân ra khỏi cửa. Chúng tôi không ai biết bà con họ hàng của người quá cố. Đã thế, ngày mai, Arthur lại phải về nhà để lo tang lễ cho người cha xấu số, vì vậy tôi và Van Helsing phải đứng ra lo mọi công việc tang gia và kiểm tra lại toàn bộ số giấy tờ có trong nhà. Giáo sư đặc biệt quan tâm đến số giấy tờ của Lucy. Không hiểu tại sao ông lại làm như vậy, bởi vì là một người nước ngoài, chắc gì ông đã hiểu hết các chi tiết của pháp luật hoàng gia Anh và cha biết chừng sự bỡ ngỡ của ông còn khiến chúng tôi rơi vào khó khăn trước các nhà chức trách địa phương nữa ấy chứ.
- Anh đã quên mất rằng - Ông đáp lại sự nghi ngờ của tôi - tôi làm tiến sĩ luật cũng tốt như làm bác sĩ. Mấy hôm trước, anh hoàn toàn đúng khí nói chúng ta cần phải tránh những cuộc điều tra phiền toái không cần thiết! Hơn nữa, vấn đề không chỉ dừng lại ở luật pháp, mà còn mở rộng sang cả khía cạnh khác. Biết đâu chúng ta lại chẳng tìm ra các giấy tờ... Chẳng hạn như...
Vừa nói ông vừa lôi trong sổ tay ra mấy tờ giấy mà Lucy luôn giữ bên mình, đó chính là mấy tờ giấy mà cô đã xé tan tành trong giấc ngủ mê mệt.
- Nếu tìm được viên công chứng nhà bà Westenra, anh cứ điền đầy đủ và gửi cho ông ta toàn bộ số giấy tờ có liên quan đi Về phần mình, tôi sẽ qua đêm ở đây hoặc ở trong căn phòng cũ của Lucy. Tôi định tìm hiểu thêm một vài vấn đề nữa.
Vậy là tôi lại phải tất tả chạy đi hoàn thành phần việc mà giáo sư đã giao cho. Nửa giờ sau tôi mới tìm ra danh tính và địa chỉ của viên công chứng nhà Westenra. Toàn bộ số giấy tờ của người phụ nữ đáng thương đã được chuẩn bị đầy đủ, đặc biệt là ý nguyện về nghi lễ tổ chức đám tang của bà cũng đã được thảo đâu ra đấy. Lúc tôi sắp xếp lại các giấy tờ cũng là lúc giáo sư Van Helsing bước vào phòng. Câu hỏi của ông làm tôi ngạc nhiên :
- Tôi giúp anh được chứ, anh bạn John? Tôi chẳng còn biết làm gì cả. Nếu có việc gì, anh cứ bảo tôi giúp một tay.
- Nhưng giáo sư đã tìm thấy gì mới chưa?
- Chẳng tìm thấy cái gì quan trọng cả. Tôi hy vọng là mình sẽ tìm ra một điều gì đó mới mẻ, nhưng rất cuộc vẫn chỉ là vài lá thư và một đoạn nhật ký. Tôi đã cầm cả dây rồi, nhưng tạm thời cứ để nguyên đấy đã. Chiều tối mai, tôi sẽ gặp anh chàng tội nghiệp ấy và nếu được phép, chúng ta sẽ sử dụng số giấy tờ đó.
- Anh bạn John ạ, - Giáo sư tiếp tục giãi bày sau một thoáng trầm ngâm - có lẽ bây giờ chúng ta có thể đi ngủ được rồi đấy. Tôi và anh cần phải đặt lưng ngủ một chút. Ngày mai sẽ có rất nhiều việc phải làm, còn tối nay, như thế là đủ rồi!
Tuy nhiên, trước khi đi ngủ, chúng tôi vẫn không quên ngó qua căn phòng cô bé Lucy đang yên nghỉ. Căn phòng đã được nhân viên nhà tang lễ biến thành một nhà thờ nhỏ đặt đầy những tràng hoa trắng. Không khí trong phòng có vẻ đỡ nặng nề và lạnh lẽo hơn. Khuôn mặt Lucy được phủ kín. bằng một mảnh vải lanh trắng. Chẳng hiểu sao giáo sư Van Helsing lại nhấc mảnh khăn ấy lên. Chúng tôi không khỏi bất ngờ khi nhìn thấy khuôn mặt người chết rạng rỡ hẳn lên dưới ánh sáng lung linh của những ngọn nến. Trong cái chết, Lucy bỗng trở lại với vẻ đẹp nguyên sơ từng có trước cái ngày cô lâm vào căn bệnh khó hiểu. Hàng giờ trôi qua kể từ khi cô trút hơi thở cuối cùng dường như chỉ càng làm cho cô trở về với vẻ đẹp của những ngày cô còn sống. Trông cô đẹp đến nỗi tôi không khỏi nghi ngờ là mình đang đứng trước một kẻ đã chết.
Trông giáo sư có vẻ suy nghĩ ngợi nghiêm trọng lắm. Ông không yêu cô gái như tôi đã từng yêu, và khóe mắt ông cũng chẳng ngấn đầy những giọt lệ như tôi.
- Cứ đợi tôi ở đây, - Ông bảo tôi - đừng có ra khỏi phòng đấy nghe chưa.
Lát sau, ông trở lại với một mớ hoa tỏi trên tay. Đó là những nhánh hoa tỏi ông đã cất vào trong một cái hòm sắt đặt ngoài hành lang. Ông khẽ cắm kèm từng bông vào giữa những bông hoa trắng đặt khắp phòng, nhất là ở xung quanh giường nằm của Lucy. Rồi ông nhấc cây thánh giá nhỏ bằng vàng nằm lấp dưới cổ áo cô đặt lên môi cô và nhẹ nhàng che lại tấm khăn trên mặt cô. Chúng tôi lặng lẽ bước ra ngoài.
Về phòng, tôi chưa kịp thay quần áo thì đã thấy Van Helsing đập cửa bước vào, ông bảo tôi :
- Chiều tối mai, tôi muốn anh mang cho mượn mấy dụng cụ mổ xác.
- Cái gì? Chúng ta phải mổ xác sao?
- Đúng và cũng không hẳn là như vậy. Đúng là tôi định làm phẫu thuật, nhưng không phải theo cách mà anh vẫn nghĩ đâu. Cứ để tôi giải thích, chỉ có điều anh phải tuyệt đối giữ bí mật, anh hiểu ý tôi rồi chứ? Tôi e rằng có lẽ chúng ta phải cắt đầu và thậm chí phải lấy trái tim cô ấy ra đấy. Sao? Anh không bị sốc đấy chứ, nhà phẫu thuật trẻ? Tôi đã chẳng thấy anh mấy lần phẫu thuật tim cho các bệnh nhân trong tình trạng chỉ mành treo chuông đó là gì? Phải can đảm lên, anh bạn John ạ? À, phải rồi! Thứ lỗi cho tôi nhé? Lẽ ra tôi không được quên là anh cũng yêu cô bé! Vậy thì tự tay tôi sẽ làm phẫu thuật, và anh chỉ phải hỗ trợ cho tôi thôi. Tôi định làm ngay tối nay, nhưng rõ ràng là không thể dược, bởi vì Athur vẫn còn có mặt ở đây. Tất nhiên là ngày mai, khi chôn cất cho cha xong, thế nào anh ta cũng sẽ quay trở lại để được thấy người yêu mình một lẩn nữa. Nhưng khi quan tài đã được đóng nắp và đợi mọi người đi ngủ cả rồi, tôi và anh sẽ quay lại mở mở quan tài để tiến hành phẫu thuật. Sau đó, chúng ta sẽ làm lại như cũ, miễn là đừng để ai nhìn thấy.
- Nhưng xin hỏi thật, chúng ta phẫu thuật để làm gì chứ? Cô bé tội nghiệp đã chết rồi, tại sao lại phải mổ xác một cách vô cớ như vậy? Có phẫu thuật cũng chỉ là vô ích nếu như nó chẳng mang lại một điều gì thiết thực cho người đã khuất, cho chúng ta, cho khoa học hay thậm chí là cho tri thức của loài người. Vậy thì mổ xẻ để giải quyết vấn đề gì kia chứ? Làm thế thì nhẫn tâm quá!
Giáo sư khẽ vỗ vai tôi và trả lời bằng một giọng chỉ vừa đủ nghe :
- Anh bạn thân mến ạ, tôi rất hiểu nỗi phiền muộn trong lòng anh và cũng rất thông cảm với anh. Tôi biết làm vậy sẽ khiến nỗi đau của anh càng sâu sắc thêm gấp bội phần. Tôi cũng đau lắm chứ. Nhưng còn nhiều điều anh chưa biết đâu, rồi anh sẽ sớm nhận ra những gì tôi chưa muốn nói, cho dù đó toàn là những đlều chẳng vui vẻ gì. John ạ, đã nhiều năm trôi qua kể từ khi anh trở thành một người bạn thân thiết của tôi, vậy đã bao giờ anh thấy tôi làm bừa một việc gì đó mà không có mục đích thiết thực chưa? Tôi có thể nhầm lẫn, bởi nói cho cùng tôi cũng chỉ là một con người, nhưng tôi luôn tin ở những gì mình làm. Chẳng phải vì thế mà anh đã mời tôi đến đây đó ? Phải chứ! Và cũng chẳng phải là anh đã không ngạc nhiên hay nói đúng hơn là anh đã không bị sốc khi thấy tôi ngăn cản Athur ôm hôn người vợ chưa cưới của anh ta khi cô ấy sắp chết và lôi xềnh xệch anh ta ra xa cái giường đó ư? Phải! Nhưng anh cũng đã được thấy cô bé cám ơn tôi bằng một giọng nói yếu ớt và bằng cả đôi mắt tuyệt đẹp sắp vĩnh viễn khép lại, trong khi đôi môi cứ hôn mãi lên bàn tay già nua của tôi rồi phải không? Phải! Không phải là anh đã nghe thấy tôi thề sẽ làm theo đúng với những gì cô yêu cầu đó ư? Phải! Bởi thế nên bây giờ tôi đã có đủ lý do chính đáng để làm theo những gì tôi muốn. Vả lại, anh đã tỏ ra rất tin tưởng ở tôi trong ngần ấy năm rồi kia mà, anh cũng rất tin ở tôi trong suất những tuần đầy những chuyện kỳ quái vừa qua. Hãy tin tôi thêm một thời gian nữa đi, anh bạn John thân mến ạ. Nếu anh không chịu, tôi buộc phải nói ra tất cả những nghi ngờ của mình ngay bây giờ, chỉ có điều đó toàn là những lời anh không muốn thôi. Hơn nữa, nếu bắt tay vào việc mà không có sự tin tưởng trọn vẹn của anh bạn, xin lưu ý là dù anh có tin hay không thì tôi vẫn phải kiểm nghiệm xem mình đúng hay sai chắc chắn tôi sẽ phải tiến hành công việc trong một tâm trạng nặng nề và không thể tránh khỏi cảm giác đơn độc. Bởi vậy, tôi rất cần sự sự giúp đỡ tận tình và lòng can đảm của anh!
Ồng trầm ngâm một lát rồi nói tiếp :
- Hãy tin ở tôi đi, anh bạn John ạ, những ngày khủng khiếp nhất vẫn đang chờ đợi chúng ta đấy. Điều tôi cầu mong bây giờ là sao cho trong hai chúng ta, dù thế nào cũng chỉ cần một người thôi là đủ để thực hiện suôn sẻ những gì cần phải làm.
Tôi lặng lẽ nắm chặt tay ông như muốn hứa mình sẽ đặt trọn vẹn niềm tin ở ông giống như những ngày đã qua.
Tôi mở cửa tiễn ông về và đứng nhìn theo mãi cho tới khi bóng ông khuất hẳn vào căn phòng ông sẽ ngủ. Mải nghĩ, tôi bỗng giật thót người khi nhận ra một nàng hầu lùi lũi đi qua chiếu nghỉ cầu thang bước vào căn phòng Lucy. Cái bóng câm lặng của người đầy tớ làm tôi xúc động thực sự. Cô đã dũng cảm vượt qua tất cả nỗi sợ hãi, sự lạnh lẽo đến ghê người mà một thây ma có thể gây ra cho người đang sống, để chăm nom chiếc quan tài mà cô chủ nhỏ đang yên nghỉ, để cái xác tội nghiệp kia không phải chịu cảnh cô đơn trước khi đi về nơi vĩnh hằng...
* * * * *
Hẳn là tôi đã ngủ rất lâu và say lắm, vì khi Van Helsing vào phòng gọi tôi dậy thì ngoài trời đã sáng lắm rồi. Giáo sư bước lại giường bảo tôi, giọng chán nản :
- Đừng mang dụng cụ mổ đến nữa. Tôi không muốn làm nữa đâu.
- Sao vậy? - Tôi sửng sốt trước sự thay đổi bất ngờ của ông.
- Bởi vì, - như thường lệ, giọng ông vẫn rất nghiêm trọng sau hàng loạt sự kiện khó hiểu những ngày qua - bởi vì đã quá muộn... hoặc là vẫn còn quá sớm!
- Anh hãy nhìn đi? - Vừa nói ông vừa giơ cây thánh giá nhỏ bằng vàng cho tôi xem. - Đêm qua đã có kẻ lẻn vào lấy trộm nó.
- Sao lại lấy trộm... được. Nó vẫn đang sờ sờ trên tay ngài đó thôi?
- Tôi đã giành lại cây thánh giá này từ tay một kẻ bất hạnh, một người đàn bà lấy trộm của cả người sống và người đã chết. Chắc chắn cô ta sẽ bị trừng phạt, nhưng tôi sẽ không dính dáng gì đến chuyện ấy. Cô ta không biết mình đã làm gì, cô ta chỉ là thủ phạm của một vụ trộm. Đơn giản thế thôi?
Dứt lời, ông lẳng lặng bỏ ra ngoài. Nhiều chuyện quá? Tôi biết mình có cố tìm cách làm sáng tỏ bí ẩn mới này cũng vô ích.
Buổi sáng hôm nay sao mà sầu thảm và lê thê đến thế! Tuy nhiên, vào buổi trưa, viên công chứng cũng đã có mặt: đó là Marquand, một người đàn ông trông rất tử tế của văn phòng luật sư Wholeman. Ông cảm ơn chúng tôi về tất cả những việc chúng tôi đã làm. Toàn bộ những thủ tục cuối cùng và các chi tiết nhỏ nhặt nhất sẽ được ông hoàn tất nốt theo đúng tư cách pháp nhân của mình.

Vào giờ ăn trưa, ông nhắc chúng tôi rằng trước khi chết, bà Westenra đã định đặt đâu ra đấy toàn bộ công việc của gia đình, ông cũng thông báo cho chúng _tôi biết vì không trao được quyền sở hữu cho người cha của Lucy, và vì không tìm được người con cháu trực hệ nào của gia đình, nên toàn bộ số của cải, bất động sản của bà sẽ được dành cho Athur Holmwood. Viên công chức cố giải thích thêm :
- Thực ra mà nói, chúng tôi đã cố ngăn cản thân chủ của mình đưa ra các điều khoản chúc thư như vậy. Chúng tôi đã lưu ý với bà Westenra rằng có thể sẽ xảy ra những chuyện không thể lường được khiến cho cô con gái bà rơi vào tình trạng không một đồng xu dính túi, hoặc sẽ cản trở quyền quyết định của nó vào cái ngày tổ chức đám cưới. Mọi việc giữa chúng tôi và thân chủ bỗng trở nên tồi tệ đến nỗi bà đã nổi cáu mà hỏi chúng tôi cố định quan tâm đến việc thực hiện các ý nguyện cuối cùng của bà hay không. Rõ ràng chúng tôi chẳng còn lựa chọn nào khác hơn là im lặng chấp nhận. Nhưng về nguyên tắc mà nói thì chúng tôi vẫn có lý đến chín mươi chín phần trăm, bởi theo lôgích của các sự kiện, chúng tôi có thể chứng minh được lời tư vấn của mình. Tuy nhiên, tôi cũng phải thừa nhận rằng trong trường hợp cá biệt này, mọi hình thức chúc thư khác đều không thể thực hiện được các ý nguyện của bà. Bởi vì theo lôgích, bà sẽ phải ra đi trước cô con gái và cô con gái sẽ được thừa hưởng toàn bộ của cải và bất động sản. Ấy vậy mà cô gái chỉ sống lâu hơn bà mẹ được chốc lát và chẳng thấy để lại một di chúc nào, việc kiểm tra cho thấy rõ điều này nên có thể coi đây là trường hợp một người chết không lập di chúc. Như vậy, huân tước Godaiming, mặc dù là một người bạn rất thân thiết và đồng thời cũng là người chồng chưa cưới của cô gái trẻ, sẽ tuyệt đối không có một quyền lợi gì. Có lẽ những người thừa kế, dù là những người đang ở xa xôi, cũng sẽ không chịu nhường cho một người xa lạ vì những lý do tình cảm. Họ là những người trở về hợp pháp. Các ngài cứ tin ở tôi, đây là một lập luận khiến tôi hài lòng thực sự.
Marquand hẳn phải là một công chứng viên xuất sắc, nhưng không hiểu sao ông lại thấy vui trước những chi tiết ấy - những chi tiết mà nghề nghiệp luôn buộc ông phải chú ý khi kẻ bất hạnh đang đứng trước một thảm kịch. Đây quả là một ví dụ cứng nhắc và thiếu sự cảm thông mà chúng ta vẫn thường gặp ở một số người.
Viên công chức chỉ nán lại với chúng tôi một lúc rồi ra về với lời hẹn sẽ quay trở lại vào buổi chiều để gặp huân tước Godalming. Dù sao thì sự có mặt của ông cũng ít nhiều an ủi được chúng tôi, vì ông đã mang lại cho chúng tôi một cảm giác yên tâm về những gì mình đã làm kể từ khi bà Westenra và cô Lucy qua đời.
Chúng tôi đợi Athur đến năm giờ chiều. Trước đó một chút, chúng tôi còn ở trong nhà tang. Tôi gọi vậy là vì bây giờ cả hai mẹ cơn bà Westenra đều an nghỉ trong đó. Nhân viên nhà đòn hôm nay có vẻ nhiệt thành hơn thường lệ. Khung cảnh sầu bi trong căn phòng nhỏ khiến chúng tôi ngập chìm vào một cảm giác tê tái không chịu nổi. Van Helsing yêu cầu nhân viên nhà đòn phải đặt mọi thứ trong phòng trở lại nguyên trạng trước đó. Ông nói huân tước Godalming sắp đến nên việc được thấy duy nhất người vợ chưa cưới của mình ở đây sẽ làm anh ta đỡ đau đớn hơn.
Tay nhân viên nhà tang lễ vờ làm ra vẻ ân hận với hành động ngớ ngẩn của mình rồi bắt tay ngay vào công việc theo yêu cầu của vị giáo sư. Khi Athur có mặt, căn phòng đã được trả lại nguyên trạng như tối hôm qua chúng tôi đã làm trước khi đi ngủ.
Thật tội nghiệp cho Athur! Trong tâm trạng tuyệt vọng tột độ vì những nỗi đau nối tiếp nhau, dường như anh ta không còn là chính mình nữa. Tôi hiểu anh rất yêu cha mình. Việc mất cha đối với anh vào lúc này chẳng khác nào một cú đòn trời đánh. Anh đã chứng tỏ cho tôi thấy thế nào là tình bạn và đối với Van Helsing. Anh luôn thể hiện mình là một người lễ phép và mạnh mẽ, nhưng tôi thấy dường như nỗi đau đã biến anh thành một người gần như mất hết sự tự chủ. Chắc chắn giáo sư cũng có chung một cảm giác như tôi, bởi ông vừa khoát tay ra hiệu cho tôi cùng vào với chàng trai khốn khổ. Tôi không định nghe lời giáo sư vì nghĩ rằng có lẽ lúc này Athur chỉ muốn vào một mình với cô vợ chưa cưới Lucy. Nhưng khi thấy tôi định bước ra khỏi cửa, anh đã vội túm tay tôi kéo vào.
- Cậu cũng yêu cô ấy, anh bạn ạ. - Anh nghẹn ngào nói. - Cô ấy đã kể cho tôi nghe tất cả, trong đám bạn bè, cô ấy chẳng có ai thân thiết hơn cậu. Tôi thật chẳng biết làm gì để tạ ơn cậu vì những gì cậu đã làm cho cô ấy. Cả bây giờ nữa, tôi cũng không thể...
Athur bỗng bật khóc với những tiếng nấc không ngớt, anh ôm choàng lấy bờ vai tôi mà thổn thức :
- Trời ơi? Jack ơi, Jack? Rồi tôi sẽ ra sao đây? Thế là mất tất cả rồi, tôi còn biết sống trên đời làm gì nữa.
Dù biết mọi lời nói trong lúc này đều là vô ích, nhưng tôi vẫn cố lựa lời an ủi anh. Một tay nắm chặt lấy bàn tay, một tay đặt lên bờ vai run run của một nỗi lòng tan nát, một tiếng nấc không thể cầm lòng hòa cùng những tiếng nấc ai oán, đó là tất cả những gì trái tim đã bảo tôi phải làm để chia sẻ và vỗ về người bạn đau khổ. Đợi những tiếng nấc trong anh thưa dần, tôi mới dám khẽ nhắc :
- Nào, ta vào thăm cô ấy đi!
Chúng tôi lại gần giường người quá cố và khẽ lật tấm khăn phủ mặt sang một bên. Chúa ơi, sao mà cô đẹp đến thế! Dường như mỗi giờ đồng hồ trôi qua là một lần cơ trở nên xinh đẹp hơn trước. Điều đó không chỉ làm tôi ngạc nhiên mà còn làm tôi thấy sợ nữa. Về phần Athur, tôi thấy dường như sự ngờ vực, nỗi phiền muộn đã làm anh điên đảo, người anh bắt đầu run lên bần bật như một kẻ bị sốt rét. Cuối cùng, sau một hồi im lặng, anh ghé vào tai tôi hỏi nhỏ :
- Jack, có đúng là cô ấy đã chết rồi không?
Tôi buộc phải khẳng định với anh về sự bất hạnh của cô bé, bởi tôi biết cảm giác nghi ngờ của anh dù thế nào cũng chỉ có thể kéo dài trong giây lát. Tôi giải thích để anh hiểu rằng thông thường, con người ta sau khi chết, các nét trên khuôn mặt sẽ mang một sắc thái vừa dịu hiền vừa phảng phất một diện mạo gợi lại thời trẻ trung, và điều này càng được thể hiện rõ hơn đối với những người phải trải qua những đau đớn tột độ kéo dài trước khi chết. Có vẻ như cách lý giải của tôi đã thuyết phục được anh. Sau một hồi lâu quỳ gối bên giường ngây người ngắm nhìn người vợ chưa cưới, anh định đứng dậy bước ra ngoài. Tôi phải nói với anh rằng đã đến lúc nói lời vĩnh biệt cô bé, vì người ta sắp sửa đặt cô vào quan tài. Nghe vậy, anh thổn thức quay lại nắm chặt bàn tay bé nhỏ của người yêu đặt lên môi và cay đắng cúi xuống hôn lên trán cô. Cố gắng lắm anh mới lê được đôi chân ra khỏi phòng, nhưng đầu vẫn ngoái lại nhìn hình hài thân thương của cô gái một lần cuối, cho tới khi bóng cô khuất khỏi tầm mắt.
Tôi dìu anh về nghỉ ở phòng khách rồi vội vàng đi tìm gặp Van Helsing khi ông đang kêu đám nhân viên nhà đòn chuẩn bị nhập áo cho những người xấu số.
Tôi kể lại cho giáo sư nghe chuyện Athur đã thắc mắc như thế nào về diện mạo của người vợ chưa cưới của anh.
- Điều đó chẳng làm tôi ngạc nhiên chút nào cả. - Ông nói với tôi. - Chính tôi cũng đã có lúc không tin ở mắt mình nữa là?
Trong bữa tối, tôi để ý thấy Athur đã rất cố gắng giấu đi nỗi đau xé lòng của mình. Van Helsing chỉ ngồi im, mãi tới khi chúng tôi ngồi châm thuốc, ông mới lên tiếng với Athur :
- Thưa huân tước...
- Không, đừng gọi tôi như thế, lạy Chúa! - Athur ngắt lời - Dù thế nào cũng đừng gọi tôi như thế! Xin lỗi, thưa ngài, tôi không định làm ngài phật ý. Nhưng xin hãy hiểu và tin ở tôi, đám tang nhà tôi chỉ vừa mới...
Van Helsing đáp lại bằng một giọng chùng hẳn xuống :
- Tôi gọi vậy chẳng qua là vì không biết nên xưng hô như thế nào với cậu cho phải... Thực ra tôi đâu có thích gọi cậu là “ngài”, bởi vì cho tới lúc này, tôi đã rất, rất mến mộ cậu, chàng trai ạ. Đối với tôi, cậu luôn là Athur.
Athur kính cẩn đưa tay về phía người bác sĩ già :
- Xin ngài cứ đặt cho tôi một cái tên tùy thích, nhưng dù là tên gì thì tôi cũng hy vọng ngài luôn coi tôi như một người bạn. Thú thực đã nhiều lần tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn của tôi đối với ngài nhưng vẫn không biết giãi bày ra sao. Ngài đã hết lòng vì người thân của tôi! - Athur im lặng một lát rồi tiếp tục - Tôi biết cô ấy sẽ hiểu tấm lòng của ngài hơn tôi, nếu như lúc này tôi không biết cách xử sự cho phải phép thì... Xin ngài thứ lỗi cho.
Câu trả lời của Van Helsing một lần nứa chứng tỏ sự cảm thông thực sự của ông.
- Tôi biết - Giọng ông đều đều và chậm rãi - rất khó để anh hiểu và tin tưởng hoàn toàn ở tôi, bởi để tin tưởng ở nhau, trước hết người ta phải hiểu nhau. Tôi cho là cậu đã không... hoặc đúng hơn là chưa tin ở tôi, vì cậu chưa hiểu tôi. Tuy nhiên, vẫn còn những tình cảnh tôi rất cần lòng tin của cậu, nhưng cậu lại không hiểu hoặc chưa thể hiểu nổi! Song thời gian cứ thế trôi qua, cuối cùng thì cậu cũng sẽ tin tưởng hoàn toàn ở tôi, khi mà cậu đã hiểu mọi điều rõ như ban ngày. Vậy thì thế nào cậu cũng sẽ cầu chúc cho tôi về những hành động mà tôi đã làm vì lợi ích của cậu, của người khác và của đứa con khốn khổ mà tôi đã thề là sẽ hết sức bảo vệ tới cùng.
- Cớ chứ, có chứ, - Athur đáp lời - tôi sẽ hoàn toàn phó thác cho ngài. Tôi biết ngài đang mang trong mình một trái tim hào hiệp, và ngài là bạn của Jack cũng như ngài và Jack là bạn của cô ấy. Ngài sẽ hành động theo đúng bổn phận mà ngài tin là của ngài.
Sau một hồi nghĩ ngợi, Van Helsing trầm ngâm nói tiếp :
- Tôi có thể hỏi cậu một câu được không?
- Tất nhiên là được.
- Cậu có biết là bà Westenra đã để lại cho cậu toàn bộ số tài sản mà bà ấy có không?
- Không. Tội nghiệp bà! Không... Tôi chẳng bao giờ nghĩ tới điều đó.
- Bây giờ toàn bộ số tài sản đó đã thuộc về cậu nên cậu có quyền sử dụng tùy ý.Tôi định xin phép cậu cho đọc tất cả các loại giấy tờ và thư từ của Lucy. Đừng nghi ngờ gì nhé, không phải là do tôi tò mò đâu. Tôi làm vậy cũng vì một lý do mà tôi biết là cô ấy sẽ đồng ý. Tôi đã tìm được số giấy tờ và thư từ. Hiện tại, tôi đang cầm tất cả trước khi trả lại cho cậu như một phần còn lại của cô ấy. Tôi sẽ đọc tất cả nếu cậu cho phép và nếu cậu chưa được nhìn thấy những kỷ vật ấy, như thế sẽ tốt hơn vào lúc này - tôi sẽ cất giữ chúng vào một nơi chắc chắn. Tôi đảm bảo sẽ không để mất bất cứ một mẩu giấy nào của cô ấy. Đến một lúc thích hợp, tôi sẽ hoàn trả lại cậu tất cả. Có lẽ tôi đòi hỏi hơi nhiều, nhưng tôi biết là vì tình yêu đối với Lucy, thế nào cậu cũng sẽ đồng ý, đúng không anh bạn?
Chẳng cần nghĩ ngợi nhiều, Athur trả lời ngay bằng một giọng thẳng thắn và thành thực đúng với những gì tôi bíết ở anh :
- Thưa bác sĩ Van Helsing, ngài cứ việc làm như ngài mong muốn. Tôi biết rằng nếu còn ở đây, thế nào Lucy cũng sẽ chứng giám cho những gì tôi nói. Tôi sẽ không đặt ra bất cứ một câu hỏi nào cho tới khi tự ngài thấy đã đến lúc phải đưa ra lời giải thích về việc làm của mình.
- Cậu nói đúng lắm. - Giáo sư bật dậy nói bằng một giọng thật nghiêm trọng.
- Tất cả chúng ta đều còn rất nhiều việc phải làm và cũng có không ít điều phải bận tâm, nhưng không chỉ có những điều phải bận tâm, mà đằng sau đó chúng ta còn phải tìm hiểu thêm không ít vấn đề khác nữa.
- Bác sĩ Seward và tôi, và cậu nữa, Athur ạ, - cậu chứ không phải ai khác - cả ba chúng ta sẽ phải vượt qua những giờ phút chua xót trước khi trở lại với cuộc sống bình yên. Phải can đảm lên mới được, dừng nghĩ tới bản thân mà phải nghĩ tới bổn phận trước tiên, có như vậy mới thành công được!
Đêm hôm đó, tôi ngủ trên trường kỷ trong phòng Athur.
Van Helsing không ngả lưng chút nào. Ông cứ đi qua đi lại như định đi tuần trong nhà, nhưng không lúc nào bỏ xa căn phòng đặt quan tài của Lucy. Không giống với mùi hương lý hay mùi hoa hồng, những bông hoa tỏi cài rải rác trong căn phòng luôn tỏa ra màn đêm một mùi hăng hắc.


Nhật ký của Mina Harker


Ngày 22 tháng 9
Tôi ngồi viết trên đoàn tàu dẫn chúng tôi tới Exeter. Jonathan đang chìm trong giấc ngủ.
Tôi thấy dường như mình chỉ mới viết những dòng nhật ký này từ hôm qua, ấy vậy mà không biết bao nhiêu điều đã xảy ra từ khi chúng tôi ở Whitby để thực hiện những dự định cho tương lai, trong lúc Jonathan đang lang thang nơi đất khách quê người và tôi thì lúc nào cũng mong ngóng tin anh. Ngoảnh đi ngoảnh lại, thế mà bây giờ tôi đã làm đám cưới với Jonathan, một công chứng viên, một chủ nhân ông của một văn phòng luật sư của chính mình. Ngài Hawkins đã được chôn cất chu đáo, còn Jonathan lại vừa trải qua một cơn bệnh biến mới khiến tôi không khỏi lo về những hậu quả không mấy tất đẹp có thể xảy ra sau này, Có thể sẽ có một ngày, anh hỏi tôi về những chuyện đã qua trong lúc anh không ý thức được... Tôi chợt nhận thấy kỹ năng viết tốc ký của mình bị thui chột hẳn, có lẽ thỉnh thoảng tôi phải tranh thủ luyện tập lại mới được...
Đám tang được tổ chức giản dị nhưng cũng thật xúc động. Chỉ có hai chúng tôi, mấy gia nhân và hai, ba ông bạn già từ Exeter đến, một nhân viên người Luân Đôn và một quý ông nữa tự giới thiệu là John Paxton, chủ tịch một công ty luật tổng hợp. Tôi và Jonathan nắm chặt tay nhau, trong lòng cảm thấy trống vắng khi biết chắc rằng người bạn tốt nhất, thân thiết nhất của chúng tôi đã đi xa và chẳng bao giờ trở về...
Để về thành phố, chúng tôi phải đi xe buýt và xuống bến ở Hyde Park. Muốn làm tôi vơi đi nỗi buồn, Jonathan rủ tôi dạo bước trên một lối nhỏ trong công viên, nhưng tôi cũng chẳng đi được nhiều, hai chúng tôi tìm một chỗ ngồi cho đỡ mỏi. Trong công viên ít người quá, tất cả các ghế đã đều trống trơn. Cảnh bụồn nơi đây làm tôi bất giác nghĩ tới chiếc ghế trống không mà chúng tôi sẽ gặp lại khi trở về nhà. Vậy là chúng tôi cũng chẳng ngồi được lâu, tôi đứng dậy kéo Jonathan đi về phía Piccadilly. Jonathan khoác tay tôi như anh vẫn thường làm ngày xưa, hồi anh còn đưa tôi đến trường. Thú thực, tự nhiên tôi cảm thấy cử chỉ ấy của anh lúc này đã làm tôi thấy không tiện lắm. Nhưng bây giờ Jonathan đã là chồng tôi, vả lại chúng tôi cũng chẳng biết một ai trong số những người đi đường kia, mà kể cả một vài người trong số họ có nhận ra chúng tôi thì cũng chẳng có gì quan trọng cả. Chúng tôi vẫn tiếp tục dạo bộ thẳng về phía trước... Tôi chợt để ý đến một cô gái trẻ rất đẹp, đầu đội một chiếc mũ rộng vành đang ngồi trong một chiếc xe mất Victoria đỗ trước nhà Guillano. Nhưng Jonathan đã làm tôi giật mình bởi anh bỗng dưng xiết chặt tay tôi khiến tôi đau điếng. Tôi chợt thấy lo khi anh ghé vào tai tôi nói bằng một giọng như nghẹt thở: “Lạy Chúa tôi!” Đã bao ngày xui xẻo trôi qua khiến tôi không thể không lo lắng khi nghĩ về anh, vì lúc nào tôi cũng sợ anh lại rơi vào một cơn bệnh biến mới khiến hệ thần kinh của anh không còn giữ nổi thăng bằng. Tôi quay ngoắt sang hỏi xem đã xảy ra chuyện gì.
Không hiểu sao mặt mũi anh bỗng tái xanh như không còn một hột máu, hai mắt như lồi hẳn ra với những tia máu long sòng sọc. Hình như anh đang để ý tới một người đàn ông cao lớn, gầy nhẳng, có cái mũi khoằm như mũi diều hâu, bộ ria mép đen xì và bộ râu dài nhọn hoắt phía trước mặt. Và người đàn ông đó cũng đang nhìn chòng chọc vào cô giả trẻ thì phải. Gã mải nhìn cô gái đến nỗi chẳng còn để ý đến ai xung quanh, vì vậy tôi có thể thoải mái quan sát gã. Bộ mặt gã đúng là chẳng nói lên một điều gì tốt lành. Trông nó cứng nhắc, cục cằn và ẩn chứa đầy nhục dục, sợ nhất là hai hàm răng trắng ởn và to như răng ngựa của gã. Giữa cặp môi đỏ như ớt, hai hàm răng ấy trông cỏ vẻ nhọn như răng của một con thú vật. Jonathan vẫn ngây dại nhìn về phía gã đàn ông lạ mặt. Tự nhiên tôi cảm thấy sợ gã, vì quả thực gã có một vẻ gì đó rất đáng ngờ. Khi tôi hỏi tại sao lại đờ đẫn người ra như vậy, Jonathan đã hỏi lại cứ như tôi cũng biết mọi chuyện từ lâu rồi :
- Em biết ông ta chứ?
- Không, làm sao mà em biết được! Ai thế?
Câu trả lời của anh làm tôi thực sự bị sốc. Nghe giọng anh nói, tôi có cảm giác anh không còn biết tôi là ai nữa :
- Đúng là lão rồi... Đúng là lão!
Rõ ràng là người chồng thân yêu của tôi đang sợ hãi, chính xác hơn là quá khiếp sợ một điều gì đó. Tôi tin rằng nếu không tựa vào tôi, chắc chắn là anh sẽ ngã khuỵu xuống đất mất. Anh như đang bị thôi miên bởi một gã đàn ông hoàn toàn xa lạ đối với tôi. Chợt có một người đàn ông bước ra khỏi một cửa hàng đi về phía cô gái trẻ và đưa cho cô một bọc gì đó. Gã lạ mặt kia vẫn nhìn chòng chọc vào cô gái. Khi chiếc xe chuyển bánh đi ngược về phía Piceadilly, gã vội vàng gọi ngay một chiếc xe cáp chạy đuổi theo. Jonathan vẫn ngây dại nhìn theo, một lúc sau anh mới lẩm bẩm như nói với chính mình :
- Đúng rồi, mình tin chắc đó chính là lão bá tước, nhưng trông lão có vẻ trẻ ra thì phải? Lạy Chúa tôi? Nếu đó là lão...
- Ôi? Lạy Chúa tôi, Lạy Chúa tôi! Giá như mình biết, giá như...
Tôi phải kìm nén lắm mới không đặt ra một câu hỏi nào, vì tôi sợ nếu làm khác đi, tôi sẽ gợi nhắc những ý nghĩ nào đó khiến anh lại vật vã như bị tra tấn. Vậy là tôi phải giữ im lặng và kéo anh tiếp tục dạo bộ về phía một vườn cây mang tên Khuôn viên Xanh. Trời thu hôm nay sao mà nóng bức thế không biết, chúng tôi phải tìm một chiếc ghế đá nằm dưới một lùm cây um tùm để ngồi nghỉ. Jonathan thẫn thờ nhìn vào nơi xa xăm như một kẻ mất hồn, nhưng anh chỉ ngồi được một lát rồi gục đầu vào vai tôi, hai mắt nhắm nghiền, anh đang đi vào một giấc ngủ ngon lành. Tôi chợt thấy vui khi thấy anh ngủ. Rõ ràng anh không còn bị những cơn bệnh hành hạ như trước nữa. Khoảng hai mươi phút sau, anh bừng tỉnh và nói với tôi bằng một giọng rất vui :
- Mina! Thế là anh cũng đã ngủ được một giấc. Ôi! Xin lỗi nhé, em yêu... Nào, chúng ta tìm một chỗ nào đó uống trà đi.
Tôi hiểu anh đã quên hẳn cuộc gặp của hai chúng tôi với gã đàn ông xa lạ vừa rồi, và trong trạng thái bệnh lý của mình, anh cũng quên tất cả những hồi ức nào đó mà cuộc gặp ấy đã gợi lại trong anh. Nhưng dù vậy, tôi vẫn không dám hỏi một câu nào, vì tôi biết chắc có làm thế cũng chỉ tổ gây ra những hậu quả tai hại khó lường hơn là một kết quả tốt đẹp. Tuy nhiên, dù thế nào thì tôi cũng phải biết cho bằng được cuộc hành trình ra nước ngoài vừa rồi của anh. Có lẽ đã đến lúc tôi phải cởi dãy băng xanh buộc cuốn sổ tay của anh ra rồi. Ôi, Jonathan, hãy tha lỗi cho em! Em luôn hiểu những gì mình làm, em sẽ phải đọc những gì anh viết trong cuốn sổ ấy. Nếu em có làm vậy thì cũng chỉ vì anh thôi.
 
Một lúc sau
Một chuyến trở về nhà buồn thảm không chỉ vì một lý do. Quả là nhiều chuyện quát Jonathan trông vẫn xanh xao như một người bệnh thật sự. Chưa hết, còn một bức điện của một ông Van Helsing nào đó đang chờ đợi chúng tôi :
“Tôi rất lấy làm tiếc khi báo cho ông bà biết về cái chết bất ngờ của bà Westenra cách đây năm hôm và cái chết của cô con gái Lucy xảy ra vào ngày hôm kia. Cả hai đều đã được chôn cất chu đáo vào ngày hôm nay.”
Trời ơi? Sao chỉ có mấy dòng thôi mà hàm chứa nhiều nỗi buồn như vậy? Tội nghiệp bà Westenra? Tội nghiệp Lucy! Thế là họ đã ra đi, đã mãi ra đi rồi Thật tội nghiệp, tội nghiệp cho Athur, cuộc sống với anh bây giờ chẳng khác nào một sự tồn tạ cơ cực và buồn tẻ! Cầu Chúa hãy giúp chúng con vượt qua nỗi đau này?


Nhật ký của bác sĩ Seward


Ngày 22 tháng 9
Mọi việc vậy là xong. Athur lại trở về Ring cùng với Quincey Morris. Kể ra Quincey cũng là một chàng trai thật đáng mến. Cậu ta cũng đau đớn về cái chết của Lucy như bất cứ ai trong chúng tôi, song cậu ta lại rất biết cách giữ vẻ mặt bình thản của mình với lòng can đảm như một tay cướp biển Bắc Âu. Nếu tiếp tục sản sinh ra những người đàn ông như cậu ta thì chẳng bao lâu nữa, nước Mỹ sẽ trở thành một cường quốc trên thế giới. Về phần mình, Van Helsing đã chịu nghỉ ngơi một chút trước khi lên đường về nước. Ông phải trở về Amsterdam để giải quyết một số việc riêng. Tuy nhiên, chiều tối mai ông cũng định tới Luân Đôn và ở lưu lại đó nếu có thể để giải quyết một việc khá mất thời gian. Thú thực tôi vẫn lo sức chịu đựng bền bỉ của ông không còn kéo dài được như trước nữa. Trong tang lễ, tôi để ý thấy ông đã có những biểu hiện hơi không bình thường. Khi công việc kết thúc, chúng tôi lại tập trung xung quanh Athur khi anh đang rất xúc động nói về dòng máu mà anh đã hiến dâng cho Lucy. Tôi thấy sắc mặt Van Helsing hết tái lại chuyển sang đỏ tía. Athur nói kể từ khi cho Lucy dòng máu của mình, anh bỗng có cảm giác cô đã thực sự trở thành vợ anh trước sự chứng giám của Chúa. Tất nhiên, chúng tôi không dại gì nói ra những lần truyền máu khác mà Athur chưa biết, và chắc chắn chẳng bao giờ chúng tôi để lộ ra điều đó. Athur và Quincey cùng dẫn nhau ra ga, Van Helsing và tôi trở lại đây. Chúng tôi vừa bước lên xe thì giáo sư bất ngờ bị động kinh, ý tôi muốn nói là thần kinh của ông bị kích động rất mạnh. Nhưng về sau, ông đã nhất quyết phủ nhận cơn kích động này. Ông giải thích đó chẳng qua chỉ là một cảm giác khôi hài sau những gì tồi tệ đã xảy ra. Ông bật cười, cười ra nước mắt, cười nức nở đến nỗi tôi phải hạ hết vải rèm xung quanh xe xuống để cho người ngoài khỏi thấy ông trong trạng thái không bình thường như vậy, rồi ông bật khóc, khóc thực sự, khóc như một đứa trẻ con. Sau đó tôi lại phải chứng kiến ông cười, cười sằng sặc. Cuối cùng, ông vừa cười lại vừa khóc, khóc tức tưởi như một người đàn bà, nói đúng hơn là như một thằng điên: Tôi ra sức an ủi, vỗ về ông, thậm chí còn nghiêm giọng bảo ông giữ bình tĩnh, nhưng mọi cố gắng của tôi đều vô ích. Đã thế thì cứ để ông điên khùng, bao giờ chán thì thôi. Trong tình huống tương tự như vậy, phụ nữ thường có những phản ứng khác với đàn ông. Cuối cùng, khi nét mặt ông trở lại với cái vẻ nghiêm nghị, hệ trọng vốn có, tôi mới dám hỏi cái gì đã làm ông có thể cười được trong lúc buồn như vậy.
Ông đã trả lời thật lôgích, song cũng khó hiểu như chính con người ông vậy.
- Chà? Anh bạn John ạ, vậy là anh lại không hiểu tôi rồi? Đừng tưởng rằng tôi cười là tôi không buồn đâu nhé. Tôi đã khóc ngay cả khi tôi buộc phải cười sằng sặc? Nhưng cũng đừng tin rằng tôi chỉ bày tỏ nỗi buồn khi tôi khóc... Đừng bao giờ quên tiếng cười tới gõ cửa nhà anh và hỏi: “Tôi có thể vào được chứ?” Không phải là nụ cười thật. Đừng bao giờ! Tiếng cười ấy chính là một ông hoàng, nó đến nhà anh khi thấy nhà anh vui theo cách của nhà anh! Nó chẳng cần phải xin phép ai cả, chỉ có niềm vui là quan trọng đối với nó. Tôi lấy ví dụ thế này, ngày đêm tôi vẫn day dứt về cô gái trẻ dịu hiền ấy, dù đã già và mệt mỏi, song tôi vẫn định hiến máu để cứu sống cô ấy. Tôi vẫn dành thời gian, khoa học và cả giấc ngủ của mình cho cô ấy.
Tôi đã bỏ mặc những bệnh nhân khác của mình để dành tất cả cho cô ấy. Vậy đấy? Thế mà chỉ trong phút chốc, tôi đã cười phá lên ngay trước mộ cô ấy, cười mãi, khiến cho máu mặt tôi bốc lên đỏ gay đỏ gắt. Chưa hết. Trái tim tôi cũng đã thắt lại khi nghĩ đến chàng trai đáng thương ấy - một chàng trai chạc tuổi con trai tôi nếu như tôi có phúc còn giữ được nó; mà sao mắt mũi, tóc tai chúng lại giống nhau đến thế không biết! Bây giờ thì anh đã hiểu tại sao tôi lại quý mến anh chàng ấy đến như vậy rồi chứ? Mặc dù vậy, khi nói với chúng ta về tình cảm vợ chồng chưa một lần được hưởng ấy, anh chàng đã làm tôi động lòng và để lại trong tấm lòng phụ tử của tôi một sức lôi cuốn kỳ lạ mà tôi chưa từng được trải nghiệm đối với các học sinh của mình.
Tất nhiên là cả đối với anh cũng vậy, anh bạn John ạ, bởi vì tất cả những gì chúng ta đã làm và đã sống cùng nhau đều chỉ mang lại cho chúng ta một quan hệ bình đẳng hơn là tình cảm cha con. Tôi xin nhắc lại là mặc dù vậy, Đức ông hoàng cười vẫn đến và hét vào tai tôi: “Ta đây, tạ đã đến đây!”, to đến nỗi tôi cảm thấy có một dòng máu trong người bốc lên ngùn ngụt khiến cho tôi mặt đỏ tía tai như ông mặt trời vậy. Thế đấy, anh bạn ạ, thế giới của chúng ta thật kỳ lạ? Một thế giới buồn tẻ, cơ cực, bất hạnh và luôn đầy những âu lo. Tuy nhiên, khi Đức ông hoàng Cười đến, tất cả lại cùng nhau nhảy nhót trong cái không khí mà ông ta luôn cảm thấy thỏa thích? Những trái tim rỉ máu, những hài cốt nằm trong nghĩa địa, những giọt nước mắt cháy bỏng trên gò má, tất cả bỗng cùng hùa vào nhảy nhót với nhau theo điệu nhạc phát ra từ miệng Đức ông hoàng Cười. Cứ tin tôi đi, anh bạn ạ chúng ta rồi cũng phải biết ơn Đức ông ấy? Bởi vì chúng ta, những người đàn ông và cả những người phụ nữ nữa, đều có thể so sánh với những sợi dây đàn bị căng ở hai đầu, để rồi có những giọt nước mắt nhỏ xuống, giống như những hạt mưa đậu trên từng phím đàn, bỗng làm chúng ta căng cứng lại cho tới một lúc nào đó, cái căng cứng ấy sẽ đạt tới mức thực sự không thể chịu nổi nữa, và thế là chúng ta đứt tung hết cả. Đúng vào lúc xuất hiện cái ranh giới đó, ông hoàng Cười bỗng bất ngờ xuất hiện như một tia nắng mặt trời, làm chùng sợi dây lại, và chúng ta lại có thể tiếp tục công việc của mình bất kể ở hiện trạng nào.
Tôi không định làm giáo sư bị tổn thương khi thú thực với ông rằng tôi chẳng hiểu gì về cái triết lý đó của ông. Mặc dù ông đã giải thích, nhưng quả thực tôi vẫn chưa xác định được lý do gì khiến ông cười sằng sặc lên như vậy. Tôi buộc phải nói thẳng với ông về sự thiếu thông thái của mình.
- Chà chà? - Ông tiếp tục giải thích. - Đó chẳng qua chỉ là một sự trớ trêu bi ai nhất mà thôi! Cô bé dịu dàng ấy nằm yên giữa những bông hoa trắng tinh. Cô đẹp như chính cuộc sống vậy, đẹp đến nỗi hết người này đến người khác trong chúng ta phải tự hỏi không hiểu cô đã chết thật hay chưa. Bây giờ thì cô bé đã ngon giấc ngàn thu dưới nấm mồ đá trong một nghĩa địa xa xôi, nơi những người thân thiết nhất của cô cũng đang an nghỉ. Chúa ơi? Tiếng chuông cầu hồn ấy sao mà mà buồn và thê thảm đến thế! Và cả những vị linh mục nghiêm trang đọc lời cầu nguyện trong bộ đồ trắng... Còn chúng ta, tất cả đều nghiêng mình, cúi đầu... Tại sao lại thế? Chẳng phải là cô ấy đã chết rồi ư?
- Nhưng thưa giáo sư, tôi vẫn chưa thấy gì đáng để cười trong những lời giáo sư vừa nói! Thậm chí tôi thấy lời giải thích của giáo sư càng lúc càng rối rắm hơn là đằng khác. Nếu như việc chôn cất có điều gì buồn cười, chẳng lẽ anh chàng tội nghiệp Athur, một con người đang rơi xuống tột cùng của đau đớn lại...?
- Chính xác! Anh ta chẳng nói dòng máu mà anh ta hiến cho Lucy đã làm cho cô bé trở thành vợ anh ta rồi là gì?
- Đúng là Athur có nghĩ như vậy, nhưng đó là điều sẽ an ủi được anh ta.
- Phải! Nhưng nếu thế sẽ có chuyện không ổn. Bởi nếu chỉ cho máu thôi mà Athur đã cảm thấy Lucy là vợ của mình rồi thì không 1ẽ cô bé cũng là vợ của chúng ta cả hay sao? Ha? Ha? Vậy là Lucy, cô bé dịu hiền Lucy đã có rất nhiều phu quân. Còn tôi, tôi cũng có thể nói là mình mất đi một người vợ đáng thương, nhưng Giáo Hội và thiên đàng vẫn còn cô ấy. Tôi cũng trở thành một người chồng chung thủy của một cô vợ không còn trên trái đất này nữa, tôi là người đã hai vợ!
- Tôi vẫn chưa thấy gì đáng buồn cười cả! - Tôi buộc phải thú nhận sự mông lung của mình một lần nữa, bởi thực ra những lưu ý của ngài vẫn chẳng có gì hay ho.
Ông vỗ vai tôi và tiếp tục những lời giải thích của mình :
- Anh bạn John ạ, xin lỗi nếu có làm anh đau đầu. Tôi đâu có thói quen đem bừa tình cảm của mình dành cho những người khác, vì điều đó rất dễ làm họ bị tổn thương. Nhưng đối với anh thì lại khác, John ạ. Giá như anh nhìn được tất cả những gì xảy ra tự đáy lòng tôi lúc tôi đang cười, hoặc lúc tiếng cười xuất hiện trên môi tôi, giá như lúc này anh nhìn được những gì tiếp tục ẩn chứa trong lòng tôi khi Đức ông hoàng Cười đã cởi bỏ vương miện và xiêm y - bởi ông ta sẽ bỏ đi rất xa, rất xa tôi trong một thời gian rất rất dài - thì chắc là trong số chúng ta, tôi sẽ là người mà anh cảm thấy ái ngại nhất.
- Tại sao vậy? - Tôi hỏi, trong lòng cảm thấy thực sự xúc động khi nghe ông nói đến câu cuối cùng. - Tóm lại là tôi vẫn không hiểu được lòng ngài.
- Tại sao ? Tại vì tôi biết là như vậy?
Bây giờ thì chúng tôi đã tạm biệt nhau, mỗi người lại tìm về sự cô đơn dưới mái nhà lạnh lẽo của mình. Vậy là Lucy đã yên nghỉ trong khu mộ của gia đình, một khu mộ câm lặng nằm giữa một nghĩa. địa cổ kính, nơi âm thanh đời thường của thành Luân Đôn không thể vẳng tới, bầu không khí không hề vẩn một chút bụi đời, mà chỉ có những tia nắng mặt trời óng ả nhẹ buông từ đỉnh đồi Hampstead và những bông hoa dại mọc vương vãi trên từng thảm cỏ xanh mướt như nhung.
Vậy là tôi có thể kết thúc những dòng nhật ký này được rồi. Chỉ có Chúa mới biết đến bao giờ tối lại bắt đầu những dòng tự bạch khác mà thôi. Nếu tôi có thêm một lần như thế, hoặc giả nếu tôi lại tiếp tục những dòng nhật ký này, thì chắc chắn tôi sẽ viết về những con người khác, hoặc những câu chuyện khác hẳn. Sau khi ghi lại toàn bộ câu chuyện tình đơn phương của mình và trước khi trê lại với cuộc sống của công việc, tôi đã buồn bã buông một tiếng chẳng hề hàm chứa một chút hy vọng nào hết.
* * * * *
Báo Westminster Gazette, ngày 25 tháng 9
Một bí ẩn ở Hampstead
“Các khu vực phụ cận Hampstead đang xảy ra nhiều sự kiện gợi nhắc lại những chuyện mà chúng tôi đã có lần nói đến trong các bài báo nhan đề: Nỗi kinh hoàng ở Kensington, hoặc Người phụ nữ bị đâm đao, hoặc Người đàn bà mặc bộ đồ đen. Quả thực là từ hai ba ngày nay, người ta đã xì xào nhiều về chuyện những đứa trẻ biến khỏi nhà, hoặc nói đúng hơn, không ai thấy chúng về nhà sau khi ra chơi ngoài trảng.
Đành rằng lu trẻ còn quá nhỏ để có thể đưa ra những lời giải thích thuyết phục về trường hợp vắng mặt của mình, song lần nào trở về chúng cũng đều nói rằng chúng đi theo một “người đàn bà vấy máu.” Và lần nào cũng vậy, cứ quá xẩm tối là người ta lại không còn nhìn thấy chúng đâu nữa. Có hai đứa trẻ trong số bị mất tích trong đêm chỉ được tìm thấy vào rạng sáng ngày hôm sau. Khi trở về nhà, đứa trẻ mất tích đầu tiên có kể lại rằng “người đàn bà vấy máu” đã gạ gẫm rủ em đi dạo cùng. Những trường hợp khác cũng kể lại một câu chuyện tương tự. Chúng ta đều biết rằng bọn trẻ ngày nay rất không thích bắt chước nhau, nên chuyện cùng dối nhà bỏ đi qua đêm là không thể có. Một thông tín viên của chúng tôi cho biết anh đã thấy mấy chú bé có điệu bộ rất nực cười khi chúng bắt chước bộ dạng và cử chỉ của “người đàn bà vấy máu”. Nếu thích, các nhà biếm họa của chúng ta có thể học hỏi được nhiều điều khi xem các điệu bộ bắt chước của những chú nhóc này!
Tuy nhiên, sự việc xem ra không phải là không đặt ra những vấn đề nghiêm trọng, vì hai đứa trong bọn trẻ tức là những đứa trẻ bỏ đi qua đêm đã bị những vết cắn nhỏ ở cổ. Có vẻ như đó là những vết cắn của một con chuột lớn hoặc một con chó nhỏ. Mặc dù chưa có gì nghiêm trọng, nhưng các vết thương đều chứng tỏ một điều: dù là chuột hay là chó, con vật cũng chỉ luôn cắn người theo đúng một cách không đổi. Cảnh sát đã nhận được lệnh theo dõi những trẻ thường bén mảng tới chơi ngoài trảng Hampstead hoặc ở các khu vực phụ cận, nhất là những cô, cậu còn ít tuổi, và canh chừng cả những chú cho hay lảng vảng gần đó”.
* * * * *
Báo Westminster Gazette, ngày 25 tháng 9
Số đặc biệt
Nỗi kinh hoàng của Hampstead thêm một nạn nhân mới
“Chúng tôi vừa nhận được tin là lại thêm một đứa trẻ nữa bị mất tích vào xẩm tối ngày hôm qua và chỉ vừa được tìm thấy trong một bụi cây kim tước trên đồi Thợ Săn một khu vực thuộc trảng Hampstead, ít người lui tới hơn các khu vực khác vào sáng hôm nay. Với một vết cắn nhỏ trên cổ giống y như các nạn nhân nhỏ tuổi trước đó, cậu bé được tìm thấy trong một tình trạng yếu ớt và nhợt nhạt. Sau khi được đưa về nhà và bình tĩnh trở lại, cậu bé đã khai rằng cậu cũng bị người đàn bà vấy máu lôi kéo”.



Chương 14


Nhật ký của Mina Harker


Ngày 23 tháng 9
Sau một đêm bứt dứt không yên, hôm nay, trông Jonathan có vẻ đã khá hơn. Tôi cảm thấy vui khi thấy anh làm việc nhiều hơn, bởi chỉ có vậy anh mới bớt nghĩ ngợi lung tung... Quả thực tôi đã phấn chấn hẳn lên khi thấy anh bận bịu với những công việc mới, vì tôi biết anh sẽ tỏ ra là người xứng đáng, đủ năng lực đảm nhận những trách nhiệm mới, bất kể là trách nhiệm gì! Anh đi suốt ngày và dặn không ăn tra ở nhà. Sau khi làm xong mấy việc nội trợ lặt vặt, tôi hồi hộp quay về phòng đọc những trang nhật ký anh đã ghi lại trong suất cuộc hành trình tới Transylvanie...
* * * * *
Ngày 24 tháng 9
Tối hôm qua, tôi không thể viết được dòng nào, bởi cuốn nhật ký của Jonathan đã làm tôi choáng váng. Thật tội nghiệp cho chồng tôi! Dù là chuyện thật hay chỉ là một sự tưởng tượng, thì chắc anh cũng đã phải chịu rất nhiều cơ cực. Có một câu hỏi luôn ám ảnh đầu óc tôi: trong câu chuyện đó có phần nào là sự thật không? Anh đã mô tả những điều khủng khiếp sau khi mắc phải chứng bệnh sốt não, hay chứng bệnh ấy là kết quả của những điều tưởng tượng hãi hùng? Tôi sợ mình không tìm được câu trả lời, bởi có thể tôi sẽ chẳng bao giờ dám nhắc lại chuyện đó với anh. Nhưng có vẻ như Jonathan đã nhận ra gã đàn ông mà chúng tôi nhìn thấy hôm qua... Có lẽ cái chết đột ngột của người bạn lớn Hawkins đã gây ra cho anh nhiều ảo giác quái gở và mơ hồ, thế thôi... Nhưng xem ra vẫn có một mối liên hệ lờ mờ nào đó giữa các sự kiện mà tôi chưa thể nắm chắc... Lão bá tước đáng ngờ kia dường như đang thực hiện một mưu đồ ở Luân Đôn... Nếu đúng là lão đã tới Luân Đôn với hàng triệu bạc thì chắc chắn thành phố này đang lâm vào một cảnh cực kỳ tồi tệ mà người đứng ra giải quyết sẽ không phải là ai khác ngoài chúng tôi. Chúng tôi không được phép lùi bước trước nhiệm vụ bất khả kháng này. Vậy đấy! Tôi sẽ phải bắt tay vào chuẩn bị ngay từ bây giờ, tôi sẽ soạn lại nhật ký của chồng mình bằng máy chữ, vì làm như vậy thì khi cần, người nào vào cuộc cũng có thể đọc và hiểu được vấn đề. Tôi sẽ tự mình giải thích toàn bộ câu chuyện, bỏi tôi không muốn ai quấy rầy Jonathan.


Thư của Van Helsing gửi J. Harker


Ngày 24 tháng 9
“Thưa quý bà kính mến,
Tôi thành thực xin lỗi vì chuyện đột ngột gửi bà lá thứ này, song thực ra, ít nhiều tôi đã là người bạn của bà, bởi tôi chính là người mang một nghĩa vụ khó nhọc là phải báo cho bà biết về cái chết của cô Lucy Westenra. Với sự đồng ý thực lòng của huân tước Godalming, tôi đã đọc toàn bộ các giấy tờ và thư từ của Lucy, vì tôi đang rất quan tâm đến một số sự việc cực kỳ quan trọng có liên quan tới cô ấy. Trong số các giấy tờ có được, tôi thấy có cả thư của bà, những lá thư thể hiện một tình bạn cao cả mà bà và cô ấy đã dành cho nhau. Lạy Chúa tôi! Thưa bà Mina, nhân danh tình bạn trong sang ấy, tôi cầu mong bà hãy giúp đỡ tôi! Vì lợi ích của mọi người, tôi mạo muội đề nghị bà... để hàn gắn lại những nỗi đau mà tội ác đã gây ra, để ngăn chặn những bất hạnh khủng khiếp nhất, mà chắc chắn nếu có là người giàu trí tưởng tượng nhất, bà cũng không thể nghĩ tới được. Bà có thể dành chút thời gian vàng ngọc cho tôi gặp mặt được chứ? Tôi nghĩ bà có thể tin tưởng ở tôi. Tôi là bạn của bác sĩ John Seward và cũng là bạn của huân tước Godalming (tức là Athur của cô Lucy như bà đã biết). Nhưng một lần nữa tôi phải xin lỗi bà vì tôi chưa thể nói ra những gì tôi cần phải hỏi, ít nhất là trong lúc này. Tôi sẽ tới Exeter thăm bà ngay sau khi bà thông báo cho tôi biết ngay, giờ thích hợp nhất. Hy vọng bà sẽ thứ lỗi cho sự đường đột của tôi, thưa bà? Qua những lá thư bà gửi Lucy, tôi hiểu bà là một phụ nữ nhân hậu đến nhường nào, và tôi cũng rất hiểu người chồng yêu dấu của bà đang phải vật lộn với căn bệnh thần kinh ra sao! Nếu có thể được, tôi đề nghị bà đừng để cho ông ấy biết về chuyện này, vì tôi sợ rằng những gì tôi phải nói với bà sẽ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của ông ấy. Một lần nữa xin bà thứ lỗi.
Van Helsing.”


Điện của bà Harker gửi tiến sĩ Van Helsing


“Ngày 25 tháng 9
Nếu không bận, ngài có thể tới ngay Exeter bằng chuyến tàu 10 giờ 15 ngày hôm nay. Tôi ở nhà cả ngày.
Wilhelmina Harker.”


Nhật ký của Mina Harker



Ngày 25 tháng 9
Tôi thật sự không thể ngồi yên khi chờ đợi Tiến sĩ Van Helsing. Tôi không biết tại sao mình lại sốt ruột như vậy, nhưng tôi hiểu rất rõ một điều: có thể ông sẽ hé mở cho tôi một chút ánh sáng về cái sự thực buồn thảm mà Jonathan đã phải trải qua. Hơn nữa, vì là một thầy thuốc trực tiếp chăm sóc Lucy trong suốt những ngày qua, nên thế nào ông cũng cho tôi biết những gì ông đã cảm nhận được về căn bệnh của cô. Ôi! Tôi đúng là một con ngốc? Có lẽ Van Helsing tới đây chỉ để nới cho tôi biết về Lucy và những cơn mộng du của cô, chứ đâu phải để nói về Jonathan. Vậy là tôi chỉ còn biết cam chịu, chẳng bao giờ biết rõ sự thật về cuộc hành trình của anh... Cuốn nhật ký anh viết ám ảnh tôi nhiều đến nỗi tôi đã tưởng tượng ra đủ điều, thậm chí tôi còn hy vọng bừa ở sự giúp đỡ của Van Helsing nữa chứ! Rõ ràng ông đến đây là để nói với tôi về Lucy! Chắc chắn trong thời gian qua, cô lại bị những cơn mộng du mới. Và có lẽ cuộc miên hành ra vách đá lạnh lẽo giữa đêm khuya hiu hắt ngày nào - một kỷ niệm thật hãi hùng đối với tôi? - đã làm cho cô đổ bệnh nặng. Quả thực trong những ngày qua, vì bận quá nhiều việc riêng, nên tôi đã quên khuấy mất là cô luôn có những trắc trở khiến chúng tôi không thể không quan tâm lo lắng! Chắc chắn Lucy đã kể lại cho Van Helsing nghe chuyện cô đã mộng du tới vách đá cheo leo nọ ra sao và chuyện tôi đã hốt hoảng chạy bổ đi tìm cô như thế nào. Có lẽ Van Helsing định tới đây để hỏi thêm một số chi tiết bổ sung cho hồ sơ bệnh án của ông. Hy vọng tôi đã làm đúng bổn phận của mình khi không nói cho bà Westenra biết cái đêm hãi hùng của cô con gái bà. Tôi sẽ chẳng bao giờ tha lỗi cho chính mình nếu như vì chuyện đó mà tình trạng sức khỏe của Lucy trở nên tồi tệ đi. Tôi cũng hy vọng bác sĩ Van Helsing không oán giận tôi vì những việc tôi đã làm. Dẫu sao thì trong thời gian vừa rồi, tôi đã có quá nhiều phiền muộn mà có đôi lúc tôi cảm thấy mình không thể chịu đựng nổi, nhưng rồi cuối cùng tôi vẫn phải vượt qua! Hẳn là Lucy đã khóc nhiều lắm. Hy vọng là những giọt nước mắt đã làm cô nguôi ngoai đi phần nào nỗi buồn tủi và đau đớn trong những ngày cuối đời...
Sáng nay, Jonathan phải tạm xa tôi, anh chỉ trở về vào sáng ngày mai. Kể từ khi cưới nhau, đây là lần đầu tiên chúng tôi xa nhau lâu như vậy. Hy vọng anh sẽ bảo trọng sức khỏe và cầu mong anh sẽ không gặp chuyện rắc rối... Chuông đồng hồ vừa điểm hai giờ, chắc là bác sĩ Van Helsing cũng sắp đến. Nếu như ông không có lời đề nghị, tôi sẽ không nói cho ông biết về cuốn nhật ký của Jonathan. Về phần mình, tôi có thể dễ dàng sao lại cuốn nhật ký của chính tôi cho ông. Tôi sẽ để ông đọc nếu ông muốn biết thêm chi tiết về Lucy, điều đó sẽ giúp tôi khỏi phải có những lời giải thích dài dòng và phức tạp về cô.
* * * * *
Một lúc sau
Ông đến và lại đi rồi. Quả là một cuộc nói chuyện cảm động và thú vị?... Đầu óc tôi vẫn chưa hết quay cuồng, điên đảo! Tôi có cảm giác mình vừa trải qua một cơn mê. Có thể nào đó lại là sự thật, dù chỉ là một phần thôi? Nếu chưa đọc nhật ký của Jonathan, chắc chắn tôi sẽ không thể tin nổi một lời nào trong câu chuyện quái gở này! Tội nghiệp, tội nghiệp Jonathan quá? Bây giờ tôi mới hiểu đằng sau những cảm xúc vật vã kia, anh đã phải chịu đựng rất nhiều. Chúa muốn tôi không được phép gây thêm đau khổ ê chề cho anh sau những gì tôi vừa được biết. Tôi cần phải nén lòng để giấu kín những gì mà Van Helsing vừa nói. Với tư cách là một thầy thuốc, tiến sĩ Van Helsing hẳn phải là một con người rất tất bụng, vì ông là bạn của Athur và bác sĩ Seward, và chính họ là những người đã mời ông từ Hà Lan tới đây chăm sóc cho Lucy. Vả lại, chỉ cớ gặp ông tôi mới hiểu tấm lòng hào hiệp của ông. Ngày mai, khi ông trở lại, có lẽ tôi phải nói cho ông biết về tình hình của Jonathan và những chuyện đã xảy ra với anh. Cầu Chúa hãy ban phước lành để chúng tôi lại được sống những ngày thật bình yên. Lúc nào tôi cũng nghĩ nghề làm báo sẽ mang lại cho mình một niềm vui Một người bạn của Jonathan làm cho tờ Tin tức Exeter từng có lần bảo tôi rằng trong nghề làm báo, điều quan trọng là phải có trí nhớ, tức là phải có khả năng tái hiện lại một cách chính xác từng lời nói của người được phỏng vấn trước khi biên tập nội dung của vấn đề. Chắc chắn nội dung cuộc nói chuyện của tôi và bác sĩ Van Helsing không phải là điều bình thường, nhưng tôi sẽ cố gắng ráp nối lại từng chi tiết trong câu chuyện xem sao.
Hai giờ ba mươi, chợt nghe tiếng gọi cửa. Tôi hồi hộp chờ đợi. Vài phút trôi qua, người hầu Mary chạy vào báo với tôi Van Helsing đã tới.
Tôi cúi đầu chào vị khách quý. Đó là một người đàn ông tầm thước, khá khỏe mạnh. Con người ông toát lên một vẻ hoàn toàn đáng tin cậy với nét mặt hiền hậu, nhân từ, đôi mắt xanh thẳm, mở to, nghiêm nghị, sáng ngời và nằm không gần nhau, vầng trán cao, hơi vát như càng rộng thênh thang bởi mái mái tóc hung đỏ được vuốt ngược ra sau.
 
- Có phải là bà Harker?
Tôi gật đầu trả lời.
- Người trước kia vẫn được gọi là Mina Murray?
Tôi vẫn chỉ khẽ gật đầu đáp lại.
- Vậy là tôi đang đứng trước cô Mina Murray của ngày nào, một người bạn của đứa con khốn khổ Lucy Westenra.
- Vâng, thưa bà Mina, tôi đến đây là để nói cho bà biết về chuyện của Lucy.
- Thưa ngài, tôi thật không biết làm thế nào để diễn tả hết lòng tốt của ngài, một người bạn đã hết lòng chăm sóc, giúp đỡ Lucy Westenra để cô được sống an lành trong những ngày cuối đời.
Tôi rụt rè chìa bàn tay ra như một cử chỉ biết ơn tấm lòng của một con người luôn biết sống hết mình vì người khác. Ông nắm chặt tay tôi và nhẹ nhàng đáp lại :
- Ôi? Bà Mina, tôi biết rằng bạn của người con gái trong trắng ấy hẳn phải là một người có trái tim thật nhân hậu, nhưng tôi còn phải... nói cho cùng, tôi muốn biết...
Ông bỗng ngập ngừng cúi đầu như một cử chỉ lịch sự trước tôi và chỉ tiếp tục giãi bày khi tôi đề nghị :
- Thế này nhé, thưa bà! Tôi đã đọc tất cả những lá thư bà gửi cho Lucy. Mong bà đừng chấp, nhưng tôi không thể không bắt đầu bằng việc phải hỏi một ai đó, song tôi lại không biết phải tìm ai để mà hỏi. Qua mấy lá thư, tôi biết bà từng có thời gian sống với Lucy và bà Westenra ở Whitby. Tôi cũng biết rằng thỉnh thoảng cô ấy còn viết nhật ký, xin bà đừng ngạc nhiên, thưa bà Mina. Lucy đã viết nhật ký sau khi bà ra đi, tôi thấy dường như cô ấy đã làm theo gương bà thì phải. Đọc nhật ký của cô ấy, tôi cứ ngờ ngợ mình đã tìm thấy những lời bóng gió ám chỉ một cuộc dạo chơi lang thang trong lúc bị mộng du và bà chính là người đã tìm cứu cô ấy. Chính vì vậy nên tôi phải tìm tới đây với hy vọng là bà sẽ cho tôi biết thêm những chi tiết mà bà còn nhớ.
- Thưa bác sĩ Van Helsing, tôi nghĩ tôi hoàn toàn có thể kể lại cho ngài nghe một cách chính xác về toàn bộ cuộc lãng du đó.
- Sao, toàn bộ cuộc lãng du? Toàn bộ các chi tiết!... Nếu thế thì bà quả là người có trí nhớ tuyệt vời đấy, bà Mina ạ! Đó là điều hiếm thấy ở những phụ nữ lúc nào cũng tối mặt vì công việc.
- Thưa bác sĩ, thú thực tôi luôn có thói quen ghi lại những sự kiện hàng ngày mà tôi đã được chứng kiến. Tôi có thể cho ngài thấy điều đó... trong nhật ký của tôi... nếu ngài muốn.
- Ôi! Tôi thật không biết làm gì để cám ơn bà, thưa bà Mina! Bà đã giúp tôi một việc thật có ích?
Tại sao tôi lại phải kìm nén ý định đùa chơi ông một chút cho đỡ căng thẳng kia chứ? Việc gì cứ phải cục mịch như một hòn đất mãi? Tôi nghĩ phụ nữ chúng tôi đâu phải lúc nào cũng như vậy.
Tôi lấy cuốn nhật ký tốc ký của mình đưa cho Van Helsing. Ông lịch sự nghiêng mình cầm cuốn sổ và khẽ hỏi lại :
- Tôi có thể đọc được chứ ạ?
- Tất nhiên! - Tôi điềm nhiên trả lời.
Ông mở cuốn sổ liếc nhanh vài trang. Tôi nhận ngay ra vẻ bối rối trên gương mặt ông. Ông đứng bật dậy nghiêng mình đáp lễ tôi một lần nữa.
- Ồ! Bà quả là một phụ nữ gây cho tôi nhiều ngạc nhiên đấy! Tôi hiểu Jonathan đã ngưỡng mộ bà từ lâu. Thưa bà Mina, sẽ rất vinh dự cho tôi nếu bà giúp tôi đọc cuốn nhật ký này, bởi thú thực với bà là tôi không biết tốc ký?
Tôi thấy trò đùa của mình có vẻ hơi quá nên đâm ra hơi xấu hổ. Vì vậy, tôi chỉ còn cách đưa ngay bản đánh máy cho ông để chữa ngượng.
- Xin ngài thứ lỗi... Tôi biết ngài đến đây là vì chuyện của Lucy, và tôi cũng hiểu có lẽ ngài không có nhiều thời gian để nán lại đây lâu, vì vậy tôi đã chuẩn bị sẵn cho ngài bản sao của cuốn nhật ký.
Van Helsing cầm tập bản thảo đánh máy của tôi, nét mặt ông rạng rỡ hẳn lên.
- Bà quả là một người rất tâm lý và tốt bụng! Nhưng tôi có thể đọc ngay bây giờ được chứ? Bởi chỉ có vậy tôi mới mong bà giải đáp ngay giùm tôi một số thắc mắc.
- Chắc chắn rồi! Ngài cứ việc ngồi đọc, còn tôi sẽ đi kiểm tra xem mấy người giúp việc đã chuẩn bị cơm nước đến đâu rồi. Ngài có thể hỏi tôi tùy thích trong bữa cơm trưa nay.
Vị khách người Hà Lan rối rít cảm ơn tôi một lần nữa rồi tìm ghế ngồi, lưng quay ra cửa sổ. Tôi hiểu ông đã bị lôi cuốn ngay vào những dòng nhật ký kia. Tôi chỉ còn biết về ngay văn phòng để không làm ông cảm thấy bị quấy rầy. Khi quay trở lại phòng khách, tôi thấy ông đang đi đi lại lại khắp phòng, mặt đỏ tía như một chú gà chọi. Thấy tôi bước vào, ông vội chạy lại nắm chặt lấy tay tôi :
- Ôi! Bà Mina đấy à! Tôi biết nói với bà thế nào về bổn phận của mình bây giờ? Cuốn nhật ký này chẳng khác nào một tia nắng mặt trời rực rỡ tỏa sáng trong tôi! Nó đã mở ra trước mắt tôi một cánh cửa... Tôi đang bị chói lòa, thực sự bị chói lòa bởi tia nắng đó. Song không phải là không có những đám mây đen thỉnh thoảng lại lượn lờ đằng sau... Nhưng bà không hiểu tôi muốn nói gì đâu... bà sẽ không thể hiểu được... Chỉ biết rằng tôi còn mắc nợ bà - một phụ nữ thực sự thông minh rất nhiều. Thưa bà, - Ông tiếp tục bằng một giọng rất hệ trọng - tôi hy vọng chừng nào Abraham Van Helsing còn làm được một điều gì đó cho bà, hoặc những người thân thiết của bà, thì chừng đó bà còn có thể tin tưởng ở ông ta. Tôi thích... à, tôi luôn muốn giúp bà như một người bạn, vâng, như một người bạn, nhưng cũng xin nói thêm là một người bạn chân thành, không gì lay chuyển nổi. Vâng, tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để giúp bà và những người bà hằng yêu mến. Cuộc đời thật nhiều điều đen tối, nhưng cũng không vì thế mà mất đi nguồn ánh sáng. Bà chính là một phần của nguồn sáng đó. Bà rồi sẽ được hạnh phúc, được bù đắp tất cả cho những ngày buồn tủi đã trôi qua, và người chồng yếu dấu của bà sẽ tìm thấy ở bà một niềm vui trọn vẹn.
- Nhưng, thưa bác sĩ, có vẻ như ngài ca ngợi tôi hơi nhiều... Làm sao ngài biết được con người tôi kia chứ?
- Tôi mà lại không nhận biết được bà là người như thế nào ư? Tôi, một ông già đã dành cả cuộc đời để trải nghiệm, quan sát sự khác biệt của người đàn ông với người phụ nữ, để nghiên cứu bộ não của con người và tất cả những gì liên quan tới nó, lại không đủ khả năng để nhận ra bà là người như thế nào ư? Tôi, người vừa chăm chú đọc từng dòng nhật ký bắt nguồn từ hơi thở cuộc đời thực của bà, người đã đọc lá thư bà viết cho Lucy ngay sau khi ông bà làm đám cưới, lại không thể nhận biết được con người bà kia đấy! Hỡi ôi! bà Mina ạ, những người phụ nữ độ lượng không phải lúc nào cũng dùng câu chữ để kể về chuyện của riêng mình. Trong cuộc đời này, hàng ngày, hàng giờ và thậm chí là hàng phút trôi qua, các thiên thần bao giờ cũng chú ý đọc thấu câu chuyện mà họ đã viết. Còn những người đàn ông chúng tôi luôn có một khao khát cháy bỏng nhất là được quan sát để nhìn nhận vấn đề, vì vậy mà con mắt của chúng tôi cũng chẳng khác mấy con mắt của các thiên thần. Đức phu quân của bà hẳn phải là một người hào hiệp lắm. Cả bà cũng vậy, vì bà là người luôn có niềm tin ở cuộc sống, và để có niềm tin ở cuộc sống, con người ta cần phải có lòng nhân ái... Mà ông nhà sao rồi? Có lẽ bà phải nói cho tôi biết đôi chút về ông ấy đi. Ông đã hoàn toàn bình phục rồi chứ? Hy vọng là những cơn sốt vô lý ấy không còn hành hạ ông ấy nữa.
Tôi hiểu đã đến lúc phải nói cho Van Helsing biết rõ những gì liên quan đến sức khỏe của Jonathan để xem ông có nhận xét gì.
- Ông nhà tôi gần như đã bình phục, nhưng khổ nỗi cái chết của ngài Hawkins lại giáng cho anh ấy một đòn...
Bác sĩ người Hà Lan ngắt lời tôi :
- Chà? Vâng, tôi hiểu... Tôi hiểu... Tôi đã đọc hai lá thư mới nhất mà bà...
- Nhưng nói cho cùng, tôi tiếp tục, chính vì sự ra đi của người bạn già ấy mà ông nhà tôi đã bị xúc động rất mạnh... Và hôm thứ năm vừa rồi, khi chúng tôi đang ở Luân Đôn, hình như nhà tôi lại bị một cú sốc nữa thì phải.
- Lại một cú sốc nữa? Bị không lâu sau một cơn sốt não...
- Chà, chà! Tai hại thật đấy... Bà thấy ông nhà có biểu hiện như thế nào?
- Jonathan nghĩ anh đã trông thấy một ai đó khiến anh trở lại với một hồi ức khủng khiếp, một hình ảnh chính là nguyên nhân gây nên chứng bệnh hoảng loạn của anh.
Nói đến đây, người tôi chợt run lên như không còn đứng vững được nữa, rõ ràng là tôi cũng đang bị xúc động. Tình yêu tôi dành cho Jonathan, những lo sợ về những gì anh phải trải qua, điều bí ẩn hãi hùng mà tôi đoán già đoán non khi đọc nhật ký của anh, rồi cả sự lo lắng mơ hồ ngày càng lớn trong tôi sau khi đọc những gì anh viết... tất cả dường như đang hùa tới giằng xé ruột gan tôi, khiến tôi gần như bị mất trí trong giây lát, bởi tôi đã quỳ gối, giơ cao hai tay về phía Van Helsing để cầu xin ông cứu giúp chồng tôi. Trông thấy bộ dạng ấy của tôi, ông vội vàng chạy tới buộc tôi đứng dậy và dìu tôi ngồi xuống ghế. Ông bối rối ngồi bên cạnh, tay vẫn nắm chặt tay tôi như một cử chỉ vỗ về an ủi.
- Tôi luôn sống độc thân, - Giọng trầm ngâm của ông như chứa cả một tấm lòng cao cả - bởi cuộc sống của tôi luôn bị choán đầy những công việc, nên có thể nói rằng trước đây, tôi chẳng còn thời gian để mà hy sinh cho bạn bè, người thân. Nhưng kể từ cái ngày cách đây không xa lắm, khi anh bạn trẻ John Seward thân mến mời tôi sang đây, tôi mới chợt nhận thấy rằng cuộc đời có không ít người mang trong mình một trái tim cao thượng, một dòng máu cháy bỏng khát vọng được sống, được yêu và được hy sinh cho mọi người. Vậy mà bao năm qua, tôi chi biết sống cho riêng mình. Xin bà cứ tin rằng tôi đến gõ cửa nhà bà chính là vì sự tôn trọng tuyệt đối tự đáy lòng tôi đối với bà, bởi những lá thư bà gửi cho cô Lucy đáng thương đã mang tới cho tôi một hy vọng tràn trề. Những lá thư ấy không chỉ giúp tôi khám phá một điều gì đó tôi đang tìm kiếm, mà còn giúp tôi hiểu rằng trên đời này còn có những người phụ nữ luôn mang lại một ý nghĩa tất đẹp cho chính cuộc sống, những người phụ nữ mà sự hiện hữu của họ luôn là một tấm gương sáng người cho những đứa con mà họ sẽ sinh ra. Tôi thực sự hạnh phúc khi được tới đây, được làm một việc gì đó vì bà, bởi nếu ông nhà vẫn chưa qua cơn hoảng loạn, tôi tin là mình có thể làm được một việc gì đấy để chữa lành vết thương lòng trong ông. Tôi hứa sẽ dành tất cả kinh nghiệm và sự hiểu biết của mình để giúp Jonathan nhanh chóng bình phục, chỉ có điều là bà phải... phải tin ở tôi...
Tôi chỉ còn biết lặng người nghe ông bộc bạch. Mọi cử chỉ, lời nói của ông đều mách bảo tôi rằng ông quả là một con người mẫu mực, một người bạn tận tụy và chân thành mà tôi hoàn toàn có thể tin cậy. Lời tâm sự của ông đã giúp tôi lấy lại bình tĩnh và cảm giác yên tâm.
Trong bữa cơm trưa, ông hỏi tôi rất nhiều về Lucy và nhiều hơn cả là về Jonathan. Tôi chỉ có thể nói cho ông biết thêm về chứng mộng du của Lucy, còn về những chuyện khác, hẳn là ông đã biết, thậm chí còn biết rõ hơn tôi nữa là đằng khác. Về chuyện của Jonathan, quả thực là tôi thấy rất khó trả lời. Nhưng những thắc mắc của ông dần dà đã gợi ra cho tôi một mối liên hệ nào đó, dù mơ hồ, giữa các sự việc tưởng như chẳng ăn nhằm gì với nhau. Chính cảm giác mơ hồ đó đã thôi thúc tôi quyết định cho ông mượn nốt cuốn nhật ký - mà tôi đã thảo lại bằng máy chữ - của Jonathan. Tôi nghĩ mình đã làm một việc hoàn toàn đúng đắn. Khỏi phải nói Van Helsing đã cảm động như thế nào khi cầm bản sao cuốn nhật ký trên tay trước khi ra về khách sạn.


Thư của Van Helsing gửi bà Harker


Exeter, 6 giờ chiều ngày 25 tháng 9
“Thưa bà Harker,
Tôi thực sự xúc động khi đọc cuốn nhật ký của ông nhà, Tội nghiệp ông ấy quá! Ông đã trải qua biết bao cơ cực với những điều hãi hùng và quái đản. Song thưa bà, xin bà hãy tin đó là sự thực, hoàn toàn là sự thực? Nhưng tôi cũng khẳng định với bà một điều rằng một người đàn ông đủ can đảm để leo xuống bức tường thăm thẳm của tòa lâu đài rùng rợn đó tới hai lần như ông nhà quả không phải là người để chúng ta phải lo lắng. Tôi rất muốn được tiếp kiến ông ấy vào sáng mai.
Chào thân ái.
Abraham Van Helsing.”


Nhật ký của Jonathan Harker


Ngày 26 tháng 9
Thú thực chẳng bao giờ tôi nghĩ mình lại có ngày đặt bút viết tiếp vào cuốn nhật ký. Vậy mà... Tối hôm qua, lúc trở về nhà, Mina đã kể cho tôi nghe cuộc viếng thăm của vị giáo sư người Hà Lan Van Helsing và chuyện cô đã đưa cho ông bản sao cuốn nhật ký của tôi. Tôi cũng đã đọc lá thư mà ông gửi cho vợ tôi chiều hôm qua. Lá thư ngắn ngủi ấy đã đem lại sức mạnh và niềm tin cho tôi. Vâng? Tất cả những gì xảy ra đối với tôi hoàn toàn là sự thật? Nhưng bây giờ tôi đã trở thành một con người khác hẳn: tôi không còn thấy sợ nứa, kể cả trước lão bá tước quái đản kia. Sự xuất hiện sáng nay của Van Helsing quả là một luồng sinh khí thổi vào con người bải hoải, yếu ớt của tôi. Ông đúng là người tôi mong đợi bấy lâu. Tôi đã thú thực với ông tất cả những gì tôi phải trải qua trong cuộc viễn du đầy ác mộng ấy.
Tôi nói với ông rằng đã có lúc tôi không còn biết phải tin vào cái gì và cũng chẳng biết phải hành động ra sao, trông cậy vào ai nữa. Lúc tỉnh táo, lúc mê muội, tôi cảm thấy mình như đang đi vào một vết xe đổ mà không thể thoát ra được. Mặt khác, tôi vẫn phải cam chịu cái mệt mỏi từ những công việc đang càng ngày càng lộ rõ là một lối mòn có vết xe đổ đó, và vì thế mà tôi bắt đầu không còn tin ở chính mình nữa.
- Thưa bác sĩ, chắc là ngài không hiểu nghi ngờ tất cả và nghi ngờ chính bản thân mình là một cảm giác như thế nào đâu? Không, ngài không thể hiểu được! Không thể và không thể? Tôi chẳng nhận ra bất cứ một biểu hiện gì trên vầng trán thanh tao của ngài cả.
Van Helsing phì cười đáp lại :
- Chà! Ông lại còn biết cá nhân tướng học nữa kia đấy! Từ khi tới đây, cứ mỗi giờ trôi qua là tôi lại biết thêm ít nhiều điều mới. Tôi cảm thấy thật vinh hạnh khi được cùng ông chia sẻ bữa điểm tâm ở đây. Ông bạn ạ, ông sẽ cho phép ông già này nói chuyện một cách chân thành nhất chứ? Ông thật hạnh phúc khi có được một người vợ như vợ ông bây giờ! Giáo sư Van Helsing đã không ngớt lời ca ngợi Mina trong suốt cả buổi trò chuyện, đến nỗi tôi chỉ còn biết gật đầu im lặng lắng nghe.
- Bà nhà quả là một người của Chúa. Chúa đã tạo ra bà bằng chính bàn tay của Ngài, để chứng minh cho chúng ta thấy rằng trên đời này thực sự có một thiên đường, một thiên đường mà một ngày nào đó, các con chiên của Ngài đều có thể bước lên. Thiên đường ấy quả thực đang tỏa ánh hào quang rạng ngời xuống cuộc sống trần trụi của trái đất này. Một người có lòng trung thành với Chúa và vôi mọi người, có lòng nhân từ, dịu dàng nết na, biết hy sinh tất cả vì những người xung quanh như bà nhà đâu phải là nhiều trong cái thế kỷ đầy rẫy những nghi kỵ và ích kỷ của chúng ta. Và cả ông nữa, ông bạn ạ... Tôi đã đọc tất cả những lá thư gửi Lucy của bà nhà, trong đó có cả những dòng kể về ông. Vì vậy, không phải đến bây giờ tôi mới biất về ông, song tôi cũng chỉ thực sự hiểu con người ông kể từ chiều tối hôm qua. Nào, ông bạn, tôi bắt tay anh được chứ? Chúng ta sẽ mãi là bạn của nhau.
Chúng tôi xiết chặt tay nhau, sự chân thành của Van Helsing một lần nữa làm tôi thực sự cảm động.
Còn bây giờ, ông tiếp tục tôi có thể đề nghị ông giúp đỡ được chưa? Trước mắt tôi còn một việc rất quan trọng cần phải giải quyết, nhưng để làm được như vậy, điều trước tiên mà tôi cần là phải biết. Tôi tới đây cũng là vì sự giúp đỡ của ông. Ông có thể nói cho tôi biết những gì đã xảy ra trước khi ông hành trình tới Transylvanie được không? Sau đó, có thể tôi sẽ còn phải tiếp tục nhờ cậy ở ông, nhưng là để giải quyết các vấn đề theo một trật tự khác. Chỉ cần ông trả lời câu hỏi đó ìà đủ đối với tôi trong lúc này.


- Nhưng, thưa ngài, tôi chẳng thấy có mối liên hệ nào giữa lão bá tước và câu chuyện mà ông đang bận tâm cả.
- Có đấy, ông bạn ạ! - Ông nghiêm nét mặt trả lời.
- Nếu vậy thì xin ngài cứ tin ở tôi.
Sau bữa điểm tâm, tôi tiễn ông ra ga. Lúc chia tay tôi, ông bảo :
- Nếu tôi mời, ông có thể tới Luân Đôn được không? Tất nhiên là cả bà Mina nữa?
- Chúng tôi sẽ lên đường ngay lập tức nếu ngài cảm thấy tiện.
Tôi mua tặng ông mấy tờ tin buổi sáng, và cả vài tờ tin buổi chiều số ra ngày hôm trước, để ông ngồi đọc trên tàu cho đỡ buồn. Ông vừa bước lên cửa toa xe vừa đọc lướt qua các tít báo. Tôi nhận thấy ánh mắt ông như vừa bị hút vào một hàng chữ lớn trên tờ Westmirlster Gazette; sắc mặt ông bỗng tái nhợt đi ngay sau đó. Tôi nghe rõ tiếng lẩm bẩm sợ hãi của ông :
- Lạy Chúa tôi! Lạy Chúa tôi! Đây rồi! Ra rồi!.
Tôi tin chắc rằng trong tâm trạng xúc động khó hiểu, ông đã quên khuấy sự có mặt của tôi.
Tiếng còi hơi bất chợt rú lên một hồi dài thê thảm trước khi đoàn tàu từ từ chuyển bánh. Van Helsing giật mình trở lại với thực tại, ông ngoái ra khỏi cửa vẫy chào tôi :
- Cho tôi gửi lời chào bà nhà nhé! Tôi sẽ gửi thư cho ông bà ngay khi nào có thể.


Nhật ký của bác sĩ Seward


Ngày 26 tháng 9
Nói cho cùng thì chẳng bao giờ có điều gì kết thúc cả. Kể từ hôm tôi viết chữ “hết” trong nhật ký đến nay vẫn chưa đầy một tuần, vậy mà tôi đã lại phải cầm bút tiếp tục ghi lại những ưu tư của mình, và điều tệ hại là tôi vẫn không thể tránh khỏi những chuyện mà với tôi tưởng chừng phải kết thúc rồi. Đúng là cho đến tận chiều hôm này, tôi chẳng có lý do gì để nghĩ về những gì thuộc về quá khứ cả. Bệnh nhân Renfield đã trở nên hiền hòa hơn bao giờ hết. Từ vài tuần nay, hắn chỉ biết chăm sóc cho đàn ruồi của hắn. Còn bây giờ, hắn như đang bị lũ nhện hút mất hồn, vì vậy tôi không còn bị hắn quấy rầy nữa.
Tôi vừa nhận được thư viết hôm chủ nhật của Arthur. Theo những gì anh nói trong thư, tôi hiểu anh đã dần khỏe trở lại. Quincey Morris đang ở cùng anh để giúp anh trở lại với cuộc sống bình thường sau những cú trời giáng vừa qua. Morris bao giờ cũng là một chàng trai năng động và đầy nhiệt huyết. Cậu ta cũng vừa gửi thư báo cho tôi biết Arthur đã ít nhiều tìm lại được niềm vui của cuộc sống. Như vậy thì tôi yên tâm rồi.
Về phần mình, tôi cũng cố gắng bắt tay vào công việc với sự say sa vốn có của mình. Tôi hoàn toàn có thể tin tưởng rằng vết thương do cái chết bi ai của cô bé Lucy tội nghiệp để lại trong tôi đang dịu đi từng ngày. Hôm qua, Van Helsing tới Exetel và chỉ trở về vào ngày hôm nay. Khoảng năm giờ chiều, ông tới tìm tôi với tờ tin chiều Westminster Gazette trên tay.
- Anh nghĩ thế nào về chuyện này? - Ông vừa nói vừa đưa tờ báo cho tôi rồi lùi lại vài bước, hai tay khoanh trước ngực.
Tôi chỉ đọc lướt qua tờ báo, bởi thú thực tôi vẫn chưa hiểu ông định ám chỉ điều gì. Nhưng ông đã bước tới khẽ giật lại tờ báo và chỉ cho tôi thấy một bài nói về chuyện những đứa trẻ bị mất tích ở khu vực xung quanh Hampstead song đều đã được tìm thấy. Tôi thấy chẳng có điều gì đặc biệt cho tới khi giật mình biết rằng tất cả những đứa trẻ bị mất tích đều bị một vết thương nhỏ, giống như những vết cắn ở cổ. Trong đầu tôi chợt lóe lên một ý nghĩ khiến tôi phải ngẩng lên nhìn thẳng vào mắt Van Helsing.
- Anh nghĩ thế nào?
- Đó cũng chính là những gì đã xảy ra với Lucy.
- Thế anh giải thích như thế nào về điều đó?
- Rất đơn giản, tất cả đều có một nguyên nhân. Cái gì đã làm Lucy bị thương thì cũng làm cho bọn trẻ bị thương.
- Đúng... gián tiếp, nhưng cũng không phải là không trực tiếp?
- Ngài định nói gì vậy, giáo sư?
Thú thực tôi không hiểu giáo sư định nói gì sau câu trả lời ấy. Tôi định phàn nàn là đạo này ông hay nói khó, hoặc thần kinh của ông có vẻ như vẫn chưa ổn định sau những ngày căng thẳng vừa qua, nhưng khi nhìn nét mặt ông, tôi đã phải thay đổi ngay ý định của mình. Quả thực là chưa bao giờ, kể cả khi căn bệnh của Lucy đẩy chúng tôi tới tột cùng của tuyệt vọng, Van Helsing tỏ ra thất kinh như vậy.
- Thế giáo sư nghĩ như thế nào? Xin giáo sư giải thích giùm cho! Có lẽ tôi chỉ biết tưởng tượng chứ không biết lý giải ra sao cả.
- Anh bạn John ạ, anh sẽ không làm tôi tin rằng anh không hề nghi ngờ những gì có thể là nguyên nhân dẫn đến cái chết của Lucy chứ? Tất nhiên, tôi không chỉ đưa ra các sự việc, mà còn phải có cả những lời bình luận, những suy nghĩ day dứt bấy lâu nay để giúp anh hiểu ra vấn đề.
- Có lẽ là suy nhược cơ thể do mất quá nhiều... quá quá nhiều máu, có phải thế không ạ?
- Thế cái mất quá quá nhiều máu như anh nói đó là do đâu, anh có biết không?
Tôi lắc đầu chịu chết. Thấy vậy, ông ngồi xuống bên tôi, rồi tiếp tục câu chuyện của mình :
- Anh thông minh lắm, John ạ. Anh có lý lẽ thật đúng đắn và cũng rất thật thà, nhưng anh đã không tránh được các định kiến chủ quan. Anh không chịu để mắt, để tai đến sự việc, và rõ ràng điều đó đã không trở thành một phần cuộc sống hàng ngày của anh, vì thế nên anh chẳng bao giờ nắm chắc được một điều gì cả. Chẳng lẽ anh không nghĩ trên đời này lại có những điều mặc dù anh không hiểu, nhưng vẫn tồn tại hay sao? Và rồi một số người trong chúng ta có thể thấy được những điều mà người khác không thể thấy nữa? Nhưng công bằng mà nói, trên đời này vẫn còn khối chuyện mà con người ta không thể hiểu nổi bởi vì họ biết hoặc là suy ngẫm, hoặc là nhận biết - những chuyện đó khác với những gì người ta đã dạy cho họ. Thế đấy? Đó chính là khiếm khuyết của khoa học: khoa học lúc nào cũng muốn giải thích tất cả, và khi không giải thích nổi, nó sẽ đưa ra một tuyên bố là chẳng có gì phải giải thích cả. Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy ngày nào cũng có các học thuyết mới - hay nói đúng hơn là các học thuyết tự xưng là mới - ra đời ở đâu đó, thực ra chúng chỉ là những lý thuyết cũ mèm nhưng lại được biện bạch sao cho thật mới mẻ - kiểu như những người đẹp mà ta vẫn thấy trong các nhà hát kịch ấy. Nào, bây giờ tôi xin được hỏi tiếp nhé, anh có tin ở sự biến hóa của các cơ thể không? Anh sẽ trả lời là không chứ? Anh cũng không tin ở thuyết vật chất hóa? Cũng là không? Thế còn các vật chiếu mệnh? Có hay không? Và thuyết đọc được ý nghĩ? Lại không? Vậy anh nói thế nào về phép thôi miên?...
- Có chứ, nhà khoa học Charcot đã có khá nhiều bằng chứng cho chúng ta...
Ông mỉm cười và tiếp tục những lý lẽ của mình :
- Vậy là anh đã bị thuyết phục rồi nhé! Hiển nhiên là anh rất hiểu cơ chế của các thuyết và anh cũng đã để ý cách chứng mình của ông già Charcot! Vậy mà ông ta lại không còn nữa... Này, anh bạn John thân mến này, tôi có cần phải hiểu anh chỉ biết thừa nhận sự việc, hay kết quả của sự việc, một cách đơn giản mà chẳng cần đào sâu thêm vấn đề hay không? Không hả? Vậy thì tôi biết giải thích như thế nào? Xin đừng quên tôi cũng là một chuyên gia về bệnh tâm thần đấy nhé! - về việc anh thừa nhận lý thuyết của chứng mộng du, song lại phủ nhận hoàn toàn phép thần giao cách cảm? Anh bạn ạ, để tôi nói nhé: trong thời đại ngày nay, người ta thừa biết rằng dòng điện được sinh ra từ chính các vật chất mà ngày trước, những người phát minh ra nó đã phải trả giá bằng cả tính mạng của mình. Hồi đó, phát minh của họ bị coi là một trò phù thủy bịp bợm, một hành động báng bổ thần thánh, chính vì vậy mà họ phải chết trên giàn thiêu. Cuộc sống lúc nào cũng đầy những bí ẩn. Tại sao Mathusalem đã sống được chín trăm năm, trong khi cô bé Lucy đáng thương của chúng ta, mặc dù được bốn người truyền máu, lại không thể sống thêm được một ngày? Bởi vì chỉ cần sống được thêm một ngày nữa thôi là có thể cô ấy sẽ được chúng ta cứu sống! Anh có hiểu thấu đáo sự bí ẩn của sự sống và cái chết không? Anh cũng biết tường tận về giải phẫu học so sánh chứ? Nào, anh nói lại, tại sao có một số gã đàn ông lại có tính vũ phu, trong khi những người khác lại không như vậy? Anh có chắc mình đủ khả năng lý giải được hiện tượng là trong khi các con nhện khác đều chết trẻ, thì con nhện khổng lồ từng sống qua nhiều thế kỷ trong tháp một nhà thờ cổ của Tây Ban Nha ấy lại cứ lớn lên, lớn lên mãi cho tới khi đủ sức để bò xuống uống bằng sạch số đầu chứa trong tất cả các ngọn đèn ở đền thờ không? Còn nữa, anh làm thế nào để giải thích cho tôi tại sao, giữa một thảo nguyên mênh mông ở Nam Mỹ, và cả ở các nơi khác cũng vậy, đàn dơi không chỉ lần mò giữa đêm, đi hút máu của những con vật nhỏ bé, mà còn dám trích cả động mạch của những con ngựa to xác để thỏa thuê hút đến những giọt cuối cùng đây? Anh giải thích ra sao về việc ở một số hòn đảo thuộc Đại Tây dương, đàn dơi - vâng, vẫn là loài dơi - lúc nào cũng đậu lơ lửng trên các cành cây, đợi khi các thủy thủ ngủ quay ra trên các boong tàu vì thời tiết nóng nực chẳng hạn, sẽ lao ập xuống người họ, và thế là sáng dậy, người ta thấy họ không còn thở nữa, họ đã chết vì mất máu giống như những biểu hiện của Lucy?
- Chúa ơi! Thưa giáo sư, phải chăng giáo sư định nói rằng Lucy chính là nạn nhân của một con dơi nào đó? Và ở đây, trong cái thành phố Luân Đôn giữa thế kỷ mười chín này, cùng có thể xảy ra một chuyện tương tự?
Ổng khoát tay ra hiệu cho tôi im lặng và tiếp tục :
- Anh có thể giải thích tại sao giống rùa lại sống lâu hơn bao đời người, tại sao loài voi lại được chứng kiến sự suy tàn của hết triều đại này đến triều đại khác của con người, và tại sao con vẹt chỉ chịu chết khi bị cắn bởi một con mèo hay một con chó không? Anh có thể nói cho tôi biết vì lý do gì mà con người, ở mọi lúc và mọi nơi, đều muốn mình được sống vĩnh cửu không? Tất cả chúng ta đều biết - như khoa học đã khẳng định rằng loài cóc có thể sống hàng ngàn năm trong đúng một cái hang nhỏ nằm dưới các mỏm đá. Nào, anh giải thích đi, tại sao một đạo sĩ khổ hạnh Ấn Độ lại có thể tự hy sinh và tự chôn mình lại, rồi cho người niêm phong cửa mộ và gieo lúa mì lên đó. Tại sao người ta vẫn tiếp tục gieo mầm trên đó sau vụ gặt đầu tiên, và tại sao khi những ngọn lúa mới này được gặt đi rồi, người ta lại đến bỏ niêm phong ra và thấy đạo sĩ đang nằm dài trong mộ, không phải là không chết, bỗng lập tức đứng dậy để cùng bước đi với họ?
Ông chợt im bặt. Về phần mình, tôi thấy đầu tôi như sắp nổ tung ra đến nơi. Van Helsing đang bắt tôi chịu đựng toàn những chuyện kỳ quái của tự nhiên, những cái không thể bị biến thành những cái có thể mà trí tưởng tượng của tôi, dù rất phong phú, vẫn không thể hình dung ra nổi. Tôi ngờ rằng hình như ông đang định chứng minh cho tôi thấy một điều gì đó giống như ông đã từng làm ở Amsterdam ngày xưa, có điều là khi đó, ông chỉ muốn tìm cách nói cho tôi biết mục đích buổi lên lớp của ông để tôi có thể lĩnh hội một cách ấn tượng nhất bài giảng của ông mà thôi. Còn hôm nay, tôi không sao nắm bắt được cái điểm khởi đầu trong câu chuyện của ông, nhưng thú thực tôi cũng chẳng có ý định bám theo cái ý tưởng bác học và chuỗi các diễn biến sự kiện mà ông đã nêu ra.
- Thưa giáo sư, - Tôi nói - hãy cứ coi tôi là một học trò được yêu mến của giáo sư như ngày xưa. Xin giáo sư cứ nói thẳng vấn đề để tôi có thể liên hệ với các lý thuyết mà giáo sư đã truyền dạy cho tôi ngày nào, chỉ có vậy tôi mới mong hiểu được những gì giáo sư định nói. Lúc này, tôi chẳng khác gì một kẻ điên, đầu óc tôi hoàn toàn không được thông thái để chắp nối các ví dụ mà giáo sư vừa nêu. Tôi thấy mình như một đứa trẻ đang bì bõm nhảy từ bụi cỏ này sang bụi cỏ khác, giữa một đầm lầy đầy sương mù, mà chẳng biết mình phải đi về đâu.
- Được đấy, anh tưởng tượng cũng được đấy. Thế này vậy, tôi sẽ nói ngay lập tức điều tôi định nói: tôi muốn anh phải tin.
- Phải tin cái gì...?
- Phải tin những điều mà từ trước đến nay anh không tin. Hãy cứ để tôi giải thích. Có lần tôi nghe nói có một người Mỹ định nghĩa về niềm tin như thế này: “Đức tin là một bộ môn cho phép chúng ta tin ở những điều mà chúng ta cho là không đúng”. Tôi hoàn toàn hiểu ý của ông ta. Ông ta muốn nói chúng ta cần giữ cho đầu óc thông thái và đừng để một chân lý nhỏ cản trở sự tiến bộ của một chân lý lớn hơn. Điều quan trọng là trước tiên, chúng ta phải hiểu được cái chân lý nhỏ ấy, song chúng ta cần đánh giá đúng giá trị thật của nó và không được để mình bị thuyết phục rằng đó là chân lý của cả cái vũ trụ bao la này.
- Vậy giáo sư định nói rằng các ý niệm định kiến không thể biến thành chướng ngại cản trở việc thừa nhận các ý niệm khác đặc biệt hơn?
- Chà! Anh lúc nào cũng là một học trò xuất sắc nhất của tôi? Tôi chẳng cần mất nhiều thời gian để giải thích cho anh một điều gì cả? Bây giờ, anh đã sẵn sàng tìm hiểu vấn đề như một bước đi đầu tiên, và tôi tin là anh sẽ hiểu. Vậy thì anh có nghĩ các vết thương nhỏ trên cổ của bọn trẻ đều có chung một nguyên nhân từng gây ra các vết thương mà chúng ta đã thấy trên cổ cô bé Lucy không?
- Có, tôi cho là...
Van Helsing bỗng đứng bật dậy.
- Vậy là anh đã nhầm rồi, anh bạn John ạ. Ôi? Giá như sự thật đúng là như vậy thì đỡ biết bao! Nhưng, lạy Chúa? không phải... Sự thật còn khủng khiếp hơn nhiều, rất nhiều nữa là đằng khác...
- Lạy Chúa tôi! Thưa giáo sư, ngài định nói gì mà tôi không hiểu?
Ông thả người ngồi phịch xuống ghế, khuỷu tay đặt mạnh xuống bàn, hai tay bưng mặt, vẻ thất vọng đến tột độ. Tôi bàng hoàng khi nghe giáo sư nặng nề buông ra một câu :
- Thật đáng tiếc? Những đứa trẻ ấy lại chính là nạn nhân của Lucy?
 
Chương 15

Nhật ký của bác sĩ Seward (tiếp theo)

Nếu Lucy còn sống, chắc hẳn tôi đã không nổi khùng lên đến như thế.
- Giáo sư, ngài điên rồi sao? - Tôi đập bàn đứng dậy nói như quát, mặt đỏ gay gắt.
Van Helsing ngồi yên, ngẩng mặt lên nhìn tôi, ánh mắt nhân hậu của ông làm tôi trấn tỉnh ngay lập tức.
- Lạy Chúa? - Ông nói rất chậm rãi. - Tiếc thật, tôi muốn điên mà không thể điên được! Nếu điên được thì đã dễ chịu đựng một sự thật như vậy hơn nhiều. Chà? Anh bạn ạ, theo anh thì tại sao tôi cứ phải nói nhăng nói cuội mãi trước khi thú thực cái điều rất đơn giản ấy? Chẳng lẽ là do tôi ghét anh như tôi vẫn đối xử với anh từ trước đến nay? Chẳng lẽ tôi muốn anh phải chịu khổ đau thêm nữa? Hay là sau ngần ấy năm, lúc nào tôi cũng rắp tâm trả ơn cứu mạng của anh bằng những lời khó lọt tai ấy? Không phải, hoàn toàn không phải, đúng vậy không anh bạn? Cho tôi có lời xin lỗi, thưa giáo sư. Trái lại, anh bạn ạ, khi nói ra sự thật này, tôi rất muốn làm sao để anh càng ít choáng váng càng tốt, bởi tôi luôn hiểu anh cũng là người rất yêu cô gái ấy. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ cũng vậy, tôi chẳng hy vọng anh sẽ tin tôi ngay lập tức. Thật khó có thể tin ngay ở một sự thực mơ hồ mà điểm xuất phát của lại là một sự ngờ vực, nhất là khi chúng ta luôn có xu hướng muốn có một điều ngược lại. Và sẽ khó khăn hơn thế nhiều nếu phải thừa nhận một sự thật cụ thể, nhất là khi nó khủng khiếp như cái sự thật tôi vừa nói ra. Tối nay, tôi sẽ chứng minh để anh phải tin. Thế nào, anh có dám đi cùng tôi không?
Thấy tôi có vẻ lưỡng lự, ông nói tiếp :
- Suy luận của tôi cũng đơn giản thôi. Nói cho cùng đó hoàn toàn không phải là suy luận của một kẻ mất trí nhắm mắt nhảy bừa từ bụi cỏ này sang bụi cỏ khác, giữa đầm lầy, mà chẳng biết mình phải đi về đâu. Nếu điều tôi nói không phải là sự thật thì bằng chứng sắp tới sẽ giúp chúng ta trút đi một gánh nặng, hoặc ít nhất nó cũng không làm nghiêm trọng thêm câu chuyện định mệnh của Lucy. Nhưng nếu điều tôi nói có thật thì sao? Đó! Vấn đề chính là ở chỗ đó! Song tôi cũng xin được nói rằng chính sự nghi ngại cái có thật sẽ hỗ trợ cho lập luận của tôi, vì điều tôi cần trước hết vẫn là lòng tin ở thực tế như nó vốn có. Tôi định đề nghị anh như thế này: trước hết, chúng ta sẽ tới ngay bệnh viện Phương Bắc để thăm một cậu bé, tức là một nạn nhân mà báo chí vừa đưa tin. Bác sĩ Vincent, người của bệnh viện Phương Bắc, là một người bạn của tôi và có thể cũng là bạn của anh, vì các anh đã có dịp cùng nhau nghiên cứu ở Amsterdam rồi thì phải. Ta cứ đến đó đi, nếu anh ta không thể giúp chúng ta vào thăm nạn nhân thì ít ra cũng phải tạo điều kiện để bạn mình được gặp mấy ông thầy thuốc có liên quan. Hãy đừng vội nói gì với anh ta, trừ phi chúng ta muốn có những chi tiết về ca bệnh này. Sau đó...
- Sau đó thì sao?
Van Helsing rút trong túi quần ra một chiếc chìa khóa và tung tung trên lòng bàn tay :
- Sau đó, tôi và anh sẽ qua đêm trong nghĩa địa, nơi Lucy đang yên nghỉ. Đây là chìa khóa cửa ngôi mộ. Người phu đào huyệt đã nhờ tôi giữ để gửi lại cho Arthur.
Cứ nghĩ tới cái bằng chứng khủng khiếp nào đó là tôi lại cảm thấy chân tay mình sắp sửa rụng rời đến nơi. Tuy nhiên, tôi cũng chẳng thể làm gì khác ngoài việc phải cố gắng tỏ rõ mình cũng là người có khí phách. Vì vậy, tôi đã mạnh mồm giục đi ông nhanh chân, bởi trời sắp tối đến nơi rồi...
Khi chúng tôi bước vào phòng bệnh, cậu bé nạn nhân kia đang thức. Trước đó, nó đã được ngủ sau khi uống một cốc sữa đặc, bởi vậy tình trạng sức khỏe của nó nói chung cũng đã ít nhiều bình phục. Bác sĩ Vincent khẽ bóc lớp băng dán trên cổ cậu bé cho chúng tôi xem hai vết thương nhỏ xíu. Rõ ràng vết thương này cũng giống y như những vết thương trên cổ Lucy, khác chăng là ở chỗ chúng có vẻ tươi hơn và nhỏ hơn một chút. Chúng tôi hỏi Vincent xem anh ta giải thích thế nào về nguyên nhân gây nên vết thương, anh cho rằng cậu bé đã bị cắn bởi một con vật, một con chuột chẳng hạn. Tuy nhiên, anh ta còn nói rằng không thể loại trừ trường hợp đó là vết cắn của một con dơi, bởi ở các vùng cao phía bắc Luân Đôn có rất nhiều đàn dơi đang cư trú. Anh ta giải thích :
“Sống giữa những đàn dơi hiền lành vô hại thỉnh thoảng cũng có một loài dơi hoang dại, hung hãn, từ phía nam tới. Cũng không loại trừ trường hợp có một anh chàng thủy thủ nào đó đã bắt và mang về nhà mình một con dơi như vậy và rồi vô ý để nó xổng mất, hoặc cũng có thể đó là một con dơi sổng chuồng của vườn bách thú. Trong trường hợp này, ai dám đảm bảo đó không phải là giống dơi hút máu người? Bởi vì trong vườn bách thú, người ta đang nuôi rất nhiều loài dơi. Lại còn chuyện này nữa: cách đây chừng chưa đầy mười ngày, vườn bách thú đã để sổng chuồng một con sói, và có người đã thoáng nhìn thấy nó đang lẩn khuất đâu đó trong khu vực quanh đây. Chưa hết, trong suất một tuần nay, người ta kháo nhau rằng lũ trẻ không còn thích trò chơi gì khác ngoài trò Cô bé quàng khăn đỏ. Sẽ chẳng có gì đáng nói nếu như trò chơi này không trùng hợp với sự xuất hiện của người đàn bà nhuốm máu và sự bỏ nhà đi qua đêm của lũ trẻ... Như vậy là bọn nhóc... Cả cậu nhóc này nữa, vừa mới mở mắt tỉnh đậy, nó đã hỏi cô y tá là nó có thể đi khỏi đây được chưa. Khi cô ta hỏi đi đâu, nó nói ngay là nó muốn đi chơi với người đàn bà bí ẩn kia.”
- Hy vọng là khi trả đứa trẻ này về nhà, - Van Helsing nói - anh sẽ nhắc nhở bố mẹ nó phải để mắt tới nó nhiều hơn. Vlệc chúng bỏ nhà đi là rất nguy hiểm, chưa biết chừng còn ảnh hưởng đến tính mạng nữa ấy chứ. Nhưng này, hình như anh còn định giữ cậu nhóc này ở đây vài hôm nữa thì phải?
- Ít nhất là một tuần nữa, hoặc cũng có thể lâu hơn nếu yêu thương của nó vẫn chưa chịu lành.
Cuộc viếng thăm bệnh viện của chúng tôi kéo dài hơn dự kiến. Khi chúng tôi quay ra thì trời đã tối.
- Có vội cũng chẳng giải quyết vấn đề gì. - Van Helsing bảo tôi. - Tôi nghĩ bây giờ vẫn chưa đến nỗi quá muộn... Hay là ta kiếm cái gì ăn cho đỡ đói đi, sau đó có làm gì thì làm...
Chúng tôi vào ăn tối ở quán Lâu đài Jack Straw, nơi có một nhóm tay đua xe đạp đang ngồi ăn nhậu ầm ĩ cùng mấy thanh niên. Khoảng mời giờ tối, chúng tôi rời quán trọ. Ngoài phố, trời tối đen như mực. Rõ ràng Van Helsing đã tăm trước con đường chúng tôi phải đi, bởi tôi thấy ông phăm phăm rảo bước mà chẳng sợ vấp phải bất cứ một trở ngại nào. Còn tôi, thú thực tôi sẽ rất ngượng nếu có người hỏi tôi đang ở đâu. Càng lúc đường đi càng vắng hơn, cho dù đã có lúc chúng tôi gặp một toán cảnh sát cưỡi ngựa đi tuần. Nhưng cuối cùng thì chúng tôi cũng đến dược nghĩa địa. Do cổng nghĩa địa đã khóa, nên chúng tôi phải trèo qua tường vào bên trong. Công việc chẳng dễ chút nào, bởi ở đây trời còn tối hơn ngoài đường phố nhiều nên chúng tôi không thể xác định được mình đang đứng ở chỗ nào. Thế mà rồi Van Helsing cũng nhanh chóng tìm được khu nhà mồ của gia đình Westenra. Ông rút chìa khóa mở cửa nhà mồ, cánh cửa nặng nề nghiến ken két làm tôi dựng tóc gáy. Giáo sư giữ ý lùi lại một bước nhường đường cho tôi vào trước. Tôi cảm thấy trong một hoàn cảnh như vậy, cử chỉ lịch thiệp của ông có cái gì đó thật khôi hài. Ông cẩn thận đóng cửa, rồi móc trong túi ra một bao diêm và mẩu nến cháy dở để thắp soi đường. Ngôi nhà mồ, mới hôm nào còn để lại trong tôi một cảm giác gần gũi thân thương là thế, lúc này bỗng làm tôi rùng mình ớn lạnh. Những cánh hoa trắng ngần dành cho Lucy giờ đây đã úa tàn, rơi rụng thành một màu đất, nhường chỗ cho mạng nhện đan chằng chịt. Bụi thời gian ngàn năm vẫn tiếp tục lầm lũi làm cái công việc câm lặng của nó là xóa nhòa đi tất cả những gì thuộc về cuộc sống ngắn ngủi này. Cảnh đêm trong nhà mồ sao mà rùng rợn đến thế! Tôi sợ mình sắp sửa tưởng tượng ra những điều hãi hùng nhất có thể có trong một đêm tối mịt mùng, giữa nghĩa địa quạnh hiu, những điều mà tôi chỉ được biết trong các câu chuyện kỳ bí hoang đường.
Van Helsing bắt tay vào công việc một cách có tính toán. Ông giơ cao ngọn nến, khom người đọc những hàng chữ khắc trên từng chiếc quan tài. Những giọt nến thỉnh thoảng lại rơi độp xuống nắp một quan tài như muốn đẩy sự căng thẳng của tôi đến tột độ. Tới trước quan tài của Lucy, giáo sư chợt cúi xuống móc trong túi đồ mang theo một chiếc tuốc-nơ-vít.
- Ngài định làm gì vậy? - Tôi hỏi.
- Mở nắp quan tài. Có lẽ phải như vậy anh mới chịu tin!
Ông cặm cụi mở từng chiếc vít và khệ nệ nhấc chiếc nắp gỗ nặng trịch sang một bên, để lộ ra một lớp bọc chì trong quan tài. Có lẽ sức chịu đựng của tôi đã lên tới cực độ, hành động của ông khiến tôi hổ thẹn như phải chứng kiến cảnh người ta đang lột quần áo của một phụ nữ đang say giấc nồng. Tôi giơ tay định ngăn lại, nhưng ông vẫn thản nhiên đáp :
- Yên tâm đi, rồi anh sẽ được thấy tất cả?
Đoạn ông lôi trong túi đồ ra một cái cưa sắt nhỏ. Tôi chưa kịp hiểu chuyện ra sao đã thấy ông nhanh tay căm phập chiếc tuốcnơvít vào lớp bọc chì và ngoáy thành một lỗ khá rộng, đủ để đưa lưỡi cưa vào. Tôi sửng sốt nhảy lùi lại mấy bước, vì sợ cái mùi xú uế từ trong quan tài sắp sửa xộc ra. Nhưng giáo sư vẫn cặm cụi với công việc của mình mà chẳng cần quan tâm đến điều gì khác ngoài cái mục đích cuối cùng của mình. Ông cưa lớp bọc chì theo một đường hình vuông, sau đó giật ra một mảnh khá rộng. Thấy tôi vẫn nghệt mặt đứng một chỗ, ông vẫy tay gọi lại.
Tôi thận trọng tiến từng bước về chiếc quan tài. Lạ chưa? Dưới ánh sáng mờ mờ tỏ tỏ của ngọn nến, tôi nhận thấy chiếc quan tài rỗng tuếch như chưa từng có gì ở bên trong.
Người tôi bủn rủn như muốn rụng rời chân tay. Quả là một cú sốc thực sự đối với tôi, nhưng với Van Helsing thì không: tôi thấy ông vẫn đứng thản nhiên như đã biết trước mọi việc từ lâu rồi. Hơn lúc nào hết, tôi chợt hiểu ông đã nói đúng!
- Bây giờ anh đã chịu tin chưa, anh bạn John? Tâm phục khẩu phục rồi chứ?
Tuy nhiên, tôi vẫn chưa chịu :
- Tôi công nhận là Lucy không nằm ở trong quan tài, nhưng dù sao thì sự thật này vẫn chỉ chứng tỏ được một điều.
- Điều gì vậy, John?
- Điều gì ? Thi thể của Lucy không có trong quan tài, thế thôi.
- Lập luận hay đấy! Nhưng anh giải thích như thế nào... anh định lý giải như thế nào về việc thi thể cô ta lại không nằm ở trong đó?
- Có thể do bị trộm đột nhập... Hoặc giả là thi thể cô ấy đã bị lấy đánh cắp bởi chính các nhân viên của nhà đòn...
Tôi cũng hiểu ngay rằng mình đang nói những lời thật ngây ngô, song dù sao thì đó cũng là lời giải giải thích duy nhất mà tôi có thể nghĩ ra trong lúc này.
Nghe tôi cãi, Van Helsing chỉ còn biết thở dài :
- Thôi được! Vậy là chúng ta lại phải tìm thêm một bằng chứng nữa rồi. Anh hãy theo tôi ra ngoài kia!
Ông lặng lẽ đậy nắp quan tài lại, nhặt dụng cụ, thổi tắt nến, rồi bỏ tất cả vào trong túi đồ. Chúng tôi mở cửa bước ra ngoài. Khóa cửa xong, giáo sư giơ chiếc chìa khóa lên bảo tôi :
- John này, nếu cảm thấy thích thì anh cứ cầm lấy, có lẽ phải như vậy anh mới hết nghi ngờ.


Tôi cười gượng, gạt đi :
- Một chiếc chìa khóa thì có nghĩa lý gì? Biết đâu chẳng còn cả chục cái như vậy nữa ấy chứ, mà cái ổ khóa kia có phải là khó mở đâu.
Van Helsing im lặng bỏ chiếc chìa khóa vào túi và chỉ tay bảo tôi nấp sau một cây thông để quan sát những gì sẽ xảy ra, trong khi ông một mình đi kiểm tra đầu bên kia nghĩa địa. Đứng nấp sau cây thông quả đỏ, tôi còn trông rõ bóng ông trước lúc ông khuất hẳn vào những lùm cây đen sẫm.
Thú thực tôi đã mất tự tin khi phải đứng một mình trong nghĩa địa, giữa đêm tối dày đặc như thế này. Tiếng chuông đồng hồ chợt vẳng tới từ xa xăm, khiến tôi không khỏi rung mình. Vậy là đã nửa đêm rồi. Tôi vẫn sốt ruột chờ đợi. Một giờ, rồi hai giờ... Tiếng chuông thỉnh thoảng lại cất tiếng ngân dài lê thê như từ thế giới bên kia vọng về. Tôi cảm thấy ớn lạnh dọc sống lưng, nếu cứ như thế này thì có lẽ tôi sẽ chẳng còn đủ sức bình sinh và lòng kiên nhẫn để mà đứng rình mãí ở đây. Có lẽ đây cũng là những giây phút khó nhọc nhất mà tôi không thể quên được trong đời.
Bất giác, tôi ngoảnh lại phía sau và giật thót người khi bất ngờ nhìn thấy một vệt trắng lờ nhờ đang luồn lướt qua khoảng trống giữa hai cây thông phía bên kia nhà mồ. Cùng lúc đó, một bóng đen sẫm bất thình lình xuất hiện đúng chỗ giáo sư đang đứng. Tôi định băng tới nhưng không được, bởi tôi không thể nhảy qua những nấm mồ mà không vấp ngã lộn cổ.
Bầu trời vẫn tối đen như mực, dù thỉnh thoảng đã có tiếng gà gáy đâu đây.
Cách tôi không xa, phía sau những cây bách xù trồng bên lối đi dẫn tới nhà thờ, lại là một bong trắng mờ ảo đang tiến nhanh về phía khu mộ nhà Westenra. Tuy nhiên, cái bóng ấy cũng đã nhanh chóng biến khỏi tầm mắt tôi sau những lùm cây, tôi không thể xác định nó chạy về hướng nào. Chỉ còn tiếng những bước chân gấp gáp ở ngay tại nơi cái bóng trắng ấy vừa đi qua. Vài phút sau, tôi thấy Van Helsing đột ngột xuất hiện trở lại, hai tay ôm một đứa trẻ.
Vừa bước tới chỗ tôi, ông hỏi luôn :
- Thế nào, bây giờ thì cậu vẫn chưa chịu tin chứ?
- Chưa!
- Thế anh không trông thấy thằng nhóc này sao?
- Có, tôi trông thấy nó từ nãy... Nhưng ai dẫn nó tới đây mới được chứ? Nó có bị thương không?
- Sẽ biết ngay thôi mà.
Ông chỉ nói có vậy rồi bế thằng bé đi thẳng ra phía cổng nghĩa địa. Tôi mỏi mệt bước theo sau.
Chúng tôi dừng chân bên một lùm cây um tùm. Van Helsing đánh điểm kiểm tra cổ thằng bé. Không có một vết xước nào, dù là rất nhỏ.
- Tôi nói cũng đúng đấy chứ? - Tôi hỏi, giọng đắc thắng.
- May mà chúng ta đã tới kịp! - Giáo sư đáp lại cùng một tiếng thở phào.
Biết phải làm gì với thằng nhóc này bây giờ? Nếu mang nó tới một đồn cảnh sát, chắc chắn chúng tôi sẽ phải giải trình với họ tại sao lại tìm thấy nó, và như vậy thì không ổn chút nào. Vậy là chúng tôi phải quyết định mang nó ra ngoài trảng, khi nào nghe thấy tiếng cảnh sát, chúng tôi sẽ thả nó ở một chỗ mà cảnh sát không thể không nhìn thấy. Ngay sau đó, chúng tôi sẽ tìm cách chuồn càng nhanh càng tất. Và tất cả đều đã trôi qua êm xuôi đúng như chúng tôi mong đợi.
Lúc vừa đến trảng, chúng tôi đã nghe thấy tiếng bước chân nặng nề của một viên cảnh sát. Sau khi thả cậu nhóc bên một lối nhỏ, chúng tôi lẩn vội vào một lùm cây chờ cho đến khi viên cảnh sát cầm đèn đi ngang qua và thất lên một tiếng kinh ngạc, vì bất ngờ nhận ra nạn nhân nhỏ tuổi ngồi chơ vơ một mình. Chỉ đợi có vậy, hai chúng tôi bấm tay nhau lủi thật nhanh. Cũng may vừa ra tới đường cái, chúng tôi gặp ngay một chiếc xe ngựa chở khách đang trên đường vào thành phố.
Tưởng rằng mình sẽ chẳng thể ngủ được, tôi nằm vắt tay lên trán suy nghĩ, định bụng liên hệ các sự việc rời rạc với nhau để tìm ra một sợi dây nào đó xuyên suất vấn đề, nhưng rồi lại thiếp đi từ lúc nào không biết, bởi khi Van Helsing đến gọi tôi thì trời đã trưa rồi. Ông định rủ tôi mò mẫm một lần nữa.
* * * * *
Ngày 27 tháng 9
Đã hai giờ đồng hồ trôi qua kể từ khi chúng tôi quyết định liều lĩnh với toan tính thứ hai này. Việc chôn cất một người xấu số nào đó, được bắt đầu từ trưa, vừa kết thúc; bạn bè và gia quyến người quá cố đang lục tục kéo nhau ra về. Ngồi nấp sau một lùm cây, chúng tôi trông thấy rõ người phu đào huyệt - người cuối cùng trong nghĩa địa đang chuẩn bị thu dọn những công việc cuối cùng. Chỉ lát nữa thôi, anh ta sẽ khóa cổng, và chúng tôi sẽ được tự do làm những gì mình muốn cho tới tận sáng mai. Nhưng giáo sư bảo chúng tôi chỉ cần tối đa một tiếng đồng hồ là đủ. Cũng như hôm trước, tôi lại bắt đầu trải qua một cảm giác ghê sợ mơ hồ không sao diễn tả nổi, mặc dù bây giờ đang là ban ngày, và dù tôi đã cố gắng tưởng tượng ra những hình ảnh tốt lành nhất. Tôi hoàn toàn hiểu rằng để làm xong cái công việc khó hiểu này, có thể chúng tôi sẽ phải hứng chịu sự trừng phạt của luật pháp. Hơn nữa, thú thực tôi vẫn tin công việc chúng tôi sắp làm chỉ là một trò vô tích sự? Nếu như việc mở nắp quan tài ra để xem cái thi thể mà người ta đặt vào đó từ hơn một tuần nay đã chết thật hay chưa là một trò ghê tởm, thì việc vất vả quay trở lại nhà mồ một lần nữa để chứng tỏ chiếc quan tài rỗng tuếch như tôi đã tận mắt chứng kiến - bây giờ quả là một hành động hoàn toàn điên rồ! Song tôi không có ý định bình luận gì về điều mình đang nghĩ, vì tôi luôn hiểu một khi Van Helsing đã nung nấu điều gì trong đầu thì khó có ai có thể lay chuyển được ông. Bởi vậy, tôi vẫn lặng im nhìn ông lấy chìa khóa mở cửa nhà mồ. Cũng như lần trước, ông né người sang một bên như một cử chỉ lịch sự nhường lối cho tôi vào trước. Cảnh bên trong nhà mồ có vẻ đỡ rùng rợn hơn buổi đêm khuya, nhưng ánh mặt trời lọt qua khe cửa sao vẫn yếu ớt và mỏng manh quá! Van Helsing bước lại gần quan tài Lucy, tôi lầm lũi bước theo sau. Ông cúi xuống nhấc nắp quan tài và mảnh chì bọc đã cưa rồi lần trước đặt sang một bên. Tôi thật không còn tin ở mắt mình nứa: vâng, lại một lần nữa tôi phải kinh ngạc, kinh ngạc đến khiếp sợ!
Lucy đang nằm trong đó, đúng với tư thế chúng tôi đã chứng kiến khi người ta đặt cô vào quan tài cách đây ít hôm. Có một điều rất lạ là thi thể cô lúc này trông đẹp hơn bao giờ hết, khiến tôi không thể tin là cô đã chết. Cặp môi cô vẫn đỏ như son, còn đỏ hơn so với khi cô còn sống, và cả đôi má kia cũng ửng hồng rạng rỡ như vừa được đánh một lớp phấn hảo hạng.
- Chẳng lẽ lại là một trò ảo thuật? - Tôi hỏi, trong long chưa hết sửng sốt.
- Bây giờ anh đã chịu chưa? - Vừa hỏi, Van Helsing vừa thò tay xuống phía xác chết. Hành động của ông khiến tôi muốn nôn mửa: ông đang vén cặp môi của người đang nằm, để trơ ra hai hàm răng trắng ởn.
- Anh hãy nhìn đi, nhìn cho thật kỹ vào: hai hàm răng cô ta trước kia có nhọn như thế này không? Đây chính là những chiếc răng đã cắn vào cổ mấy cậu bé đây. Bây giờ thì anh không thể nghi ngờ được gì nữa, đúng vậy không, John?
Tôi vẫn muốn cãi lại, muốn phủ nhận những gì là hiển nhiên đối với ông, song lại tuyệt đối không thể chấp nhận được đối với tôi.
- Thế nhỡ đêm hôm qua, có người đã mang thi thể Lucy trả lại đây thì sao?
- Thế hả? Anh thử nói xem kẻ nào vậy?
- Làm sao tôi biết được. Nhưng chắc chắn phải có người đã mang xác chết về chỗ cũ của nó!
- Thì cứ cho là như vậy đi, nhưng Lucy đã chết từ hơn một tuần nay rồi kia mà. Chẳng lẽ sau chừng ấy ngày, xác chết lại không thể thay đổi được sắc diện hay sao?
Đến đây thì tôi chịu cứng họng. Tuy nhiên, Van Helsing chẳng buồn để ý đến sự bế tắc của tôi, đâu đó cũng là một phần tính cách của ông, trong mọi trường hợp, rất ít khi tôi thấy ông tỏ thái độ bực dọc hay thỏa mãn ra mặt. Ông đang chăm chú quan sát khuôn mặt của Lucy, một lần nữa tôi cảm thấy lợm giọng khi thấy ông vạch môi kiểm tra hai hàm răng của kẻ xấu số.
Đoạn ông quay sang bảo tôi :
- Dường như còn có một cái gì đó rất khác biệt với tất cả những gì tôi được biết từ trước tới nay. Chúng ta đang đứng trước một hiện tượng phân đôi hóa cuộc sống rất hiếm khi gặp cô bé này đã bị một con ma cà rồng cắn khi đang trong trạng thái thôi miên, mộng du... ơ kìa? Anh giật mình đấy à? John ạ, đúng là anh không biết thật, nhưng tôi sẽ giải thích để anh hiểu... Khi cô gái rơi vào trạng thái ảo giác, hẳn con ma đó đã tới hút sạch máu trong người cô. Cô đã chết trong trạng thái miên man. Mặt khác, cô cũng trở thành một kẻ không-chết trong cùng một trạng thái bởi chính quyền năng của con ma ấy. Đây là nguyên nhân khiến cô không hề giống với những trường hợp khác. Thông thường, khi những người bất tử ngủ tại “nhà” mình, - giáo sư vừa nói vừa khoát tay như muốn nhắc tôi rằng những con ma cà rồng nào đó đang ở “nhà mình” tại các nghĩa địa - bộ mặt của chúng luôn bộc lộ những nét gớm ghiếc đặc trưng không thể không có ở chúng. Nhưng đằng này, nét mặt Lucy vẫn dịu dàng đến kỳ lạ và chẳng mang một vẻ gì là dấu ấn của quỷ dữ cả. Chính vì vậy mà việc giết Lucy trong lúc cô đang ngủ như thế này là một điều hết sức khó khăn đối với tôi.
Dòng máu trong người tôi như sắp đóng băng lại đến nơi. Dường như cái lý luận của Van Helsing đã dần dần thuyết phục được tôi. Nhưng nếu Lucy chết thật rồi thì việc gì phải sợ khi quyết định giúp cô yên phận một lần nữa kia chứ?
Giáo sư đưa mắt nhìn tôi, không hiểu sao giọng ông lại có vẻ vui hơn trước, có lẽ cảm xúc trong ông đang thay đổi thì phải :
- A! Bây giờ thì anh đã chịu tin tôi rồi, phải vậy không?
- Không đến nỗi nhanh thế đâu. Thú thực là càng muốn thừa nhận ý kiến của ngài bao nhiêu thì tôi lại càng cảm thấy phải suy nghĩ nhiều bấy nhiêu. Thế ngài định giải quyết như thế nào?
- Phải đóng một cái cọc vào thân người kẻ bất tử, nơi bên trái lồng ngực, sau đó bỏ đầy tỏi vào miệng cô ấy.
Suýt nữa tôi lại quát vào mặt giáo sư. Tôi thật không thể chịu nổi cái cảnh người ta băm vằm thân xác của một cô gái mà tôi hằng yêu thương? Tuy nhiên, tôi vẫn cố kìm nén cảm xúc trong lòng. Người tôi bắt đầu run lên khi sực nhớ ra sự tồn tại của một thực thể xa lạ, một kẻ mà giáo sư gọi là người bất tử. Người con gái tôi yêu đã trở thành một loài tồn tại ghê tởm. Chẳng lẽ tình yêu lúc nào cũng mang hai thái cực như vậy sao?
Cái khoảnh khắc chờ đợi Van Helsing ra tay hành động dường như đang kéo dài vô tận. Ông vẫn đứng đó, bất động, chìm nghỉm trong dòng suy tư của mình.
Cuối cùng, tôi thấy ông lấy chân gạt phắt túi đồ sang một bên và nói bằng một giọng thật quả quyết :
- John ạ, tôi đã nghĩ kỹ rồi, cần phải hành động sao cho có hậu nhất. Nếu cứ làm theo thiện kiến của mình, chắc chắn tôi sẽ phải ra tay ngay lập tức - đúng thế, ngay bây giờ. Nhưng không thể không lường trước những hậu quả mà chúng ta chưa thể tưởng tượng nổi. Rõ ràng Lucy chưa giết hại một người nào, nhưng đó chỉ là vấn đề thời gian. Nếu bây giờ ra tay, tôi sẽ vĩnh viễn loại cô ta ra khỏi nguy cơ đe dọa đối với bao nhiêu người. Nhưng mặt khác, chúng ta cũng không thể không hỏi ý kiến của Arthur. Thú thực tôi vẫn chưa biết phải giải thích toàn bộ câu chuyện với cậu ta như thế nào bây giờ. Nếu như cậu ta đã thấy vết thương trên cổ Lucy và những vết thương trên cổ các nạn nhân nhỏ tuổi trong bệnh viện; nếu như cậu ta đã tận mắt chứng kiến chiếc quan tài, chỉ mới hôm qua thôi, còn rỗng tuếch, nhưng hôm nay đã lại xuất hiện nguyên vẹn một người con gái mà hơn một tuần sau khi qua đời, bỗng trở nên tươi tắn và xinh đẹp hơn bao giờ hết; nếu anh, người đã trực tiếp thấy một bóng trắng mờ mờ ảo ảo lôi kéo một đứa trẻ vào nghĩa địa giữa đêm hôm khuya khoắt hôm qua, còn cảm thấy khó tin ở mắt mình, thì làm sao có thể hy vọng Arthur - người hoàn toàn chưa được tận mắt trông thấy gì cả - sẽ tin ở câu chuyện tôi kể kia chứ? Anh ta sẽ nghi ngờ mà hỏi tại sao tôi lại cản trở anh ta ôm hôn Lucy khi cô ấy sắp chết. Nếu có thứ lỗi cho tôi thì chẳng qua cũng là vì anh ta tin rằng tôi đã ngăn cản anh ta nói lời vĩnh biệt với cô gái do một chẩn đoán sai lầm. Và bây giờ, rất có thể anh ta sẽ tin rằng chính vì sự sai lầm đó mà cô gái đã bị chôn sống. Nói tóm lại, anh ta sẽ nghĩ chính chúng ta đã giết chết cô gái bởi những sai lầm chồng chất. Và thế nào anh ta chẳng nghĩ chúng ta chỉ là những kẻ lừa bịp dốt nát, là thủ phạm giết chết cô gái để cố chứng tỏ việc làm của mình là đúng. Kết quả là càng ngày anh ta càng cảm thấy bất hạnh hơn, và khổ một nỗi anh ta sẽ chẳng bao giờ chắc chắn được một điều gì. Đó chính là điều tệ hại nhất. Khi thì anh ta nghĩ người yêu mình bị người ta đem chôn sống, và thế là những cơn ác mộng nào đó sẽ trở nên quái ác đến bội phần khiến cho anh ta không khỏi hình dung ra những điều khủng khiếp nhất mà cô gái từng phải hứng chịu, khi thì anh ta lại tự nhủ có thể chúng ta đã làm đúng, và rốt cuộc thì cô gái đúng là một kẻ không chết như tôi đã bảo. Chà! Cũng đã có lần tôi nói bóng gió với anh ta về điều tồi tệ nhất có thể xảy ra, nhưng có lẽ chưa bao giờ anh ta tưởng tượng nổi một cảnh trái khoáy và oan nghiệt như thế này. Còn bây giờ tôi chỉ có thể dám chắc được một điều: Arthur cần phải trải qua những giờ phút khó khăn và cay đắng trước khi có một cuộc sống bình yên trọn vẹn mãi sau này. Lạy Chúa! Anh chàng tội nghiệp ấy còn phải tiếp tục trải qua những khoảnh khắc thê lương mà đối với anh ta, bầu trời sẽ như sắp đổi sập xuống. Tuy nhiên, sau đó chúng ta sẽ phải làm sao để anh chàng trở lại với sự bình yên, thanh thản trong lòng. Phải như thế... Bây giờ, có lẽ ta về đi. Anh sẽ quay về với các bệnh nhân của mình. Còn tôi, tôi sẽ qua đêm ở đây, giữa chốn nghĩa địa này. Sáu giờ chiều mai, anh hãy tới tìm tôi ở Khách sạn Berkeley. Tôi sẽ viết vài dòng gửi Arthur để mời anh ta và cả anh chàng người Mỹ Quincey Morris tới đây luôn thể. Tất cả chúng ta đều có rất nhiều việc phải làm... Bây giờ, tôi sẽ cùng anh tới Piccadilly ăn cái gì trước đã, sau đó tôi sẽ cố gắng trở lại đây trước khi mặt trời lặn.
Van Helsing lặng lẽ khóa cửa nhà mồ và cùng tôi đi về phía tường rào nghĩa địa. Tôi trèo ra trước, ông ra sau. Hai chúng tôi lầm lũi trở lại con đường dẫn tới quán trọ Piccadilly.


Thư gửi bác sĩ John Seward của Van Helsing cất trong valy tại khách sạn Berkeley


Ngày 27 tháng 9
“John thân mến,
Tôi phải viết mấy dòng gửi anh đề phòng trường hợp có chuyện bất trắc xảy ra mà không còn cơ hội được gặp lại anh. Tôi phải quay trở lại nghĩa địa để theo dõi tình hình mà tôi đã dự đoán. Tôi muốn ngăn cản người bất tử, tức Lucy, ra khỏi nhà mồ vào tối nay để đêm mai, cô ta càng ham muốn thoát ra khỏi đó hơn. Tôi sẽ gắn vào cửa nhà mồ những thứ mà kẻ không chết đó không thích là tỏi và cây thánh giá, chỉ cần vậy là đủ để giữ cửa cô ta. Có điều tỏi và cây thánh giá chỉ có tác dụng ngăn cản Lucy trốn ra ngoài, chứ không phải là một đảm bảo để cô ta từ bỏ ham muốn ra ngoài đó. Tôi sẽ ở lại nhà mồ suốt đêm, kể từ lúc mặt trời lặn cho tới khi bình minh thức dậy, để nếu có chuyện gì xảy ra còn có cái mà báo cho anh. Về những gì liên quan đến Lucy, hoặc là đối với bản thân cô ta, hoặc là xuất phát từ cô ta, tôi chẳng hề lo ngại.
Điều đáng lo ngại lại xuất phát từ một thế lực nào đó vốn là nguyên nhân biến Lucy thành kẻ không chết kia. Thế lực ấy hiện có quyền năng để tìm đến ngôi mộ của cơ và trú ẩn ở trong đó. Hắn là kẻ cực kỳ xảo quyệt. Tôi nói vậy không phải là chỉ nghe theo lời kể của Jonathan, mà còn căn cứ vào nhiều thủ đoạn kẻ xảo quyệt đó từng giở chiêu trước chúng ta khi hắn can dự vào cuộc đời của Lucy và biến chúng ta thành kẻ thua cuộc. Trong thực tế, người không chết luôn rất khỏe. Một tay hắn có khi còn khỏe hơn cả chúc người. Việc bốn chúng ta lần lượt hiến máu cho Lucy rất cuộc cũng chỉ là việc làm vô ích. Đã thế, thế lực hắc ám ấy còn có quyền năng gọi được cả chó sói và có thể là những hoang thú khác mà tôi còn chưa biết. Nói tóm lại, nếu hắn tới nghĩa địa vào đêm nay, hắn sẽ đụng phải tôi. Nhưng cũng có thể là hắn sẽ không tới. Lãnh địa săn lùng của hắn hẳn sẽ còn nhiều con mồi khờ dại hơn ở cái bãi tha ma hoang. vu này, nơi chỉ có một cô gái trẻ bất tử là Lucy đang ngủ và một ông già là tôi đang thức.
 
Dù sao thì tôi cũng vẫn cứ viết mấy dòng ngắn ngủi này gửi anh để nếu có bề gì... Anh hãy cầm cuốn nhật ký của Harker, những giấy tờ khác mà tôi đã sắp sẵn cùng với lá thư này, rồi đọc và nghiền ngẫm cho kỹ nhé. Sau đó, anh phải can đảm hơn để thay tôi hành động. Hãy làm như tôi đã nói: dù rất đau lòng, anh cũng phải tìm đến kẻ bất tử ấy để hỏa thiêu trái tim địa ngục hoặc phải đóng cọc vào thi thể của cô ta. Có như vậy mọi người xung quanh chúng ta mới thoát khỏi một tai họa tiềm ẩn do cô ta gây ra sau này.
Chào tạm biệt, hoặc có thể là vĩnh biệt!
Van Helsing.”


Nhật ký của bác sĩ Seward


Ngày 28 tháng 9
Kể ra ngủ được một đêm đối với tôi lúc này cũng là một điều rất tất. Hôm qua, tôi hầu như đã chấp nhận hết các ý tưởng quỷ quái của Van Helsing. Tôi không còn nghi ngờ việc ông luôn tin vào những gì ông đã kể, song thỉnh thoảng tôi vẫn tự hỏi có lúc nào đầu óc ông bị rối loạn hay không. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận ông có một cách giải thích rất phù hợp với tất cả những điều mà tôi thấy là bí ẩn kia. Hơn nữa, ông còn là người thông minh và kiên quyết đến ngoan cố. Mỗi khi hăng tiết lên, ông sẽ tìm mọi cách để thực hiện cái ý định của mình - cho dù đó là ý định gì và tất nhiên, chẳng có gì có thể cản trở được ông. Thú thực tính cách của ông cũng có đôi lúc làm tôi phiền lòng, và điều tôi sợ nhất lúc này là có người bảo ông điên! Nhưng nói gì thì nói, bây giờ tôi sẽ phải luôn để mắt tới ông, bởi trên đời này chẳng có chuyện gì là không thể xảy ra! Dĩ nhiên, tôi cũng phải xác định xem có ánh sáng nào dẫn đến câu chuyện bí ẩn kia hay không.
* * * * *
Ngày 29 tháng 9
Khoảng gần mười giờ tối hôm qua, Arthur và Quincey rủ nhau đến phòng Van Helsing. Giáo sư đã nới với chúng tôi những gì ông chờ đợi ở từng người, song người ông quan tâm nhiều hơn cả tất nhiên vẫn là Arthur, cứ như thiện ý của tất cả chúng tôi chỉ tùy thuộc ở anh ta không bằng.
Ông bắt đầu câu chuyện bằng việc bày tỏ hy vọng cả ba chúng tôi sẽ nghe theo lời ông, “bởi chúng ta - ông nói cụ thể phải cùng nhau hoàn thành một nhiệm vụ vừa thiêng liêng vừa rất khó nhọc.” - Chắc là anh đã rất ngạc nhiên khi đọc thư tôi? – Ông hỏi Arthur.
- Vâng, quả là như vậy. - Arthur trả lời. - Tôi đã có quá nhiều chuyện phiền muộn, quá nhiều điều phải bận tâm trong thời gian qua. Cầu mong tôi có đủ nghị lực để dễ dàng vượt qua tất cả! Tôi và Quincey đã nói với nhau rất nhiều về lá thư của ngài. Chúng tôi chưa hiểu chính xác lá thư ấy định nói gì. Càng bàn, chúng tôi càng không hiểu. Tôi chỉ có thể nói dù đã nghĩ nát óc, rất cuộc tôi vẫn chẳng rõ...
- Cả tôi cũng chịu chết, thưa giáo sư. - Quincey ngắt lời.
- Ồ? Vậy thì các anh sẽ hiểu vấn đề nhanh hơn anh bạn John đây. Ánh ta đã phải đì đẹt suốt cả một chặng đường dài, để bây giờ mới bắt đầu láng máng nhìn ra những gì ngay trước mặt.
Rõ ràng là dù tôi chưa tham gia một lời nào, ông vẫn đoán được là tôi còn chưa hết nghi ngờ. Ông quay sang giải thích với hai vị khách kia bằng một vẻ hết sức nghiêm trọng :
- Tôi định xin các anh cho phép tôi tối nay được làm cái việc mà tôi cân nhắc là phải làm. Có thể tôi đòi hỏi ở các anh hơi nhiều. Chỉ khi nào biết ý định của tôi, các anh mới cân đong những đòi hỏi mà tôi đưa ra. Vậy tôi có thể đề nghị các anh cho phép tôi mà không cần quan tâm đến việc tôi phải làm là gì, để sau đó, nếu muốn, - điều này tôi nghĩ rất có thể xảy ra - các anh cũng chẳng có gì phải tự trách mình không?
- Vậy thì xin giáo sư cứ nói thẳng ra. - Quincey sốt sắng đề nghị. - Tôi tin ở giáo sư. Dù chưa biết ngài đi về đâu, nhưng lúc nào tôi cũng hiểu rằng trong bết cứ hoàn cảnh nào, dự định của ngài cũng đều là tất đẹp. Và với tôi, chỉ cần thế là đủ.
- Cảm ơn anh bạn trẻ. Thật vinh dự khi có một người bạn đáng tin cậy như anh, và sẽ chẳng bao giờ tôi quên được điều đó Van Helsing đáp lễ và chìa tay cho Quincey.
- Thưa bác sĩ Van Helsing, - Đến lượt Arthur lên tiếng - tôi thật không muốn mua mèo trong túi như người ta vẫn nói, nhưng điều tôi lo ngại là ở chỗ nếu danh dự của một nhà quý tộc và đức tin ở Chúa lòng lành của tôi bị tổn hại, thì chắc chắn tôi không thể đưa ra lời hứa như ngài đã đề nghị. Ngược lại, nếu ngài đảm bảo với tôi điều mà ngài định làm không gây nguy hại đến người này hay người khác, thì tôi có thể để ngài được tự do hành động ngay bây giờ, cho dù tôi không rõ là ngài đang dự định điều gì.
- Tôi xin chấp nhận các điều kiện của anh, - Van Helsing đáp lời - và tất cả những gì tôi đề nghị bây giờ là trước khi phản đối hành động này hay hành động khác của tôi, các anh hãy nên suy nghĩ và tìm hiểu cho thật kỹ xem tôi có gì không đáp ứng được các điều kiện đó không.
- Đồng ý - Arthur hứa. - Bây giờ tôi có thể hỏi ông về những gì chúng tôi sẽ phải làm được rồi chứ?
- Tôi muốn các anh sẽ cùng tôi tới nghĩa trang Kingstead với một ý thức giữ bí mật tối đa.
Althur sửng sốt hỏi lại, mặt như dài ra :
- Tới nghĩa trang Lucy đang yên nghỉ?
Giáo sư gật đầu trả lời.
- Thế rồi sao nữa?
- Sao nữa à? Chúng ta sẽ cùng vào nhà mồ nhà cô ấy.
Arthur đứng bật dậy.
- Bác sĩ Van Helsing, ngài không đùa đấy chứ?... Xin lỗi, nhìn ngài thì không có vẻ gì là không nghiêm túc ở đây cả.
Arthur lại từ từ ngồi xuống, rõ ràng anh đang cố giữ ý tứ. Ngồi trầm ngâm một lát, anh mới hỏi nhỏ, vẻ nhượng bộ :
- Thế khi nào chúng ta vào trong đó?
- Chúng ta sẽ mở nắp quan tài của Lucy. - Van Helsing nói tiếp mà không trả lời thẳng vào câu hỏi của Arthur.
- Ngài thật quá quắt! - Arthur đứng phắt dậy, vẻ tức giận ra mặt. - Cái gì cũng vừa vừa, phai phải thôi chứ! Tôi chỉ có thể kiên nhẫn trong chừng mực nào đó, nhưng đằng này... cái kiểu làm ô ụế chỗ an nghỉ... của một người đã...
Cơn thịnh nộ làm cho Arthur không thể nói được nữa.
Van Helsing buồn buồn nhìn anh, vẻ thương hại :
- Anh bạn tội nghiệp ạ, nếu như tôi có thể tránh gây cho anh bị xúc động mạnh như vậy thì chắc rằng Chúa luôn biết tôi sẽ làm điều đó? Nhưng đêm nay, chúng ta vẫn buộc phải đi vào một con đường đầy chông gai, nếu không sau này, mãi mãi về sau này, người con gái.anh hằng yêu thương sẽ phải chìm ngập trong những nẻo đường đầy lửa bỏng của địa ngục!
Arthur ngước mắt nhìn ông bác sĩ già, mắt tái dại đi.
- Thưa ngài bác sĩ, xin ngài ăn nói cẩn thận cho!
- Có lẽ trước hết, các anh hãy chịu khó lắng nghe tôi nói ra những gì tôi phải nói đi. - Van Helsing điềm tĩnh đáp lại. Nói cho cùng thì anh vẫn rất cần phải biết ý định của tôi. Anh cớ muốn tôi nói ngay cái ý định đó ra bây giờ không?
- Có khi nên thế thì tốt hơn! - Quincey muốn nói như muốn làm dịu đi bầu không khí nặng nề của cuộc nói chuyện.
Van Helsing ngồi yên lặng một hồi lâu, dường như ông đang chuẩn bị tinh thần để nói ra cái điều mà ông thấy là rất khó nói. Cuối cùng, ông vẫn phải đi thẳng vào vấn đề :
- Cô Lucy đã chết rồi, đúng không ạ? Tất nhiên ai trong chúng ta cũng biết điều đó. Nếu đúng là như vậy thì sẽ chẳng có gì làm hại được cô ấy. Nhưng nếu cô ấy không chết thì...
Arthur bỗng nhảy chồm đậy và gào lên :
- Lạy Chúa? Ngài đang lải nhải cái gì thế? Chẳng lẽ lại là một trò bịp bợm ? Chẳng lẽ người ta đã chôn sống cô ấy?
- Tôi không nói là khi đó, cô ấy còn đang sống, anh bạn ạ, và tôi cũng không hề nghĩ như vậy. Tôi chỉ nói có thể cô ấy đã trở thành một kẻ không chết, thế thôi.
- Không chết? Rồi lại không sống nữa chứ gì? Ngài nói như vậy là thế nào? Chẳng lẽ tôi vẫn chưa qua được cơn ác mộng của đời mình hay sao?
- Trên đời luôn có những điều bí ẩn mà trí tuệ con người chỉ biết phỏng đoán mà chẳng biết phải lý giải như thế nào; cũng có những bí ẩn mà mỗi thế kỷ trôi qua, người ta chỉ dần dần làm sáng tỏ được từng phần nội dung của nó mà thôi. Xin hãy tin ở tôi, anh bạn ạ, quả thực chúng ta đang đứng trước một bí ẩn như vậy, và hy vọng chúng ta sẽ tìm được chìa khóa của nó. Hãy cứ để tôi tiếp tục công việc với sự cho phép của anh. Anh sẽ cho phép tôi đóng cọc vào người Lucy chứ?
- Ối trời cao đất dày ơi - Arthur bỗng rống lên thảm thiết, có vẻ như cơn tức giận và sự đau khổ của anh đã lên tới tột độ - Ôi, Chúa ơi! Đừng hòng có chuyện tôi để người ta làm nhục cô ấy. Bác sĩ Van Helsing, ngài làm giọt nước tràn ly rồi đấy! Tôi đã làm gì nên nông nỗi để ngài phải hành hạ tôi như vậy? Lucy có tội tình gì khiến ngài phải lôi bạn bè đến làm ô uế nơi an nghỉ của cô ấy như vậy? Ngài bị điên khi nói ra những lời rồ dại ấy, hay tôi điên khi phải nghe những lời ngài nói? Từ rày trở đi, xin ngài đừng mơ tưởng có thể làm ô uế nơi an nghỉ của cô ấy. Đừng hòng nhé! Tôi phải che chở cho cô ấy, Chúa sẽ chứng giám rằng tôi sẽ tìm mọi cách để làm tròn nghĩa vụ của mình?
Van Helsing rời khỏi đivăng, nơi ông ngồi từ nãy đến giờ, và nghiêm giọng đáp lại :
- Cả tôi cũng vậy, huân tước Godalming ạ, tôi cũng có một nghĩa vụ buộc phải hoàn thành mà không thể nào khác được. Đó là nghĩa vụ đối với mọi người, với chính anh và người con gái đã nằm xuống ấy. Tất cả những gì tôi cần ở anh bây giờ là tin ở tôi, theo tôi đến nghĩa trang để tận mắt chứng kiến, để thấy, để nghe những gì sẽ xảy ra. Sau đó, nếu tôi vẫn đưa ra lời đề nghị như vừa rồi và anh không tiện trả lời, thì tôi xin được... xin được thực hiện nghĩa vụ của mình trong trường hợp cần thiết. Mọi chuyện tôi sẽ giải thích với anh sau.
Giọng ông nhỏ dần, rồi im lặng, rồi lại chợt khẽ vang lên, nhưng lần này có vẻ hơi tủi thân :
- Nhưng tôi cầu xin anh hãy đừng giận tôi nữa! Trong suốt cuộc đời mình, chẳng mấy khi tôi được làm những việc dễ chịu cả. Thậm chí đã có lúc tôi phải giáp mặt với những việc đau xé lòng mà không thể bỏ qua. Anh tưởng tôi không biết nghĩ sao? Tôi cũng buồn lắm chứ, tê tái lắm chứ! Nhưng đời là vậy mà! Có mấy ai lúc nào cũng được như mong muốn của mình đâu. Tuy nhiên, tôi cùng phải thừa nhận rằng chưa bao giờ tôi phải làm tròn một bổn phận nào khó khăn như cái bổn phận đang chờ đợi tôi. Hãy tin ở tôi, anh bạn ạ, hãy tin là nếu có một ngày, tình cảm của mọi người đối với tơi bỗng thay đổi hẳn, chỉ còn lại tình cảm của một người bạn như anh thôi... Với tôi, như vậy cũng là quá đủ để xua đi những ưu phiền về cái giờ phút buồn tủi này, bởi tôi đã làm cái mà một con người có thể làm để anh vợi đi phần nào những vết thương lòng. Anh cứ thử nghĩ mà xem? Tại sao tôi phải lăn lộn như thế! Tại sao tôi cứ nhất nhất phải chuốc vào mình những việc phiền phức đến thế? Tôi từ Hà Lan sang đây để hết lòng chăm sóc một bệnh nhân. Đầu tiên, tôi đến chỉ là để đáp lại lời mời của anh bạn John đây. Sau đó, tôi đã không quản ngày đêm để chữa trị cho một cô gái - người đã dần dần mang lại trong tôi cảm hứng của một tình bạn thật sự. Biết nhắc lại chuyện này là không hay, nhưng tôi vẫn phải nói tôi cũng đã từng hiến máu cho cô ấy, giống như anh đã từng làm với dòng máu từ trái tim mình. Vâng, tôi đã cho cô gái một phần dòng máu của tôi. Song chỉ có điều với cô ấy, anh là một người chồng chưa cưới, còn tôi, tôi chỉ là một thầy thuốc và hơn chăng cũng chỉ là một người bạn. Tôi đã dành cho cô ấy trọn nhiều ngày, thậm chí là nhiều đêm nữa, và tôi không chỉ làm vậy trước khi cô ấy chết, mà còn suất cả thời gian cô ấy không còn sống nữa. Nếu như cái chết của tôi có thể làm nhẹ đi phần nào cái số mệnh nghiệt ngã của cô gái, người hiện đã trở thành một kẻ bất tử, thì tôi xin được sẵn sàng ngay lập tức.
Thật không khó để nhận ra trong giọng nói của Van Helsing có hàm chứa một cái gì đó thật chua chát, song cũng không thiếu sự cảm thông. Tôi hiểu Arthur cũng đang rất xúc động trong một tâm trạng rối bời, bởi sau một hồi im lặng ngồi nghe vị giáo sư tâm sự, anh đã run run đứng dậy bắt tay ông như một cử chỉ hối hận, và đáp lại bằng một giọng như đứt hơi :
- Trời ơi! Mọi sự sao mà rối bời, tang thương và khó hiểu đến thế! Nhưng thôi được, tôi sẽ theo giáo sư đến nghĩa trang. Rồi chúng ta sẽ thấy...



Chương 16


Nhật ký của bác sĩ Seward (tiếp theo)


Gần nửa đêm, chúng tôi trèo tường vào nghĩa địa. Trời tối đen như mực, trừ những lần hiếm hoi mảnh trăng khuyết bất ngờ xuất hiện lấp ló sau những đám mây khổng lồ lững lờ trôi. Van Helsing dẫn đường, chúng tôi bám sát theo sau. Đến gần ngôi mộ, tôi phải để mắt tới Arthur, vì tôi sợ những kỷ niệm buồn có thể sẽ làm anh xúc động mạnh. Nhưng cũng may là anh còn làm chủ được mình. Có lẽ câu chuyện khó hiểu mà Van Helsing vừa nói ra đã ít nhiều làm anh quên mất những ưu tư trong lòng. Thấy chúng tôi ai cũng có vẻ do dự, giáo sư bèn mở cửa vào trước. Đợi chúng tôi vào hết, ông khép cửa, thắp đèn, và chỉ nơi đặt quan tài của Lucy. Arthur chần chừ đi trước, trong khi Van Helsing hỏi chuyện tôi.
- Hôm qua, anh đã tới đây với tôi. Lucy không còn nằm trong quan tài, đúng không?
- Đúng thế!
Đoạn ông quay sang bảo hai anh chàng còn lại :
- Các anh nghe thấy rồi chứ? Thế mà vẫn còn có người không tin tôi đấy!
Van Helsing lại đến bên quan tài, khom người mở vít, nhấc chiếc nắp gỗ sang một bên. Arthur im lặng trố mắt đứng nhìn, mặt tái xanh. Khi nắp gỗ được đặt ra ngoài, anh hồi hộp tiến lại gần hơn. Rõ ràng anh không biết bên trong quan tài còn có một lớp bọc chì. Nhìn thấy vết cắt trên lớp vỏ chì, mặt anh chợt đỏ bừng lên, rồi lại tái đi. Van Helsing nhấc tiếp mảnh chì bị cắt, chúng tôi giương mắt nhìn kinh ngạc.
Chiếc quan tài lại rỗng không!
Chúng tôi chết lặng người, chẳng ai nói với ai một lời. Cuối cùng, Quincey Morris là người lên tiếng trước :
- Thưa giáo sư, như tôi đã nói, tôi rất tin ở ngài. Lời nói chân tình của ngài đủ làm tôi tin. Bình thường, tôi sẽ chẳng đặt ra cho ngài một câu hỏi nào để rồi ngài lại bảo tôi vẫn ngờ vực ngài, nhưng ở đây, chúng ta đang đứng trước một bí ẩn hoang đường đến nỗi tôi không thể không hỏi ngài một câu Ai đã làm nên chuyện này vậy, thưa ngài?
- Trước tất cả những gì linh thiêng nhất, tôi xin thề với các anh rằng tôi không mang cô gái ra khỏi nơi đây và cũng tuyệt đối không dính dáng gì đến chuyện này. Chuyện xảy ra là thế này: tối hôm kia, tôi và anh bạn John đã tới đây vì những ý định tất đẹp nhất, xin cứ tin ở tôi. Tôi đã mở nắp quan tài, khi đó còn gắn xi kín, và nhận thấy trong quan tài chẳng có gì cả, y như bây giờ vậy. Vì thế, chúng tôi quyết định đứng rình ở bên ngoài và quả thực chúng tôi đã phát hiện ra một bóng người mặc toàn đồ trắng chập chờn xuất hiện giữa các bóng cây. Hôm qua, chúng tôi lại quay lại đây, nhưng là vào ban ngày, và trông thấy Lucy đã nằm trong này từ lúc nào. Tôi nói vậy có phải không, anh bạn John?
- Phải.
- Đêm đầu tiên, chúng tôi đã đến kịp thời. Lại thêm một cậu bé nữa bị mất tích, nhưng ơn Chúa, chúng tôi đã tìm thấy cậu ta giữa những nấm mồ và cũng may là chưa hề bị thương gì. Hôm qua, sau khi tới một lần vào bàn ngày, tôi có quay trở lại đây ngay trước lúc mặt trời lặn, bởi trong thời gian mặt trời lặn, những kẻ bất tử có thể ra khỏi mộ. Tôi ngồi đợi ở đây suất từ lúc ấy cho tới sáng, nhưng không trông thấy gì bất bình thường. Đơn giản là vì tôi đã treo tỏi và cây thánh giá, tức là những thứ mà người bất tử rất kỵ, lên cánh cửa nhà mồ. Đêm hôm nọ, người bất tử đã bỏ ra ngoài. Hôm nay cũng vậy, trước lúc mặt trời lặn, tôi đã tới gỡ tỏi và thánh giá ở trên cửa xuống. Chính vì vậy mà chiếc quan tài mới rỗng không như thế này. Nhưng cứ theo tôi cái đã, còn có những chuyện kỳ dị hơn sắp xảy ra nữa đấy. Hãy cùng tôi nấp ở một chỗ không xa đây lắm, rồi các anh sẽ biết tôi nói thật hay nói láo. Nào, ra khỏi đây thôi.
Ông đậy lại nắp đèn lồng, đợi chúng tôi ra hết để khóa cửa.
Chà! Ra ngoài này mới thấy không khí mát mẻ và dễ thở hơn ở trong cái nhà mồ rùng rợn kia nhiều Thật dễ chịu khi được trở lại với những đám mây hững hờ rong ruổi trên bầu trời đêm. Tôi chợt cảm thấy ánh trăng nhạt nhòa lấp ló giữa những đám mây tang bồng mang đủ hình thù kỳ lạ kia là một khoảnh khắc dịu êm hiếm hoi, vụt cắt ngang qua những phiền muộn đang trĩu nặng trong lòng mình. Cũng thật nhẹ người khi được hít thở cái không khí ít chở nặng mùi xú uế và chết chóc ở bên ngoài. Tôi phần nào thấy yên tâm trong lòng khi nhận ra những tia sáng mảnh mai đầu tiên đang sắp sửa ló rạng sau một ngọn đồi xa xa và những âm thanh thật mơ hồ vọng tới từ một thành phố lớn. Nhưng dù vậy, nét mặt chúng tôi vẫn không giấu được vẻ căng thẳng khi ra khỏi nhà mồ. Arthur vẫn lặng im, tôi đoán anh đang cố vắt óc suy nghĩ tại sao lại xảy ra những chuyện vô lý ấy. Còn tôi, càng ngày tôi càng cảm thấy bị thuyết phục bởi những kết luận mà Van Helsing đã đưa ra. Trong khi đó, Quincey vẫn không có biểu hiện gì, hay nói đúng hơn, trông anh có biểu hiện của một người đã thừa nhận tất cả những gì người khác nói, nhưng là thừa nhận một sự nghi hoặc trong lòng. Biết là không thể châm thuốc hút, anh lấy sợi thuốc vê bỏ vào miệng nhai. Về phần mình, Van Helsing vẫn mải mê với công việc. Ông lấy một vật gì đó trông giống như một chiếc bánh quy, hoặc một chiếc bánh thánh mỏng, được gởi cẩn thận trong một mảnh khăn trắng, rồi tiếp đó là hai vốc chất gì đó trăng trắng là bột mì thì phải. Ông bóp vụn miếng bánh quy và trộn lẫn bột thành một cục. Sau đó, ông về bột thành những sợi dài và mảnh để trát kín vào các khe cửa nhà mồ. Việc ông làm không khiến tôi ngạc nhiên, nhưng tôi vẫn hỏi xem ông làm như vậy là vì mục đích gì. Cả Arthur và Quincey cũng tò mò sán lại gần nghe ông giải thích :
- Tôi làm vậy cốt là để người bất tử không thể trở lại trong ấy được.
- Chẳng nhẽ cái bột vớ vẩn ấy cũng có tác dụng thế sao?
- Quincey hỏi, vẻ không tin. Tôi thấy cứ như là ngài đang đùa ấy!
- Đùa à?
- Nhưng thực ra ngài đã dùng những thứ gì vậy? - Đến lượt Arthur tò mò hỏi.
- Bánh thánh. Tôi đã cất công mang đi từ Amsterđam. Giáo hoàng cho tôi đấy.
Câu trả lời của Van Helsing đã khéo đánh vào sự hoài nghi của chúng tôi và dĩ nhiên, ai cũng phải cảm thấy rằng trước ý định nghiêm túc như vậy của giáo sư, một ý định khiến ông phải sử dụng tới một vật linh thiêng nhất, chúng tôi không thể nghi ngờ gì được nữa. Sau khi lấp kín các khe cửa bằng thứ bùa thiêng ấy, ông chỉ chỗ nấp xung quanh nhà mồ cho từng chúng tôi. Chỗ ông chọn cũng thật khéo. Từ chỗ nấp của mình, chúng tôi có thể bao quát được một tầm khá rộng, nhưng ngược lại, không một người ngoài nào có thể phát hiện ra chúng tôi. Tự nhiên tôi cảm thấy ái ngại cho hai người bạn cùng đi, nhất là Arthur. Dầu sao thì tôi cũng thấy quen với cảnh vật lờ nhờ ghê sợ nơi tha ma hơn họ nhờ những lần đi trước. Tuy nhiên, nếu chưa đầy một giờ đồng hồ trước tôi còn phủ nhận những chứng cứ mà Van Helsing đã đưa ra, thì bây giờ tôi lại thấy tim mình như sắp nhảy ra khỏi lồng ngực. Tôi mơ hồ cảm thấy sự thực càng ngày càng đúng là sự thực. Chưa bao giờ tôi cảm thấy các ngôi mộ trong đêm lại hiện lên toàn một màu trắng mờ ảo đáng sợ đến như vậy. Chưa bao giờ những cây bách, cây thông quả đỏ, cây đỗ tùng kia lại bao trùm một vẻ bi ai đến vậy. Từng lùm cây, ngọn cỏ trước mắt tôi cũng chưa bao giờ rung lên trước gió với một vẻ ma quái như thế. Nhìn đâu tôi cũng thấy bí ẩn, lạnh lẽo và thê lương, ngay cả những tiếng rền rĩ, tru tréo của bầy chó nhà từ xa xăm vọng tới cũng khiến tôi liên tưởng đến một điềm gở nào đó đang sắp đổ ập xuống cõi địa ngục này.
Chúng tôi ngồi chờ đợi trong im lặng, một sự im lặng sâu thẳm khiến tôi có cảm giác như có thể nghe rõ cả tiếng kêu than ai oán của những oan hồn dưới lòng đất. Tôi chợt giật mình khi nghe tiếng kêu khe khẽ của giáo sư: “Ssuỵt... suỵt suỵt!” Ông giơ tay chỉ về phía một cái bóng lờ nhờ trắng như sương mù đột ngột xuất hiện giữa những cây thông quả đỏ đang tiến về phía chúng tôi.
 
Đúng một bóng người mặc bộ đồ trắng đang ôm trên ngực một cái gì đó tôi tối. Cái bóng bồng bềnh bỗng dừng lại đúng vào lúc mảnh trăng bất ngờ xuất hiện giữa hai đám mây đen: đó là một người đàn bà khoác trên mình một tấm vải liệm. Chúng tôi không nhìn rõ khuôn mặt của ả, bởi ả đang cúi đầu xuống cái mà ả đang ôm trên tay. Dưới ánh trăng mờ tỏ, chúng tôi nhận ngay ra một đứa trẻ tóc vàng. Chúng tôi giật mình khi nghe thấy một tiếng kêu ré lên giữa đêm trăng. Âm thanh ấy tựa hồ tiếng một đứa trẻ giật mình thảng thốt trong giấc ngủ, hoặc một tiếng chó hất hoảng trong cơn mê gần đống lửa. Chúng tôi định nhảy bổ về phía ả, nhưng Van Helsing, lúc này vẫn đang nấp sau một cây thông trước tầm mắt chúng tôi, đã phẩy tay ra hiệu dừng lại. Cái bóng trắng ấy tiếp tục cất bước khi những đám mây che kín mảnh trăng con. Thoắt một cái đã thấy ả xuất hiện ngay trước mắt chúng tôi. Dưới ánh trăng một lần nữa bất ngờ ló rạng sau giữa những đám mây, khuôn mặt ả hiện lên khá rõ. Tim tôi như chết đứng, cùng lúc đó, tôi nghe thấy tiếng kêu thất kinh của Arthur: chúng tơi vừa nhận ra những nét quen quen của Lucy. Lucy Westenra, nhưng sao cô có nhiều thay đổi đến như vậy? Sự dịu dàng mà chúng tôi từng biết nơi cô đã nhường chỗ cho sự thô cứng, tàn nhẫn và độc ác. Khuôn mặt ngây thơ thuở nào nay đã bị hằn sâu bởi ham muốn nhục dục. Van Helsirlg rời khỏi nơi ẩn nấp, chúng tôi cũng bật dậy lao ra, bốn chúng tôi đứng chắn trước cửa nhà mồ. Van Helsing mở nắp đèn lồng, giơ cao lên ngang ngực, để ánh sáng hắt vào mặt người đàn bà trước mặt.
Lạy Chúa! Cặp môi ả đang ướt ướt đỏ máu tươi, vâng, máu chảy thành một dòng xuống cằm và rớt cả xuống cổ áo. Một lần nữa chúng tôi cảm thấy rùng mình ớn lạnh. Trong ánh đèn lồng chờn vờn, tôi biết ngay cả bộ thần kinh thép của giáo sư Van Helsing cũng ít nhiều bị chao đảo. Arthur đứng bên tôi, nếu không có tôi chạy tới đỡ một tay, chắc là anh đã ngã khuỵu xuống đất rồi.
Trong khi đó, Lucy tôi gọi kẻ đang đứng trước mặt là Lucy, bởi ả mang hình hài của Lucy vừa lùi lại phía sau vừa kêu hộc lên một tiếng đầy tức giận, giống như một con chuột bị sập bẫy, và đưa ánh mắt hằn học nhìn hết người này đến người khác. Về hình dáng bề ngoài và màu sắc thì đó đúng là đôi mắt của Lucy, nhưng về ánh mắt thì không, sự dâm ô và hằn học của lửa địa ngục đã thế chỗ cho sự ngây thơ và dịu dàng trong ánh mắt của người con gái tôi yêu ngày nào. Những gì còn vương lại trong tình yêu của tôi lập tức biến thành một cảm giác hận thù và kinh tởm. Tôi bỗng muốn chính tay tôi được làm việc kết thúc sự tồn tại trong tội lỗi của ả. Vẫn bằng cái nhìn sáng quắc và độc ác, ả cất tiếng cười nhăn nhở, ngây ngô và đầy tà dâm. Nhìn ả mà lợm giọng!... Và vôi hành động của một con quỷ cái, ả bất ngờ quẳng đứa trẻ mà ả vẫn ôm từ bấy đến giờ xuống trước mặt, miệng ả gầm lên một tiếng vừa tức giận, vừa như tiếc rẻ. Trông ả chẳng khác nào một con chó đói buộc phải từ bỏ một miếng xương béo ngậy.
Đứa trẻ kêu ré lên một tiếng khiếp đảm rồi nằm im một chỗ, miệng rên rỉ không ngớt. Sự nhẫn tâm như không của ả khi vứt đứa trẻ xuống đất khiến Arthur hộc lên một tiếng đau đớn. Sau hành động không còn nhân tính ấy, ả lừ lừ tiến về phía Arthur: ả vừa cười vẫn nụ cười lả lơi lời mời chào ấy vừa chìa hai tay ra trước, mắt long lanh nhìn người tình của dĩ vãng. Arthur chỉ còn biết lùi lại, hai tay bưng mặt sợ hãi.
Nhưng ả vẫn lừ lừ bước tới, vừa đi vừa gọi tên bạn tôi, giọng ả nghe du dương như không có thật trong cuộc đời này, hai tay ả đong đưa như mơn chớn vào hư không :
- Lại đây với em đi, Arthur. Đừng theo các bạn anh nữa, hãy đến với em đi. Em muốn được ôm anh trong vòng tay ân ái! Lại đây! Từ giờ trở đi, chúng ta sẽ yên nghỉ cùng nhau? Ôi, lại đây nào, người chồng của em? Lại đây với em nào!
Giọng nói dịu dàng nhưng ma quái của ả, tựa hồ tiếng kêu lách cách của thủy tinh va vào nhau, cứ ngân mãi, ngân mãi trong đầu tôi. Trong khi đó, Arthur như bị mê hoặc, hai tay anh không còn ôm mặt mà dang rộng ra như chờ đón ả. Chỉ đợi có vậy, người đàn bà dâm đãng lập tức lao vào đôi tay của người bị bùa ngải như muốn tìm một chỗ ẩn náu an toàn. Nhưng ngay lúc đó, Van Helsing đã nhảy ra chặn đường ả với cây thánh giá vàng giơ ngang trước mặt. Kẻ không chết lập tức lùi lại, mặt ả giật giật trong một cơn giận cuồng loạn, ả nhảy tránh sang một bên và chạy nhanh về phía nhà mồ như muốn trốn vào trong đó.
Nhưng khi chỉ còn cách cửa nhà mồ chừng một, hai bước chân, ả bỗng khựng lại bởi một sức mạnh vô hình bất khả kháng đã ngăn ả tiến xa hơn. Không thể làm gì khác, ả quay phắt lại nhìn chúng tôi, mắt long sòng sọc dưới ánh trăng thanh và ánh đèn lồng trên tay vị giáo sư già. Chưa bao giờ tôi trông thấy một bộ mặt như thế. vừa ai oán, vừa bất cần. Hy vọng sẽ không bao giờ có ai phải chứng kiến một bộ mặt như vậy nữa. Đôi má ả, khi nãy hồng hào là thế, giờ bỗng biến thành một màu tái xám, chỉ có ánh mắt ả là vẫn thế đầy những tia hằn học và tối tăm đúng như đôi mắt của một kẻ thoát lên từ địa ngục. Vầng trán ả hằn sâu những nếp nhăn ngoằn ngoèo như những con rắn giun, còn cái miệng với đôi môi gợi tình đỏ mọng một màu máu tươi đang há hốc thành một hình vuông, trông chẳng khác nào những chiếc mặt nạ tượng trưng cho sự tức giận của người Thổ hay người Nhật Bản. Nếu như bao giờ có một bộ mặt thông báo một án tử hình, hoặc trên đời có những cái nhìn đủ khả năng giết người, thì chúng tôi đã có ngay trước mặt một bộ mặt và cái nhìn như vậy rồi.
Trước mắt tôi, ả vẫn đứng trơ trơ giữa một bên là cây thánh giá vàng mà Van Helsing đang cầm trên tay, và một bên là nhà mồ có những khe cửa được gắn kín bằng bánh thánh. Chừng nửa phút trôi qua, vị giáo sư già chợt phá tan sự im lặng bằng câu hỏi Arthur :
- Nói đi, anh bạn... Trả lời tôi đi, tôi có nên tiếp tục công việc không?
Arthur quỳ sụp xuống, hai tay bưng mặt, trả lời trong tiếng nấc nghẹn ngào :
- Ngài cứ việc làm như ngài đã định... Hãy cứ làm như ngài đã định... Sẽ chẳng bao giờ có gì khủng khiếp hơn thế này đâu.
Tiếng nấc của anh lúc này đã biến thành những tiếng rên rỉ đau đớn, nếu tôi và uincey không tới đỡ, có lẽ anh đã khuỵu xuống.
Van Helsing đặt cây đèn lồng xuống đất và đi về phía cửa nhà mồ, không hiểu sao ông lại bóc các lớp bùa ra khỏi khe cửa. Và khi ông lui sang một bên, chúng tôi không khỏi sửng sốt kinh ngạc khí chứng kiến cảnh tượng hãi hùng xảy ra ngày trước mắt: ả đàn bà bằng xương, bằng thịt kia đã dễ dàng chui qua một khe cửa hẹp mà tôi nghĩ lưỡi dao nhét vào còn khó chứ chưa nói gì đến một vật dày dặn hơn Tuy nhiên, chúng tôi đã phần nào bởi lo sợ khi thấy giáo sư điềm nhiên lấy những mảnh bột khi nãy bịt kín các khe cửa lại như cũ.
Đoạn ông chạy ra bế lấy đứa trẻ và bảo chúng tôi :
- Có lẽ ta về thôi. Bây giờ chưa thể làm được gì đâu. Trời sắp sáng rồi, trưa nay lại có thêm một đám ma nữa, chúng ta phải đợi họ làm xong đã. Chúng ta sẽ có mặt khi người phu đào huyệt khóa cổng nghĩa địa. Còn rất nhiều việc phải làm, nhưng chuyện sẽ hoàn toàn không giống như gì chúng ta vừa bận tâm. Còn cậu bé này, có vẻ như không có gì trầm trọng lắm, có thể chỉ tối mai là cậu ta bình phục thôi. Bây giờ, thế này nhé, chúng ta sẽ thả cậu nhóc ở một chỗ nào đó mà cảnh sát có thể dễ dàng nhìn thấy, giống như trường hợp của nạn nhân hôm trước ấy, sau đó chúng ta sẽ cùng về.
- Arthur này, ông vừa an ủi vừa bước lại gần anh tôi biết sự thật xảy ra trước mắt thật khủng khiếp với anh, nhưng rồi sau này, khi nhớ lại, anh sẽ hiểu mọi việc chúng ta làm bây giờ đều rất cần thiết. Những giờ phút cay đắng mà tôi vừa kể, và cả những khoảnh khắc anh đang sống bây giờ nữa, ơn Chúa, rồi sẽ sớm qua đi và anh sẽ có những năm tháng thảnh thơi nhất, cho dù đó chưa phải là một hạnh phúc trọn vẹn. Tôi sẽ không để anh phải đánh vật mãi với những ưu phiền trong lòng đâu.
Tôi đưa Arthur và Quincey về nhà mình. Trên đường đi, chúng tôi vẫn không quên động viên, an ủi nhất!. Chúng tôi buộc phải thả cậu bé ở một nơi mà cảnh sát để nhận ra nhất trước khi về. Mệt mỏi quá? Hôm đó, ba chúng tôi chìm vào giấc ngủ chập chờn.
* * * * *
Ngày 29 tháng 9
Khoảng gần hai gĩờ chiều, chúng tôi đến khách sạn tìm giáo sư. Có điều lạ là chúng tôi, không ai bảo ai, đều mặc bộ đồ đen. Rõ ràng chúng tôi đã ít nhiều bị ám ảnh bởi những gì vừa xảy ra, vì Arthur đang trong thời gian để tang đã đành, nhưng những người còn lại trong số chúng tôi có ảnh hưởng gì đâu. Khoảng một giờ rưỡi đồng hồ sau, chúng tôi tới nghĩa địa nhưng chỉ dám tha thẩn dạo bộ ở các lối nhỏ khuất nẻo để không bị ai trông thấy trước khi nghĩa địa bị khóa cổng. Hôm nay, Van Helsing đã thay chiếc túi nhỏ màu đen mà mấr lần trước ông mang theo bằng một chiếc túi da dài hơn nhiều, trông cứ như một bao đa đựng gậy chơi kricket. Tôi đoán trong túi phải nhiều đồ lắm.
Đợi những bước chân cuối cùng ra khỏi nghĩa địa và biết chắc chỉ còn mình là những người chủ ở đây, chúng tôi bước theo giáo sư đi về phía mộ nhà Westenra, không ai nói với ai một lời. Ông lấy chìa khóa mở cửa và ra hiệu cho tôi đóng cửa, vì tôi là người vào sau cùng. Ông thắp đèn lồng, đất thêm hai ngọn nến rồi gắn chúng ở đầu hai chiếc quan tài bên cạnh. Có vẻ như lần này ông cần nhiều ánh sáng hơn. Cũng như những lần trước, ông nhấc nắp quan tài của Lucy và mảnh chì hình vuông đặt sang một bên, trước sự chứng kiến của chúng tôi. Thật tội cho Arthur, trông người anh cứ run bắn như một tàu lá khi nhận ra hình hài quen thuộc của người đàn bà đang nằm bên trong. Vâng, người đàn bà ấy đang nằm trong quan tài có một vẻ tươi tắn và đẹp lộng lẫy hơn bao giờ hết. Nhưng tôi biết trong tim mình chẳng còn chỗ dành cho tình yêu, mà chỉ còn sự căm thù đang âm ỉ cháy trong lòng, sự căm thù được nhen nhóm bởi cái thực thể mang hình hài quen thuộc của Lucy nhưng không còn giữ một chút tâm hồn nào. Dường như Arthur đã cố trấn tĩnh lại, bởi tôi thấy anh gặng hỏi Van Helsing :
- Có đúng đây là thể xác của Lucy, hay chỉ là một con quỷ lấy hình hài của cô?
- Đó là xác của cô ấy và cũng không phải xác của cô ấy. Nhưng hãy cứ đợi một lúc, rồi anh sẽ thấy thực hư như thế nào.
Nhưng dù sao thì chúng tôi vẫn cảm thấy mình đang sống trong một “cơn ác mộng Lucy”. Trước mắt chúng tôi là một ả đàn bà có hàm răng nhọn hoắt, đôi môi mọng máu gợi dục chỉ thế thôi cũng đủ làm tôi rùng mình ghê sợ và cơ thể căng tràn nhục cảm, bộ mặt toát lên một vẻ man rợ, cô hồn, giống như một sự nhạo báng ma quái đối với những gì là dịu dàng thơ ngây và trong trắng của Lucy ngày trước.
Như một thói quen, Van Helsing bắt đầu lôi các dụng cụ trong túi đặt ra ngoài. Đầu tiên là những thứ được dùng như dụng cụ hàn xì, rồi một cọc gỗ nhỏ nhọn đầu dài khoảng ba bộ, cuối cùng là một cái búa. Đối với tôi, người đã quen với các công việc mổ xẻ, thì việc chứng kiến một thầy thuốc chuẩn bị ra tay chẳng có gì là nặng nề cả, nhưng đối với Arthur và Quincey thì không, rõ ràng là hai người đang rất căng thẳng khi nhìn thấy các dụng cụ mà Van Helsing mang theo. Tuy nhiên, họ vẫn tỏ ra can đảm, bình tĩnh và biết giữ yên lặng.


Sắp xếp xong các dụng cụ, Van Helsing quay ra bảo chúng tôi :
- Trước khi bắt tay vào công việc, tôi xin được giải thích đề các anh biết thêm một số chi tiết. Thực ra, kiến thức của tôi không phải là nhiều và cũng chẳng có gì là cao siêu cả, nó được rút ra từ khoa học và kinh nghiệm của người xưa để lại, hoặc của những người đã từng dày công nghiên cứu về các quyền năng của người không chết. Trạng thái không chết luôn gắn liền với lời nguyền định mệnh bất tử. Những thực thể này không thể chết định mệnh và chúng luôn tìm cách gây ra những nạn nhân mới, những tai ương mới cho trái đất từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, bởi nếu ai đã chết với tư cách là con mồi của một kẻ không chết chắc chắn sẽ lại trở thành một kẻ không chết khác. Và cứ như vậy, kẻ bất tử mới lại đi tìm những con mồi mới để gieo rắc thêm tai họa. Vòng tròn tai ương cứ thế lớn mãi, lớn mãi, giống như những vòng tròn trên mặt nước lúc người ta ném xuống hồ một hòn đá. Anh bạn Athur ạ, nếu hôm đó, anh ôm hôn người bạn gái mình một lát trước lúc cô ấy qua đời để thỏa lòng mong ước, hoặc giả là đêm qua, nếu anh để cô ta lao vào vòng tay mình chẳng hạn, thì sớm muộn gì thì anh phải chịu chung một số phận nhừ vậy, nói cụ thể là anh sẽ trở thành một nosfertu giống như người Đông Âu vẫn gọi. Và chắc chắn là hết năm này qua năm khác, chính anh sẽ trở thành nguyên nhân làm nên những thực thể không chết mới, khiến cho bao người phải kinh hoàng. Cũng may cuộc đời báo hại của người kẻ bất tử Lucy bất đắc dĩ kia mới chỉ vừa bắt đầu. Bọn nhóc mà ả hút máu vẫn chưa rơi vào tình trạng tuyệt vọng, nhưng nếu kẻ không chết ấy còn tiếp tục “sống”, bọn nhóc sẽ ngày càng mất nhiều máu, bởi chúng phải tuân theo quyền năng mà ả đã ám vào chúng, và càng ngày chúng càng muốn tìm đến hơn. Cái miệng nhớp nháp của ả sẽ hút đến những giọt máu cuối cùng của bọn trẻ. Ngược lại, nếu ả chết thật, mọi tội ác sẽ bị chặn đứng, những vết thương nhẹ sẽ biến mất khỏi cổ lũ trẻ và chúng sẽ quay trở lại với các trò chơi thường ngày của mình mà quên đi sạch những cuộc phiêu lưu mạo hiểm kia. Nhưng điều quan trọng hơn là cái chết thật sự sẽ đến với kẻ không chết, và tâm hồn ma ám của cô ta sẽ được giải thoát. Thay vì phải làm những việc tội ác trong bóng tối và phải hứng chịu ngày càng nhiều ô nhục, cô ta sẽ được ban một chỗ trên thiên đàng cùng với các thiên thần. Nhưng cần phải có một bàn tay giống như một sự ban phước lành cho cô ta. Tôi rất sẵn lòng làm việc đó. Nhưng chẳng lẽ trong số chúng ta lại không cớ ai xứng đáng được nhận ưu tiên ấy hơn tôi hay sao? Thật hạnh phúc khi từ nay trở đi, mỗi lần phải thao thức giữa đêm khuya tĩnh mịch, ta có thể nghĩ: “Cô ấy đã đến với những vì sao nhờ chính bàn tay mình, bàn tay của một người từng yêu cô ấy nhất trần đời, bàn tay mà cô ấy sẽ lựa chọn nếu cô ấv còn có thể được lựa chọn”. Nói đi các bạn, chẳng lẽ không ai muốn có một giấc mơ với những lời như vậy sao?
Tất cả chúng tôi, không ai bảo ai, cùng đưa mắt nhìn Arthur, và cũng như chúng tôi, anh rất hiểu ý định đầy nghĩa hiệp của Van Helsing. Tôi hiểu cảm xúc của anh qua cử chỉ đưa tay về phía giáo sư. Anh bước tới bên giáo sư, bàn tay run run, mặt tái đi :
- Tự đáy lòng mình, tôi xin chân thành cám ơn ngài, một người bạn, một người bạn thực sự của tôi. Hãy bảo tôi phải làm gì đi, tôi sẽ bình tĩnh nghe lời ngài.
- Hoan hô chàng trai! Anh chỉ cần can đảm một lúc, một lúc thôi, thế là đủ! Vấn đề là ở chỗ phải đâm cái cọc nhỏ này xuyên qua xác... Tôi nhắc lại rằng đó quả là một thử thách khủng khiếp nhất đời anh, những việc diễn ra cũng nhanh thôi. Và niềm vui mà anh nhận được sẽ lớn hơn sự đau đớn mà anh cảm hứng chịu rất nhiều. Chỉ lát nữa thôi, khi đã đi khỏi đây rồi, anh sẽ cảm thấy mình giống như một người có cánh. Tuy nhiên, chỉ cần do dự một chút thối là anh sẽ chẳng giải quyết được việc gì hết. Hãy nghĩ rằng chúng tôi đang đứng ở đây, bên cạnh anh, và luôn cầu nguyện cho anh trong những phút giây khủng khiếp nhất.
- Thôi được, tôi phải làm gì đây? - Arthur nghẹn ngào đáp lại.
- Anh hãy cầm cây cọc này bên tay trái, đầu cọc cắm vào đúng trái tim cô ta, còn tay phải hãy cầm cái búa này. Khi tôi đọc kinh cầu nguyện cho các linh hồn, tôi có cầm theo sách kinh đây, khi nào tôi đọc, hai anh còn lại hãy xương theo nhé anh phải nhân danh Chúa cầm búa đóng vào cọc. Có làm vậy, cô gái thân yêu của anh mới được an nghỉ và kẻ không chết trong thể xác cô ta mới vĩnh viễn lìa trần!
Arthur quả quyết cầm cọc và búa, rõ ràng là khi đã quyết định hành động, anh không còn run rẩy và do dự nữa. Van Helsing bắt đầu mở kinh thánh ra đọc, Quincey và tôi cố gắng xướng theo. Arthur đặt chính xác đầu cọc lên người Lucy, nơi có trái tim không còn lửa tình yêu nồng nàn của một người con gái thùy mị như trong hồi ức của anh, và lấy hết sức bình sinh đóng từng nhát, từng nhát thật dứt khoát.
Cái xác trong quan tài bắt đầu rung lên, giãy giụa quằn quại không dứt, và từ đôi môi đỏ thắm của ả chợt hộc lên một tiếng kêu khàn khàn, đục đục, nghe mà đứng tim. Hai hàm răng nhọn của ả cắn chặt vào đôi môi nhục cảm đến rỉ máu. Arthur vẫn gắng sức đóng cọc, cho dù có một thoáng anh đã tỏ ra mất can đảm, buông thõng tay búa xuống, nhưng chỉ một thoáng thôi. Tôi nhận ra một dòng máu từ nơi trái tim khốn nạn của kẻ không chết chảy tràn xuống dưới.
Xác chết dần dần không còn rung lên bần bật và giãy giụa quằn quại nữa, chỉ có bộ mặt ả là vẫn co giật từng hồi, còn hàm răng thì vẫn nghiến chặt vào môi. Phải một lúc sau, xác chết mới đúng là xác chết: nó nằm bất động hoàn toàn và không hề còn biểu hiện gì của một kẻ không chết. Vậy là nhiệm vụ khủng khiếp tưởng như bất khả thi đã được hoàn thành!
Arthur buông búa, người lảo đảo đứng không vững, nếu chúng tôi không chạy vội lại đỡ thì anh đã đổ vật xuống đất rồi. Anh thở hổn hển, mồ hôi lấm tấm trên trán. Nỗ lực mà chúng tôi đề nghị ở anh rõ ràng là phi thường, nếu không có lý trí và cân nhắc nhân đạo, chắc chắn anh không thể hoàn thành. Chúng tôi mải hướng vào anh nền chẳng còn ai để ý đến chiếc quan tài nữa, nhưng khoảng mười phút sau, có một cảm giác kỳ lạ khôn tả bất chợt trào dâng trong chúng tôi, khiến ai nấy đều đổ dồn mắt về nơi ấy. Không ai kìm được một tiếng reo thầm kinh ngạc. Arthur từ từ đứng dậy bởi từ nãy tới giờ chúng tôi phải để anh ngồi nghỉ cho hoàn hồn tiến lại gần chỗ Lucy. Cảm giác sung sướng đã thế chỗ cho sự khiếp sợ và nỗi buồn u uất thường trực trên gương mặt anh.
Nằm trong quan tài không còn là kẻ bất tử ghê sợ, khiến ai cũng không thể không ngờ vực và hận thù đến nỗi phải coi việc hủy diệt thể xác và linh hồn của ả là một ưu tiên dành cho người xứng đáng nhất trong số chúng tôi, mà chính là Lucy, một Lucy với khuôn mặt dịu dàng, thuần khiết chúng tôi từng biết khi cô còn sống. Sự suy tư, nét u buồn và cả nỗi đau đớn đích thực của Lucy đời thường bây giờ đều đã trở lại với khuôn mặt ấy. Cảm giác thân thương cũng trở lại với chúng tôi. Chúng tôi chợt hiểu từ nay trở đi, gương mặt ấy sẽ mang lại cho chúng tôi một sự thanh thản trọn vẹn, một cuộc sống bình yên với bao kỷ niệm vui buồn. Sự hồi sinh của thể xác và linh hồn cô chỉ có thể là một bằng chứng, một tượng trưng trần thế của những ngủ vĩnh hằng.
Tới lúc này Van Helsing mới tới đặt tay lên vai Arthur và hỏi anh :
- Thế nào anh bạn? Bây giờ anh đã tha lỗi cho tôi được chưa?
Arthur đưng đưng nắm chặt bàn tay vị giáo sư già và nghẹn ngào nói :
- Tôi mới là người phải cảm ơn ngài, Van Helsing ạ. Chúa sẽ ban phước lành cho ngài. Ngài chính là người đã trả lại linh hồn đích thực cho người con gái tôi yêu và mang tới cho tôi sự thanh thản!
Chỉ nói được có vậy, Arthur gục đầu vào vai ông mà khóc và thổn thức trong những tiếng nấc nghẹn ngào. Đợi anh ngẩng mặt lên, Van Helsing mới nói :
- Anh bạn ạ, bây giờ thì anh có thể ôm chầm lấy cô ấy được rồi. Và nếu muốn, anh có thể đặt lên làn môi ngọt ngào của cô ấy một nụ hôn mà bấy lâu cô ấy hằng mong đợi. Bây giờ cô ấy không còn là một bóng ma có nụ cười quái gở nữa, mãi mãi sau này cũng vậy. Lucy không còn là một kẻ không chết, một đồng lõa của quỷ dữ. Cô ấy đã là một người chết thực sự của Chúa, linh hồn cô ấy nay đã được về với Ngài?
Arthur cúi xuống đặt lên khuôn mặt thân thương của người con gái một nụ hôn cuối cùng. Sau đó, tôi đưa anh và Quincey ra ngoài nhà mồ, còn tôi phải quay vào với giáo sư làm nốt những việc cuối cùng: cưa phần cọc gỗ thừa ra ngoài cơ thể Lucy và bỏ đầy tỏi vào miệng cô. Cuối cùng là việc hàn kín lớp chì bọc bên trong và bắt vít chiếc nắp gỗ vào quan tài như lúc ban đầu. Xong việc, chúng tôi thu dọn đồ đạc ra về. Khóa cửa nhà mồ xong, giáo sư trả chiếc chìa khóa cho Arthur.
Bên ngoài, trời xanh, mây tạnh, ánh nắng chan hòa cùng những tiếng chim hót líu lo trong một nhịp sống bình yên. Dường như thiên nhiên, cảnh vật đã mang một sắc thái hiền hòa khác hẳn mọi lần. Hoặc cũng có thể là do chúng tôi không còn những âu lo, phiền muộn vẫn trĩu nặng bấy lâu trong lòng. Tuy nhiên, trước khi chia tay chúng tôi, Van Helsing lại bảo :
- Như vậy là phần đầu, cũng có thể nói là phần khó khăn nhất, trong công việc của chúng ta đã được hoàn thành. Nhưng các bạn ạ, chúng ta vẫn còn một nhiệm vụ khác mà nếu xét ở một khía cạnh nào đó, cũng không kém phần quan trọng: ấy là việc phát hiện ra thủ phạm đã gây ra sự bất hạnh của Lucy và làm cho hắn vĩnh viễn biến khỏi thế giới này. Trong chừng mực nhất định, tôi đã nắm được một vài chìa khóa để hỗ trợ cho cuộc tìm kiếm này. Nhưng xin cũng được lưu ý với các bạn là công việc sẽ kéo dài và thậm chí còn rất gian nguy nữa. Các bạn sẽ giúp tôi chứ? Song trước hết, điều tôi cần ở các bạn bây giờ vẫn là niềm tin. Chúng ta sẽ đi đến cùng của vấn đề, đúng vậy không ạ?
Chúng tôi lần lượt bắt tay ông với lời hứa giúp đỡ chân tình nhất. Lúc chia tay, ông nói thêm :
- Tối mai, khoảng bảy giờ, chúng ta sẽ cùng nhau tới ăn tối ở nhà anh bạn John. Tôi xin được mời hai bạn Arthur và Quincey. Mọi kế hoạch đều đã được tôi tính toán đâu ra đấy rồi, tôi sẽ giải thích sau. John này, bây giờ hãy về cùng tôi cái đã, tôi muốn tham khảo anh một số ý kiến. Tối nay, có lẽ tôi phải về Amsterdam giải quyết một vài công việc, nhưng chiều mai tôi sẽ cố gắng có mặt ở đây. Sau đó, chúng ta sẽ bắt tay vào cuộc điều tra quy mô của mình, tôi sẽ nói tường tận tất cả những gì phải làm và những gì tôi còn đang nghi ngờ trong lòng. Nhưng anh hãy nhớ cho, một khi chúng ta đã bắt tay vào việc rồi thì không thể lùi bước được đâu nhé.
 
Chương 17

Nhật ký của bác sĩ Seward (tiếp theo)

Chúng tôi vừa về tới khách sạn Berkeley thì một người hầu hớt hải chạy ra báo có người gửi cho Van Helsing một bức điện.
“Tôi đến bằng tàu hỏa. Jonathan đang ở Whitby. Tin quan trọng. Mina Harker.”
Giáo sư reo to, vẻ mặt rất hớn hở :
- A! Hóa ra là bà Mina! Viên hồng ngọc của chúng ta!
Nhưng tiếc quá, bà ấy đến mà tôi lại không thể chờ được. Có lẽ phải đưa bà ấy về nhà anh thôi, John ạ, mà có khi anh phải ra ga đón bà ấy đấy. Tôi sẽ đánh điện báo cho bà ấy biết.
Gửi điện xong, ông vừa pha trà vừa nói với tôi về cuốn nhật ký mà Jonathan Harker đã viết trong những ngày anh ở nước ngoài. Ông đưa tôi một bản sao nhật ký của anh và một bản được viết ở Whitby của Mina, cả hai cuốn đều đã được đánh máy rất rõ ràng.
- Cầm cả lấy mà đọc, đọc cho thật kỹ vào, anh bạn ạ. Làm sao để tối mai, khi tôi quay lại, anh phải biết hết các chi tiết có trong hai cuốn nhật ký này. Sau đó, chúng ta sẽ bắt tay vào nghiên cứu từng vấn đề. Nhưng phải giữ số giấy tờ này cho cẩn thận đấy nhé, toàn là báu vật cả đấy. Tôi cũng xin được nhắc là ngay từ bây giờ, anh phải tuyệt đối có lòng tin, cho dù anh đã trải qua những chuyện mà lúc đầu anh tưởng là hoang đường và không thể tin được. Đối với anh, với tôi và nhiều người khác, có thể chuyện kể ở đây ông nói và đặt tay lên tập giấy - se là sự khởi đầu của một ngày tàn, hoặc cũng có thể là một hồi chuông báo tử của cái “không chết” đang chuẩn bị hủy diệt sự sống trên trái đất này. Tôi muốn anh không bỏ qua một chi tiết nào, và nếu có thể làm sáng tỏ một điều gì đó mà anh chiêm nghiệm được, thì xin cứ việc, vì đâu đó cũng là điều quan trọng nhất mà chúng ta phải hướng tới. Hình như anh cũng có một cuốn nhật ký ghi lại ít nhất là hơn một sự việc đáng ngạc nhiên .đã xảy ra, đúng không nhỉ? Nếu vậy thì trong những ngày tới, chúng ta sẽ cùng nhau tìm ra một sợi dây xuyên suất các sự việc rời rạc có liên quan tới bức tranh toàn cảnh của thực tế nhé.
Đoạn ông sửa soạn lên đường về Amsterdam. Về phần mình, tôi phải tới Padđington để đón Mina Harker. Tôi đến trước giờ tàu vào ga khoảng mười lăm phút.
Tàu vào ga, hành khách nhanh chóng tỏa đi theo các ngả đường. Đang sốt ruột chờ đợi vì sợ vị khách mời lạc đi đâu mất thì tôi bỗng ngờ ngợ nhận ra một phụ nữ trẻ, xinh đẹp và lịch lãm, đang tiến về phía mình.
- Xin lỗi, ông là bác sĩ Seward, phải không ạ?
- Còn bà là Harker, Mina Harker?
Người phụ nữ trẻ vui mừng chìa tay cho tôi.
- Tôi nhận ra ông theo chân dung miêu tả của Lucy...
Cô bỗng ấp úng dừng lại, mặt đỏ ửng lên.
Tôi cũng đỏ mặt vì ngượng ngùng, nhưng điều đó lại làm cho chúng tôi dễ chịu hơn, bởi dẫu sao đó cùng là một câu trả lời ngầm cho những gì cô vừa gợi nhắc lại. Tôi cầm hành lý của vị khách mời, trong đó có một cái máy chữ, và dẫn cô đi về bến tàu điện ngầm ở phố Fenchurch. Tới bến, tôi đánh điện về nhà nhờ bà quan gia chuẩn bị trước cho Harker một phòng riêng.
Tôi về nhà đúng giờ đã dự kiến. Harker nhận ngay ra chỗ tôi ở là một nhà thương tâm thần, song không vì thế mà cô không ngần ngại khi bước qua cửa.
Vừa vào nhà, chưa kịp ngồi nghỉ, cô đã bảo rằng nếu tôi không thấy có điều gì bất tiện, cô sẽ tới ngay phòng làm việc của tôi, bởi cô có rất nhiều điều muốn nói với tôi. Trong lúc chờ đợi cô sắp xếp hành lý, tôi tranh thủ ghi nhật ký vào máy ghi âm. Thú thực là tôi chẳng thích thú gì với việc phải đọc cả mớ giấy mà Van Helsing vừa đưa, tôi vẫn để cả trên mặt bàn kia. Tất nhiên, tôi cũng phải bố trí thời gian đọc qua một chút để còn có cái mà hỏi thêm Harker. Thực ra, người phụ nữ trẻ này còn chưa hiểu thời gian đối với chúng tôi bây giờ quý đến như thế nào, và cũng chưa biết có một nhiệm vụ tối quan trọng đang chờ đợi chúng tôi ra sao.


Nhật ký của Mina Harker


Ngày 29 tháng 9
Sau khi thu xếp qua loa hành lý mang theo, tôi xuống ngay phòng làm việc của Seward. Tôi ngại ngừng không dám gõ cửa, vì hình như bác sĩ đang tiếp ai trong đó thì phải. Tuy nhiên, tôi nhớ là vừa nãy, anh có bảo khi nào xong việc thì xuống gặp anh càng sớm càng tốt, tôi liền mạnh dạn gõ cửa. Anh trả lời ngay: “Mời vào!”.
Thật lạ là anh ở trong phòng có một mình, nhưng khi nhìn lên trên bàn, tôi đoán ngay ra rằng anh vừa nói vào một cái máy ghi âm mà tôi chưa bao giờ được nhìn thấy, tôi chỉ được người khác tả cho nghe mà thôi. Cái máy đã lập tức thu hút được sự chú ý của tôi.
- Hy vọng tôi không làm ông phải đợi lâu. - Tôi nói - Thực ra tôi đã đứng ngoài cửa được một lúc rồi, nhưng vì nghe tiếng ông nói nên tưởng ông đang có khách.
- Ồ! Tôi ghi nhật ký đấy mà. - Anh phì cười trả lời.
- Nhật ký?
- Vâng, đây này, cuốn nhật ký đây này. - Ông vừa nói vừa đặt tay lên cái máy ghi âm.
- Cái gì? - Tôi ngạc nhiên hỏi lại - Nếu thế thì còn hay hơn cái trò tốc ký của tôi ấy chứ? Tôi có thể nghe qua một đoạn được không?
- Tất nhiên!
Seward hồ hởi đứng đậy, định cho chiếc máy chạy thử một đoạn, nhưng chẳng hiểu sao anh lại dừng lại, vẻ rất chần chừ :
- Thực ra thì... từ trước tới giờ tôi chỉ... chỉ ghi... những gì liên quan đến các bệnh nhân của mình... toàn những chuyện buồn cười... có nghĩa là... tôi muốn nói là...
Anh chàng ấp úng không sao thanh minh được sự thay đổi ý định bất ngờ của mình. Thấy vậy, tôi phải lựa lời nói lảng sang chuyện khác cho anh đỡ khó xử.
- Ông đã ở bên Lucy trong những ngày cuối đời của cô ấy. - Tôi nói. - Xin ông hãy kể cho tôi biết những gì liên quan đến cái chết của cô ấy, tôi muốn biết tất cả những gì có liên quan đến sinh mệnh của cô ấy. Ông biết đấy, Lucy là người bạn thân nhất của tôi mà.
Tôi rất ngạc nhiên khi thoáng nhận thấy sự hất hoảng trên nét mặt anh.
- Kể cho bà nghe về cái chết của cô ấy? Dù thế nào tôi cũng không thể kể cho bà được đâu!
- Tại sao không? - Tôi gặng hỏi, trong lòng chợt cảm thấy một nỗi lo sợ mơ hồ.
Seward không trả lời ngay. Tôi hiểu anh đang cố tìm ra một lý do nào đó.
- Bà thấy đấy, - Anh nói sau một hồi suy nghĩ - thật khó để tôi tìm được một đoạn nhật ký nào có liên quan tới Lucy ở trong đó...
Anh chỉ nói nửa chừng rồi lại thôi. Hình như trong đầu anh vừa thoáng có một ý nghĩ nào đó, bởi tôi thấy giọng anh bỗng thay đổi hẳn, vẻ như chân thành hơn, thậm chí còn ngây thơ như giọng một đứa trẻ :
- Đúng rồi! Đúng thế rồi?
Tôi phì cười trước vẻ ngây thơ của anh.
- Lần này thì tôi có thể nói thật với bà? Bà có biết không, kể từ khi ghi nhật ký tới nay, chưa bao giờ tôi nghĩ mình phải làm như thế nào để gọi ra được một đoạn nhật ký cụ thể khi cần thiết.
Nghe anh nói như đánh trống lảng, tôi sực hiểu nhật ký của một thầy thuốc từng chăm sóc Lucy, trong những ngày cuối đời của cô, hẳn phải có ít nhiều chi tiết quan trọng mà tôi rất cần để bổ sung cho những điều tôi tôi đã biết. Vì vậy, tôi lên tiếng đề nghị ngay :
- Thưa bác sĩ, nếu thế thì bác sĩ hãy cho phép tôi chuyến toàn bộ nội dung nhật ký trong máy ra giấy bằng máy chữ, được không ạ?
Seward giãy nảy từ chối, nét mặt anh bỗng tái dại đi :
- Không? không? không! Không thể làm như thế được, tôi không thể để bà biết câu chuyện khủng khiếp đó được!
Như vậy, câu chuyện có vẻ khủng khiếp hơn những gì tôi đã hình dung nhiều. Trực giác của tôi hoàn toàn cảm nhận được điều đó. Trong lúc đăm chiêu, tôi vô thức đảo mắt nhìn khắp phòng với hy vọng sẽ tìm được một lý do nào đó có thể giúp được mình thuyết phục được ông bác sĩ trẻ tuổi theo cách này hay cách khác, và ánh mắt tôi chợt dừng lại a một tập giấy đánh máy chữ đặt trên bàn. Seward cũng đưa mắt nhìn theo ánh mắt tôi. Tôi có cảm tưởng anh đã đoán được ý định của tôi.
- Có lẽ ông chưa có dịp biết tôi. - Tôi nói. - Hy vọng khi nào đọc hết đống giấy kia - tức là những dòng nhật ký của tôi và của chồng tôi mà tôi đã sao lại bằng máy chữ - ông sẽ hiểu tôi hơn. Tôi chưa bao giờ do dự khi phải cho người khác mượn những dòng nhật ký ấy của vợ chồng tôi, nhưng rõ ràng là ông vẫn chưa hiểu tôi... chưa hiểu... và tất nhiên, tôi cũng chẳng hy vọng ông sẽ tin ở tôi.
Lucy nói đúng, bác sĩ Seward hẳn phải là một con người thật đáng mến. Đợi tôi nói dứt lời, anh lập tức đứng đậy lôi ra mấy ống kim loại phủ sơn đen được cất trong một ngăn kéo khá rộng.
- Đây chính là những gì bà muốn có. - Anh nói, mặt đỏ lựng. - Sở dĩ tôi chưa tin bà là vì chưa biết bà, có thế thôi. Nhưng bây giờ, chúng ta đã biết nhau rồi. Thực ra tôi cũng có nghe nói về bà từ lâu. Tôi biết là Lucy cũng đã có lần kể về tôi cho bà nghe; và cô ấy cũng có lần kể với tôi về bà. Xin lỗi nhé? Bây giờ bà hãy cầm lấy mấy cuộn này mà nghe. Sáu cuộn đầu toàn nói về tôi và tất nhiên chúng chẳng có gì khiến bà phải bận tâm cả. Bà có nghe cũng được, không nghe cũng được, nhưng nếu chịu khó nghe, bà sẽ hiểu rõ hơn về tôi. Bữa tối có lẽ cũng đượe chuẩn bị sắp xong rồi. Về phần mình, có khi tôi cũng phải chịu khó đọc những tài liệu này để biết thêm một số chi tiết nào đó...
Đoạn anh cầm chiếc máy ghi sang một phòng khách nhỏ nằm kề với phòng tôi và bấm cho máy chạy. Tôi háo hức chuẩn bị nghe những đoạn nhật ký đầu tiên ghi lại một vế khác của câu chuyện tình mà thực tế tôi mới chỉ được biết đại khái qua lời kể của Lucy.

Nhật ký của bác sĩ Seward


Ngày 29 tháng 9
Tôi bị cuốn nhật ký của Jonathan và vợ anh cuốn hút đến nỗi quên cả thời gian. Khi người giúp việc vào báo bữa tối đã được chuẩn bị xong, tôi vẫn chưa thấy Harker xuống; tôi phải bảo bà ta rằng có ìẽ cô đang mệt sau một chuyến đi dài, cứ để cho cô nghỉ, một tiếng nữa hãy dọn cơm. Và tôi lại tiếp tục dán mắt vào những dòng nhật ký. Khi tôi đọc đến những dòng cuối cùng trong cuốn nhật ký của Harker thì cô bước vào. Trông cô có vẻ buồn, hai mắt đỏ hoe, không giống với đôi mắt lúc gặp tôi ơ ga chút nào.
- Hy vọng là tôi đã không làm cho bà buồn bực. – Tôi khẽ nói.
- Không, không, ông đừng nói thế... Cái máy hát ấy tuyệt lắm, có điều là nó hơi tàn nhẫn? Nó cho tôi biết tất cả những phiền muộn mà ông từng trải qua. Tôi có cảm giác như mình được nghe một tâm hồn đang đau đớn cầu xin phước lành ở Thượng đế tối cao. Cầu mong đừng bao giờ có ai phải nghe những chuyện buồn như thế nữa! Ông biết không, tôi sẽ giúp được ông đôi chút đấy, tôi sẽ đánh máy toàn bộ câu chuyện của ông ra giấy. Như vậy, từ nay về sau, sẽ chẳng còn ai phải cảm nhận nhịp đập thổn thức của trái tim ông như tôi.
- Nhưng sẽ chẳng còn ai được biết nhật ký của tôi nữa đâu! Sẽ không có ai, không bao giờ có ai... - Tôi khẽ đáp lại.
Harker đặt bàn tay lên tay tôi và nghiêm giọng nói tiếp :
- Có, cần phải như vậy!
- Nhưng vì sao chứ?
- Vì sao ? Vì đó là một phần không thể thiếu của câu chuyện khủng khiếp liên quan tới cái chết của cô gái Lucy tội nghiệp và những sự kiện đã xảy ra trước đó, vì trong cuộc chiến đấu mà chúng ta đang dấn thân vào để loại bỏ bóng quỷ dữ ra khỏi trái đất này, chúng ta cần có càng nhiều dữ kiện và chi tiết càng tốt. Tôi có cảm giác rằng trong lúc nghe những dòng nhật ký ghi âm của ông, tôi đã nhận ra hơn một chi tiết mà bình thường ông sẽ chẳng bao giờ cho tôi biết. Quả thực là chúng đã mang lại ít nhiều ánh sáng cho cái bí ẩn tối tăm đang bao trùm lên xung quanh chúng ta. Ông sẽ đồng ý để tôi được giúp đỡ ông, đúng không ạ? Tôi hoàn toàn hiểu phần mở đầu của câu chuyện, và mặc dù mới chỉ nghe đoạn nhật ký ghi đến ngày mùng bảy tháng chín của ông, tôi vẫn đoán ra những bất hạnh đã bám riết lấy Lucy và kết cục bi thương của cuộc đời cô. Kể từ khi giáo sư Van Helsing tới thăm đến nay, không có lúc nào chúng tôi không nghĩ về chuyện ấy. Nhà tôi đã đi Whitby để thu thập thêm một số tin tức, ngày mai anh ấv sẽ trở về. Thiết tưởng chúng ta không nên có một bí mật nào cần phải giấu nhau cả, hợp tác với nhau, tin tưởng ở nhau mới là cách tối ưu mang lại thành công, chứ không phải là ai cũng biết một ít, để rồi lại giấu nhau một ít như vậy.
Tôi hơi bất ngờ trước bản lĩnh của người phụ nữ trẻ đang đứng trước mặt. Nhìn vào mắt cô, tôi hiểu cô là người dũng cảm và cũng rất cương quyết, ánh mắt của cô đã làm tôi thực sự cảm thấy yên tâm.
- Bây giờ, tôi chỉ có thể tôn trọng thiện ý của bà mà thôi, thưa bà. - Tôi đáp lời. - Chúa sẽ tha thứ cho tôi nếu tôi có cái nhìn sai lầm về bà! Có thể bà sẽ biết thêm nhiều chi tiết khủng khiếp hơn nữa! Tôi hiểu vì đã biết nhiều về bệnh tình của của Lucy, nên bà không thể không muốn biết thêm về kết cục thảm thương của cô ấy. Tôi khẳng định rằng khi đã nghe toàn bộ câu chuyện về cô ấy.... vâng, cuối cùng... bà cũng sẽ cảm thấy yên tâm phần nào... Bây giờ, có lẽ ta đi ăn tối đi Chúng ta cần phải giữ sức khỏe... Sau khi ăn uống xong, bà sẽ tiếp tục nghe nốt phần còn lại của câu chuyện, và tôi sẽ sẵn sàng trả lời những chi tiết nào bà thấy không được rõ. Bà nói đúng, đối với chúng ta, tất cả đều phải rõ ràng để đi đến một kết thúc có hậu.


Nhật ký của Mina Harker


Ngày 29 tháng 9
Ăn tối xong, tôi theo bác sĩ Seward vào phòng làm việc của anh. Anh sang phòng lấy chiếc máy hát, còn tôi xách chiếc máy chữ xuống. Tôi được anh dọn cho một chỗ ngồi thuận tiện ở ghế trường kỷ để có thể vừa đánh máy vừa điều khiển chiếc máy hát đặt bên cạnh. Sau đó, anh chỉ cho tôi cách dừng máy khi muốn nghỉ một chút cho đỡ mỏi. Bố trí chỗ ngồi xong, tôi bật máy để nghe tiếp những dòng nhật ký bằng lời của anh.
Nghe đến đoạn nói về cái chết của Lucy và những gì xảy ra sau đó, tôi đổ vật người xuống lòng ghế, người bủn rủn như không còn một chút sức lực nào. Cũng may tôi không phải là loại người hơi một tí là ngất xỉu! Tuy nhiên, bác sĩ Seward vẫn vội vàng chạy đi lấy một chai rượu mạnh cho tôi uống vài ngụm, và chỉ đến khi đó tôi mới vững vàng trở lại. Song không vì thế mà lòng tôi hết rối bời, dù cuối cùng tôi cũng được nghe thuật lại cô bạn thân yêu Lucy của tôi đã về vôi Chúa. Suýt nữa thì tôi gào lên vì phẫn uất. Nếu chưa biết về cuộc phiêu lưu ở Transylvanie của Jonathan, có lẽ tôi đã không lo sợ đến thế. Dù thế nào thì tôi cũng không biết mình phải nghĩ gì nữa, và tôi đã phải tìm cách che giấu sự rối bời trong lòng bằng việc đề nghị bác sĩ :
- Cứ để tôi đánh máy lại tất cả những gì ông ghi trong máy hát. Chúng ta cần phải chuẩn bị đầy đủ trước khi bác sĩ Van Helsing trở lại. Tôi đã đánh điện cho Arthur rồi, anh ấy sẽ từ Whitby về đây luôn. Trong vụ này, ngày tháng là vấn đề quan trọng nhất. Theo ý tôi, nếu chúng ta sắp xếp các sự kiện theo trình tự ngày tháng thì mọi việc sẽ trở nên thuận lợi hơn rất nhiều. Ông vừa bảo là ông cũng đang đợi huân tước Godalming và Quincey Moriss, vậy thì khi đến đây, họ cũng nên được biết tất cả mọi chuyện đã xảy ra.
Nghe tôi nói, Seward liền bật lại máy, nhưng lần này ông đặt ở chế độ chạy chậm hơn để tôi có thể dễ dàng đánh máy từ đầu nội dung nhật ký. Tôi đánh làm ba bản để những người khác có thể cùng đọc mà không mất thời gian chờ đợi vô ích. Seward phải đi thăm một số bệnh nhân, nhưng chỉ một loáng đã thấy anh quay về. Anh nói anh phải tiếp tục đọc nốt những trang nhật ký của vợ chồng tôi và hơn nữa, anh muốn trong phòng có người cũng làm việc với tôi cho đỡ trống trải. Anh quả là một con người ga lăng. Thế giới này dường như vẫn còn rất nhiều những con người như thế, nhưng cũng không phải là không có quỷ dữ. Trước khi quay về về phòng mình, tôi chợt nhớ tới đoạn nhật ký mà Seward nhắc tới mấy tờ báo - tờ Westmirlster Gazette và Pall Mall Gazette số mới nhất, do Jonathan đã mua tặng Van Helsing lúc ông chuẩn bị lên tàu ở ga Exeter - nên đã hỏi mượn để mang lên phòng đọc trước khi đi ngủ. Tôi nhớ lúc còn ở nhà, các tờ báo Dailygraph và Whitby Gazette đã mang lại cho chúng tôi một số chi tiết rất có lợi cho việc tìm hiểu thêm các sự kiện hãi hùng đã xảy ra ê Whitby, khi lão bá tước Dracula cập bến ở đó. Nằm trên giường, tôi đọc lướt qua các trang báo với hy vọng sẽ tìm thấy ở trong đó một vài tia sáng mới nào đó.
Tôi không thấy buồn ngủ, nhưng dường như mấy tờ báo đã giúp tôi bình thản hơn thì phải.


Nhật ký của bác sĩ Seward


Ngày 30 tháng 9
Jonathan đến vào khoảng chín giờ. Anh nhận được điện của vợ lúc chuẩn bị từ Whitby về. Gặp anh, người ta cảm nhận ngay được rằng anh là một người đàn ông rất thông minh và giàu nghị lực. Nếu nhật ký của anh viết trung thực, thì chắc hẳn anh còn là người rất dũng cảm nữa. Bởi phải là người cực kỳ can đảm mới dám mò xuống hầm mộ trong tòa lâu đài cổ đó hai lần. Sau khi đọc những dòng tự sự ấy của anh, tôi cứ tưởng mình sẽ được gặp một người cứng rắn lắm, chứ không phải là một người có vẻ bình lặng mang đầy đủ phẩm chất của một doanh nhân đang ngồi ăn trưa trước mặt tôi.
* * * * *
Một lúc sau
Sau bữa trưa, Jonathan và vợ anh quay trở về phòng. Khi đi ngang qua cửa phòng anh, tôi lại nghe thấy tĩếng máy chữ gõ lạch tạch. Hai vợ chồng họ quả là những người kiên trì. Họ đang ráp nối các mẩu sự kiện rời rạc với nhau theo một trình tự thời gian như đề nghị của Mina. Jonathan đã có trong tay các lá thư trao đổi giữa những người nhận vận chuyển các thùng hàng ở Whitby và công ty Carter, Paterson & Cie ở Luân Đôn. Anh cũng mải mê đọc nội dung cuốn nhật ký của tôi mà Mína vừa đánh máy xong. Không hiểu họ có tìm thấy được một điều gì giúp cho việc làm sáng tỏ các vấn đề của chúng tôi hay không? Chà! Đây rồi...
Có một điều rất lạ là trong đầu tôi chưa bao giờ lóe lên ý nghĩ rằng ngôi nhà có mảnh vườn tiếp giáp với vườn nhà chúng tôi kia lại có thể là nơi ẩn náu của lão bá tước! Tuy nhiên, chỉ có Chúa mới biết cách ứng xử của tay bệnh nhân Renfield lại chính là một mắt xích giúp chúng tôi tìm ra hướng điều tra. Bây giờ, chúng tôi đã cớ trong tay những lá thư liên quan tới việc mua bán nhà cửa mà Jonathan mang tới. Nếu biết trước những dữ kiện đó vài ngày, chắc là chúng tôi đã cứu sống được Lucy! Nhưng dù sao thì việc cũng đã qua rồi!... Jonathan vẫn vùi đầu vào công việc. Lúc xuống ăn tối, vợ. chồng anh đã tóm tắt cho chúng tôi lôgích của toàn bộ sự việc tưởng chừng rất rời rạc đã xảy ra. Theo ý Jonathan, tôi sẽ cảm nhận tất vấn đề nếu để mắt tới Renfield, bởi hắn chính là một tín hiệu vô thức báo trước sự đi đi, về về của lão bá tước. Tôi chưa hình dung được khả năng của sự việc này, nhưng có thể khi so sánh các ngày tháng... Cũng may Mina đã chép lại nhật ký của tôi ra giấy, nếu không thì chẳng bao giờ chúng tôi để ý đến ngày tháng làm nên chuỗi sự kiện đó cả!
Khi tôi đến thăm Renfield, hắn đang ngồi yên ở một xó phòng. Thấy tôi vào, hắn nhe răng cười rất hiền. Lúc đó, tôi có cảm giác hắn đã hoàn toàn tỉnh táo như một người bình thường. Tôi ngồi xuống và nói với hắn không biết bao nhiêu là chuyện, và hắn đáp lại tôi đúng như một người có tâm thần lành lặn. Thế rồi hắn bỗng nhắc tới chuyện hắn muốn trở về nhà - điều mà hắn chưa bao giờ nhắc tới từ khi vào viện tới nay. Tôi tin rằng nếu không có cuộc nói chuyện với Jonathan và chưa đọc những lá thư mà anh đang có trong tay, hoặc chưa xem lại những ngày tháng mà Renfield bị lên cơn điên, thì thế nào tôi cũng sẽ cho hắn ra viện trong một vài ngày tới. Nhưng thú thực về mặt suy luận, tôi vẫn chưa thể hiểu chuyện gì đã xảy ra. Cứ cho là những lần lên cơn điên của Renfield trùng với sự xuất hiện của lão bá tước ở ngôi nhà bên, nhưng không hiểu tâm trạng của hắn bây giờ ra sao? Chẳng lẽ ma cà rồng lại có nhiều quyền năng đến thế” Tôi không thể quên được chuyện Renfield đã ngấu nghiến nhai cả ruồi nhặng lẫn nhện sống, và trong cơn điên cuồng loạn, hắn đã tới trước cửa ngôi nhà bỏ hoang mà gào lên “ông chủ”. Điều này có thể khẳng định giả thiết của chúng tôi. Nếu thế thì tôi phải giữ hắn lại. Tôi thấy có vẻ hắn đủ tỉnh táo để trả lời những câu hỏi mà hắn có thể đoán được mục đích của tôi: muốn hiểu rõ về con người lão bá tước. Chưa bao giờ hắn tỉnh táo đến thế!... Vâng, tôi sẽ giữ hắn lại. Tôi bỗng thấy nghi ngờ những khi hắn ngoan ngoãn. Tôi phải nhắc tay giám thị để mắt tới hắn và giữ hắn bằng một chiếc áo trói thật chắc chắn.


Nhật ký của Jonathan Harker


Ngày 29 tháng 9
Tôi viết nhật ký trong chuyến tàu đi Luân Đôn. Khi Billington nhiệt tình hứa sẵn sàng cung cấp cho tôi toàn bộ các thông tin mà ông có, tôi nghĩ ngay mình sẽ gặp may ở Whitby. Thực ra, bây giờ tôi chỉ muốn biết chính xác một chỗ ở Luân Đôn, nơi đã nhận chuyến hàng mờ ám của lão bá tước. Người con trai của Billington, một chàng trai tốt bụng, đợi đón tôi ở ga.
Họ bố trí cho tôi ngủ qua đêm ở ngay nhà mình. Tại đó, tôi được đón tiếp rất chân tình theo cách riêng của người Yorkshire và cho phép tôi có thể làm bất cứ việc gì tôi muốn. Biết tôi phải giải quyết nhiều việc trong một thời gian rất ngắn, Billington đã chuẩn bị cho tôi toàn bộ số giấy tờ liên quan đến việc gửi các thùng hàng mờ ám. Người tôi bỗng run lên khi nhận ra một trong số những lá thư mà tôi đã từng nhìn thấy trên bàn của lão bá tước vào cái ngày tôi còn chưa được biết những kế hoạch đen tối của lão Lão đã nghĩ rất kỹ mọi tình huống, hành động rất chính xác và có bài bản. Dường như lão đã trù tính trước mọi chướng ngại có thể gặp phải trong quá trình thực hiện âm mưu của mình.
Để thể hiện mình theo phong cách làm ăn của người Mỹ, lão “không chịu bất cứ một rủi ro nào” về chuyến hàng, và sự chính xác mà lão đờí phải ghi trong các hướng dẫn vận chuyển hàng chỉ là hệ quả của một suy tính cực kỳ cẩn thận đối với một phi vụ mờ ám. Tôi để ý thấy trong hóa đơn giao hàng đặc biệt có dòng chữ: Năm mươi thùng đất thường sử dụng cho các cuộc thí nghiệm. Ông chủ nhà Billington cũng chỉ cho tôi bản sao lá thư gửi công ty Carter, Paterson & Cie và thư trả lời của công ty này. Billington cho tôi một bản sao của hai lá thư. Biết đây là những thông tin duy nhất mà ông có thể cung cấp, tôi bèn xuống cảng để hỏi thêm mấy nhân viên bảo vệ, thuế quan và viên đội trưởng quản lý cảng. Tất cả đều có chuyện để nói về việc cập cảng bất thường của con tàu bí ẩn nay đã trở thành một chuyện truyền miệng của người địa phương. Tuy nhiên, chẳng có ai trong số họ có thể đưa ra lời giải thích tối thiểu về những gì được chứa đựng bên trong các thùng gỗ kia, và vì vậy, tôi chỉ còn cách bằng lòng với một thông tin duy nhất ghi trên hóa đơn: năm mươi thùng đất thường. Sau đó, tôi tìm đến vị trưởng ga. Nghe tôi đặt vấn đề, ông cho gọi ngay những người đã từng tham gia vận chuyển các thùng hàng đó tới. Nhưng số người này cũng chỉ cho tôi biết được cái điều tôi không thể chắc chắn: đó là năm mươi thùng gỗ, và họ cũng không thể nói được gì thêm nếu không phải là “các thùng gỗ ấy to và nặng khủng khiếp”, hoặc “nâng được chúng lên rồi thì mình cũng đến chết khác.
Đúng là mất công vô ích!
 
Ngày 30 tháng 9
Vị trưởng ga viết vài dòng thư tay giới thiệu tôi với một đồng nghiệp của ông ở Kings Cross để khi tới Luân Đôn vào sáng nay, tôi có thể đặt vấn đề ngay với anh ta về những gì tôi muốn biết thêm về các thùng hàng gỗ khi chúng được dỡ xuống đây. Về phần mình, anh ta cũng cho gọi ngay những phu khuân vác từng tham gia bốc dỡ các thùng hàng này đến cho tôi tìm hiểu, song số người này cũng chỉ nói được số lượng các thùng hàng là năm mươi. Cớ điều không thấy ai kêu ca về sự đói khát lạ thường cả. Song dù có sự khác thường hay không thì tôi vẫn phải chán nản mà cảm ơn những người phu khuân vác này.
Từ ga Kings Cross, tôi uể oải về văn phòng làm việc của công ty Carter, Parterson ở Cie, nơi họ đã đón tiếp tôi rất lịch sự. Sau khi tìm hồ sơ giao dịch cho tôi, các nhân viên đã gọi điện cho chi nhánh Kings Cross để hỏi các thông tin chi tiết chính xác. Đám tài xế xe tải vừa chở hàng về. Theo đề nghị, họ chuyển ngay cho chúng tôi một báo cáo về chuyến hàng. Người ta đã đưa cho một người trong số họ một thư giao hàng và các giấy tờ khác liên quan tới việc vận chuyển các thùng hàng đến Carfax. Số thùng hàng ở đây cũng trùng khớp với số ghi trên hóa đơn. Ngoài ra, các tài xế cũng đồng ý cung cấp cho tôi các chi tiết bổ sung mà họ biết. Các chi tiết liên quan, nếu có thể gọi là như vậy, mà tôi nhận được chỉ là một sự bất tiện rất khó chịu của công việc - đó là bụi và những cơn khát cháy cổ. Nhưng khi tôi để cho đám tài xế ngồi xả hơi và biếu họ một vài giấy bạc lẻ, một tay tài xế bỗng cao hứng reo rất to, giọng đặc sệt nhà quê :
- Ngôi nhà ấy, thưa ông chủ, chỉ toàn bụi là bụi thôi? Đúng là một điều kỳ lạ nhất mà em từng thấy trong đời! Em thề đấy! Nhìn ngôi nhà cứ như cả trăm năm nay cũng chưa có người đặt chân vào ấy! Bụi cứ là dày hàng tấc! Dày thế này này... đến nỗi người ta có thể nằm ngủ mà chẳng sợ bị đau lưng! Ngôi nhà hoang tàn chẳng khác nào Jerusalem cổ xưa! Nhưng ghê nhất phải là cái nhà thờ riêng trong ấy?
- Chết, chết, chết! Em chẳng thấy nó giống ở đâu cả! Lúc bước ra ngoài, em và mấy thằng bạn cứ ngỡ là mình vừa từ cõi chết trở về? Chúa ơi? Em chẳng thể nán lại đó một tích tắc khi trời đã tối!
Tất nhiên là tôi tin ở lời nói của anh ta, và tôi cũng tin chắc là nếu biết tất cả những gì tôi đã biết, anh ta sẽ có một giọng diễn cảm hơn thế nhiều.
Dù thế nào thì bây giờ tôi cũng chắc chắn được một điều: tất cả các thùng hàng được chuyển từ Varna đến Whitby bằng tàu Demeter rồi được chuyển tới nhà thờ riêng Carfax. Cả thảy là năm chục thùng, và sau khi đọc nhật ký của bác sĩ Seward, tôi e từ đó tới nay, ít nhất cùng phải có vài thùng được sử dụng rồi.
Tôi sẽ cố gắng tìm lại người tài xế xe tải từng đánh nhau với Renũeld lúc chở hàng ở Carfax. Theo dấu vết này, biết đâu chúng tôi chẳng tìm ra một cái gì đó không đến nỗi tồi?
Lát sau
Tôi và Mina đã làm việc suốt cả ngày, vì vậy mọi loại tài liệu bây giờ đều đã được sắp xếp đâu ra đấy.


Nhật ký của Mina Harker


Ngày 30 tháng 9
Tôi cảm thấy vui đến nỗi tạm thời có thể mãn nguyện với chính mình. Có lẽ đó là phản ứng bình thường đối với một sự lo lắng cực độ luôn thường trực trong tôi: lúc nào tôi cũng sợ khi bị nhắc lại vết thương lòng, Jonathan sẽ lại lên cơn vật vã. Lúc chuẩn bị đi Whitby, trông anh có vẻ đã hoàn toàn làm chủ được bản thân, nhưng không vì thế mà tôi không muốn chết vì lo. Ơn Chúa! Mọi nỗ lực và công việc của anh đều được thực hiện ổn thỏa với sự giúp đỡ nhiệt tình của những người anh cần gặp. Chưa bao giờ tôi thấy anh khỏe khoắn, nghị lực và quyết tâm đi đến tận cùng của sự việc đến thế. Vị giáo sư già tất bụng Van Helsing đã nói đúng: Jonathan quả là một người thật dũng cảm, càng gặp khó khăn trở ngại, anh càng hăng hái đương đầu với thử thách. Lúc anh trở về, tôi thấy anh có vẻ tràn trề hy vọng và thể hiện rõ quyết tâm hơn. Anh giúp tôi hoàn thành nốt việc sắp xếp tài liệu mà anh vừa thu được theo trình tự thời gian. Bây giờ, tất cả đã được chuẩn bị chu đáo. Trong lòng tôi cảm thấy nhẹ nhõm và phấn khích hơn trước nhiều. Thú thực là lúc đầu, tôi cũng tự hỏi rằng xét cho cùng, có cần thiết phải thương hại một tạo hóa bị săn đuổi như lão bá tước hay không. Bởi cái tạo hóa này chẳng có chút gì được gọi là nhân tính cả, nhưng lão cũng đâu cớ giống một con vật. Tuy nhiên, hễ cứ nhớ đến cái chết của Lucy và những sự kiện diễn ra sau đó là tôi lại thấy điên tiết lên?
* * * * *
Một lúc sau
Huân tước Godalming và Moriss đến sớm hơn so với mong đợi của chúng tôi. Bác sĩ Seward phải dẫn Jonathan đi thăm mấy người bệnh, nên tôi là người trực tiếp đón tiếp họ. Thú thực, tôi cảm thấy hơi khó khăn trong chuyện này, bởi nhìn thấy họ, tôi lại chợt nhớ đến những niềm hy vọng của Lucy cách đây ít tháng! Vâng, Lucy đã không ít lần nói chuyện với tôi về họ và tôi còn nhớ hình như cũng đã có lần Van Helsing “đọc diễn văn” ca ngợi Quincey Moriss rồi thì phải. Thật là những chàng trai tội nghiệp! Họ đâu có hiểu tôi là người đã biết rõ chuyện từng người hỏi cưới Lucy! Hình như họ vẫn tưởng tôi chưa biết gì về những tình cảnh thảm thương xảy ra với cái chết của cô thì phải, bởi trước mặt tôi, họ chỉ toàn nói chuyện về thời tiết và những chuyện hươu vượn khác. Bởi vậy, tôi phải nói rõ tình hình hiện tại cho họ nghe.
Qua nhật ký của Seward, tôi biết họ cũng có mặt trong cái chất - ý tôi muốn nói là cái chết thật sự - của Lucy, vì thế nên chẳng còn gì phải giữ bí mật ở đây cả. Tôi nói để họ biết rằng hai vợ chồng tơi đã đọc tất cả các tài liệu có trong tay rồi đánh máy lại hết theo một trình tự thời gian. Và tôi đưa cho mỗi người một bản sao để họ ngồi đọc trong thư viện. Huân tước Godalming hỏi tôi :
- Thưa bà Harker, có phải bà là người đã đánh máy toàn bộ số tài liệu này không?
Thấy tôi gật đầu, anh hỏi tiếp :
- Tôi chưa rõ lắm mục đích việc làm của mọi người, nhưng tôi thấy các bạn đều rất tất với tôi, rất tận tâm vì tôi. Sự nhiệt tình của mọi người ft đầu đến giờ dường như đã mang lại nhiều kết quả. Bây giờ, tất cả những gì tôi có thể làm là tin tưởng và đáp lại sự giúp đỡ của mọi người. Tôi thừa nhận các sự việc và biết rằng mọi người cũng rất yêu thương Lucy...
Anh bỗng gục đầu xuống, hai tay ôm mặt, giọng thổn thức trong những tiếng nấc. Moriss đặt tay lên vai anh một lúc, như một cử chỉ an ủi người bạn đang tủi thân, rồi lặng lẽ bước ra ngoài. Chắc là trong tính cách bản năng của phụ nữ chúng tôi phải có một cái gì đó mới khiến một người đàn ông dễ dàng bày tỏ cảm xúc và nỗi lòng đau đớn của mình như vậy mà không hề sợ mất thể diện.
Thấy chỉ còn hai người trong phòng, anh đổ vật người xuống ghế trang kỷ và chẳng cần cố giấu đi nỗi đau trong lòng. Tôi đến bên cạnh và nắm chặt lấy bàn tay anh. Tôi hy vọng cử chỉ của mình sẽ không bị đánh giá là quá gần gũi đối với một người đàn ông khác. Và nếu sau này, khi có nhớ lại, anh cũng sẽ không bao giờ nghĩ về tôi như vậy. Nhưng có lẽ tôi đã hơi lo xa, bởi tôi biết anh là một người lịch lãm, quý tộc, sẽ chẳng bao giờ anh nghĩ như vậy trong đầu.
- Tôi cũng rất thương Lucy, - Tôi tâm sự - và tôi cũng rất hiểu tình cảm cô ấy dành cho ngài cũng như những gì ngài đã dành cho cô ấy. Tôi và cô ấy vẫn coi nhau như hai chị em. Bây giờ cô ấy không còn nữa, vậy ngài có thể coi tôi như một người em gái được không? Tôi biết ngài vừa trải qua hai nỗi bất hạnh lớn trong đời, nếu như tình cảm chân tình của tôi có thể làm ngài nguôi ngoai đi phần nào nỗi buồn trong lòng, thì xin ngài hãy cho phép tôi được giúp ngài...
Chàng trai tội nghiệp bỗng khóc nấc lên, nướe mắt lăn dài trên gò má. Thương anh quá mà chẳng biết làm sao? Trong lúc xúc động, anh đã ngả đầu vào vai tôi mà nức nở như một đứa trẻ.
Cũng như những người phụ nữ khác, bản năng của một người mẹ chợt thức dậy trong tôi khi gặp một người cần sự che chở và niềm an ủi. Tôi cảm thấy chàng trai đang gục đầu thổn thức trên vai tôi giống như một đứa con bé bỏng mà sẽ có ngày tôi được bế trong vòng tay. Tôi vuốt mái tóc của anh như mái tóc của một đứa con trai.
Cuối cùng, khi đã trấn tĩnh trở lại, anh từ từ ngẩng mặt lên và thú nhận rằng bấy lâu nay, anh chưa có dịp nào tâm sự cùng ai về sự chán chường và tuyệt vọng trong lòng mình. Anh không còn cảm thấy hứng thú khi giao thiệp với những người con gái khác và hơn nữa, anh không thể nói chuyện thân tình được với bất cứ một cô gái nào sau những tình cảnh trớ trêu vừa qua.
- Tôi biết tôi phải chịu đựng đến mức nào, - Anh vừa nói vừa lau nước mắt - nhưng việc bà làm hôm nay vì tôi thật sâu nặng đến mức ngay bây giờ tôi chưa thể hiểu hết giá trị của nó, và sẽ chẳng bao giờ có ai hiểu được điều đó. Nhưng tôi có thể hiểu là tới một ngày nào đó, khi tôi đã thấm thía hoàn toàn việc làm của bà, thì xin bà cứ tin rằng sự biết ơn của tôi đối với bà sẽ còn sâu sắc hơn rất nhiều. Kể từ ngày hôm nay, để tưởng nhớ đến Lucy, tôi xin được coi bà như một người em gái.
- Vâng, để tưởng nhớ tới Lucy của chúng ta. - Tôi đáp lại và siết chặt bàn tay anh.
- Và cũng vì những gì thuộc về con người bà nữa chứ, - Anh nói tiếp - bởi nếu bao giờ cớ ai đó xứng đáng dành được lòng biết ơn và sự trân trọng của một người đàn ông, thì bà chính là người đã dành được trọn vẹn lòng tôi. Nếu sau này, khi nào cần tới sự giúp đỡ tận tình của một người bạn chân thành, thì xin bà hay nghĩ tới tôi. Chúa sẽ không bao giờ để bà phải trải qua những ngày đen tối nữa? Nhưng nếu điều đó vẫn cứ xảy ra thì xin bà hãy cho tôi biết ngay!
Tôi hoàn toàn cảm nhận được tâm trạng và sự nghiêm túc trong giọng nói của anh, và có lẽ lời hứa của tôi sẽ phần nào an ủi được anh.
- Vâng, tôi xin hứa như vậy!
Ngoài hành lang, Moriss đang đứng trầm ngâm trước ô cửa sổ. Vừa nghe thấy tiếng bước chân tôi, anh quay sang hỏi luôn :
- Arthur thế nào rồi?
Thấy hai mắt tôi đỏ hoe, anh đỡ lời ngay :
- A! Tôi biết thế nào bà cũng tìm cách an ủi anh ấy mà. Tội nghiệp anh chàng, anh ấy rất cần được an ủi? Chỉ có phụ nữ mới làm nguôi ngoai được nỗi lòng của một người đàn ông, và cử chỉ dịu dàng của người phụ nữ mới...
Tuy nhiên, ngay cả Moriss cũng không phải là người có thế dễ dàng vượt qua được nỗi đau trong lòng nếu không có sự can đảm và bản lĩnh của một người đàn ông cương nghị. Khi nhận thấy trên tay anh là một xấp giấy đánh máy, tôi chợt hiểu anh đã đọc những gì tôi đưa và biết tôi là người đã rõ mọi chuyện.
- Tôi rất muốn an ủi tất cả những ai có nỗi đau trong lòng? - Tôi nói. - Hãy cho phép tôi được là một người bạn, một người bạn mà ông có thể tìm gặp bất cứ lúc nào cần có sự giúp đỡ. Sau này ông sẽ hiểu tại sao tôi lại nói với ông như vậy.
Moriss nghiêng mình hôn lên bàn tay tôi. Thực tình mà nói, tôi vẫn cảm thấy mình quá nhỏ bé và yếu đuối để có thể giúp đỡ một chàng trai hào hiệp à vô tư này! Tôi không biết phải làm thế nào để bày tỏ tình cảm trân trọng của mình đối với anh. Những giọt nước mắt chứa đầy nỗi niềm chợt lăn dài trên gò má chàng trai đáng thương, khiến anh không thể nói thêm được điều gì. Phải một lúc sau, anh mới bình tĩnh lại và bảo tôi :
- Cô bé à, sẽ không bao giờ em phải lấy làm tiếc vì đã bày tỏ tấm lòng c.ủa mình đối với tôi đâu, không bao giờ?...
Rồi anh lặng lẽ quay vào phòng với người bạn của mình.
“Cô bé...” Đúng là những lời nói mang nặng ân tình mà anh đã từng dùng để nói với Lucy, nhưng rõ ràng anh cũng đáng là một người bạn thân lắm chứ!

Hết chương 17
Phù mệt quá hôm sau post tiếp :D
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top