Ba cấp độ của Dân chủ
Hỏi: Hiện nay trong xã hội đang bàn rất nhiều đến dân chủ. Những ý kiến tương đối độc lập bên ngoài mô tả dân chủ dưới một dạng, trong khi đó đảng cầm quyền mô tả dân chủ dưới dạng khái niệm dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Hình như hai cách mô tả về dân chủ ấy không gặp được nhau. Lý do của nó là gì thưa ông?
Trả lời: Đấy là một cách gọi trong khi chúng ta chưa giải quyết một cách căn bản về phương diện lý luận khái niệm dân chủ trong thực tiễn đời sống chính trị Việt Nam. Chúng ta chưa giải quyết được về mặt lý luận, nhưng chúng ta cũng không trốn tránh được sự đòi hỏi phải công nhận địa vị chính trị của nó nên chúng ta phải đưa ra khái niệm dân chủ xã hội chủ nghĩa mà không giải thích được nội dung của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Chỉ có một người có thể giải thích được, đó làchủ tịch Hồ Chí Minh. Nếu phân tích toàn bộ quá trình thực thi nền dân chủ Việt Nam trong thời kỳ của Hồ Chí Minh thì chúng ta sẽ thấy ông xử lý vấn đề dân chủ trong hoạt động của xã hội Việt Nam một cách có cơ sở khoa học như thế nào.
Hỏi: Những cái mà xã hội hay nói đến phải chăng do họ tiếp cận khái niệm dân chủ từ phương Tây vào cho nên nó không phù hợp với cái ông vừa nói là dân chủ Việt Nam?
Trả lời: "Xã hội" là một từ dùng hơi oan, đúng ra phải là "giới trí thức Việt Nam". Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền thì xã hội Việt Nam không có khái niệm dân chủ. Trong thời kỳ Pháp thuộc mà rõ rệt nhất là từ khi Mặt trận bình dân Pháp thắng thế thì có một số biểu hiện dân chủ trong sự cai trị của thực dân Pháp đối với xã hội chúng ta. Chính cái thắng thế của Mặt trận Bình dân Pháp, tức là của cánh tả trong đời sống chính trị ở Pháp đã tạo ra việc thả những người như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt... Nhiều nhà lãnh đạo của Đảng ta được giải phóng ra khỏi nhà tù vào đúng thời kỳ Mặt trận Bình dân của Pháp, khi lực lượng cánh tả Pháp thắng thế. Cho nên khái niệm dân chủ mà chúng ta gọi là dân chủ phương Tây nó lóe lên một chút vào giai đoạn năm 1936 - 1939. Phải nói rằng giới trí thức Việt Nam rất tinh khi chụp được ảnh tia chớp dân chủ thời kỳ Mặt trận Bình dân Pháp. Trước đó giới trí thức của chúng ta cũng đã âm thầm dịch một cách không nhiều lắm các tác phẩm của phương Tây mô tả dân chủ như tác phẩm của Montesquieu, Rouseau… Hay nói cách khác, trước khi xuất hiện Mặt trận Bình dân Pháp, người Việt rất ít kiến thức về dân chủ. Thời kỳ Mặt trận Bình dân kéo dài được vài năm, cánh tả ở Pháp thua, mất quyền kiểm soát, do đó tất cả những mặt bảo thủ của đời sống quay trở lại, các yếu tố dân chủ ở Việt Nam lại khép lại từ đấy. Các kiến thức về dân chủ lóe lên trong một thời gian ngắn và không ai nghiên cứu nó một cách đầy đủ, vì thế cho nên kiến thức của giới trí thức Việt Nam về khái niệm dân chủ là không hệ thống và không đầy đủ. Đem so với sự xâm nhập của chủ nghĩa Marx vào Việt Nam thì phải nói rằng khái niệm gọi là dân chủ phương Tây vào Việt Nam với một khối lượng ít hơn nhiều so với chủ nghĩa Marx. Do đó, có lẽ giới trí thức Việt Nam tiếp nhận khái niệm dân chủ theo kiểu Marx một cách thuận lợi hơn, có điều kiện hơn so với khái niệm dân chủ theo nghĩa phổ quát mà chúng ta vẫn quen gọi là dân chủ phương Tây.
Theo quan điểm của tôi, dân chủ không phải là khái niệm của phương Tây hay phương Đông.Dân chủ là một phẩm hạnh, một kinh nghiệm, một trào lưu của đời sống chính trị. Dân chủ là một yêu cầu phổ quát.
Sau này, khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, sự xuất hiện của một vài mô hình dân chủ ở các nước châu Á càng làm rõ hơn dân chủ không phải là của riêng phương Tây, mặc dù nó đi từ phương Tây đến. Nó đi với những nhân tố tiến bộ trong phong trào thuộc địa mà người phương Tây áp đặt lên phương Đông. Các nước phương Tây đều dân chủ cả, do đó nó mang đến Việt Nam không chỉ chủ nghĩa thực dân mà cả những yếu tố chống chủ nghĩa thực dân ở phương Tây. Chúng ta tiếp nhận phần chính là phần chủ nghĩa thực dân, nhưng cũng đồng thời tiếp nhận cả phần phụ của nó là tính đa nguyên của đời sống chính trị phương Tây, là các yếu tố dân chủ. Nếu chỉ có chủ nghĩa thực dân với sự bóc lột thuộc địa thì không thể có Thơ mới, không thể có Tự lực văn đoàn, không thể có một sự thức tỉnh rất rộng rãi trong giới trí thức Việt Nam về cái gọi là tự do và dân chủ. Người Pháp đến đây có cả những kẻ thực dân và có cả những người trí thức. Gần đây chúng ta nói rất nhiều về vai trò của họa sĩ Victor Tardieutrong việc sáng lập trường Mỹ thuật Đông Dương. Có nhiều người Pháp đến Việt Nam không thực dân chút nào. Ví dụ, chúng ta nói đến Alexandre Yersin, nói đến Louis Pasteurchẳng hạn, những con người ấy không mang trong mình một chút gì thực dân cả, họ là những người khai sáng. Những ai có thiện cảm với phương Tây thì gọi đó là Khai sáng, còn những ai không có mối quan hệ để có thiện cảm thì xem tất cả những người Pháp ấy đều là thực dân. Người ta quan niệm như thế cũng không sai vì trên thực tế chỉ có giới trí thức được hưởng những lợi ích mà người Pháp mang lại, còn người nông dân thì chỉ được hưởng cái tàn tệ của chủ nghĩa thực dân. Trong bối cảnh như vậy nếu không phân tích đầy đủ thì không làm cách mạng được, đặc biệt không làm cách mạng tháng Tám được.
Hỏi: Vậy các giá trị dân chủ du nhập vào Việt Nam được các nhà cách mạng của ta sử dụng như thế nào, thưa ông?
Trả lời: Các nhà cách mạng tiền bối của chúng ta sử dụng một cách rất thú vị, bởi họ đều là những trí thức. Trường Chinh là một trí thức, Nguyễn Đức Cảnh cũng là một trí thức, Phan Đăng Lưu, Trần Phú, Hà Huy Tập cũng là trí thức. Lớp trước là Hồ Chí Minh cũng là trí thức. Cụ Hồ đã biết tiếng Pháp từ trước khi sáng Pháp. Biết tiếng Pháp vào thời kỳ năm 1911 là trí thức rồi. Giới trí thức của chúng ta sử dụng các giá trị ấy rất giỏi. Sâu sắc như Hồ Chí Minh thì đi tìm hiểu cặn kẽ hơn rằng tại sao nó lại như thế để giải thích thế giới, giải thích các động lực của thế giới, giải thích các động lực của vấn đề thuộc địa... Còn những người gần gũi với cách mạng theo một cái nghĩa ít chủ động hơn một chút thì làm báo. Mà tự do báo chí những năm 36-39 chính là sản phẩm của các khía cạnh dân chủ của cái mẫu quốc đã tạo ra những kẻ thực dân ở Đông dương. Các trí thức của chúng ta, những người tiền bối cách mạng của chúng ta chớp được cái đấy, và phải nói rằng đấy là cái môi trường để truyền bá các tư tưởng mà Đảng ta đã thực thi. Tất cả các nhà cách mạng tiền bối của chúng ta đều là các nhà tri thức cả, nghe đồn chỉ có cụ Ngô Gia Tự là công nhân thôi. Như chủ tịch Tôn Đức Thắngchẳng hạn, người ta bảo ông là công nhân, nhưng vợ tôi về tận quê ông thăm ngôi nhà của gia đình ông thì thấy chẳng công nhân tí nào. Mà ngay cả là công nhân đi nữa thì công nhân kỹ thuật ở thời đại ấy cũng được xem là trí thức.
Hỏi: Ông có thể phân tích kỹ hơn là các nhà cách mạng của chúng ta thời trước năm 45, thời khai sinh ra Đảng Cộng sản VN, sử dụng các giá trị dân chủ như thế nào?
Trả lời: Không có giá trị dân chủ thì họ không hoạt động cách mạng được, không có phương thức để liên kết những người cùng khổ với nhau được, không có phương thức để sử dụng báo chí cho hoạt động cách mạng được, không sử dụng văn học nghệ thuật cho hoạt động cách mạng được. Phải nói rằng họ sử dụng tất cả những gì có thể sử dụng được. Chúng ta thấy là trong những tờ báo Cụ Hồ làm vào đầu thế kỷ XX, tất cả những gì mà ông cụ dùng để làm ra những tờ báo như vậy, kể cả các minh họa, đều là kết quả của nền nghệ thuật phát triển ở phương Tây. Hay Nguyễn Đức Cảnh chẳng hạn, đấy là một người hát dân ca rất giỏi, biết sử dụng cả những cái như vậy để tổ chức, kêu gọi hay quyến rũ nhân dân đi theo cách mạng. Nhiều người lắm, nhiều cách thức lắm, nó muôn hình muôn vẻ. Vào thời điểm hiện nay chúng ta phải học lại những gì mà những người tiền bối đã làm.
Hỏi: Lúc ấy khi họ sử dụng sức mạnh dân chủ thì họ đã có khái niệm nào về dân chủ xã hội chủ nghĩa chưa?
Trả lời: Chưa. Các vị ấy không đặt nổi cái tên ấy, và hình như trên thế giới cũng chưa ai đặt ra cái tên như thế. Dân chủ xã hội chủ nghĩa, rồi pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đó là những thuật ngữ sáng tạo rất độc đáo của những người Cộng sản Việt Nam vào cuối thể kỷ XX, trước đó không có.
Hỏi: Các giá trị dân chủ ấy được đưa vào đời sống chính trị như thế nào?
Trả lời: Đưa vào tất cả những khía cạnh. Ví dụ, người Pháp đã tổ chức những chương trình vui vẻ, trẻ trung như đua xe đạp để làm cho thanh niên, trí thức Việt Nam quên những mặt trái của chủ nghĩa thực dân và xa rời đời sống của người nghèo khổ. Đấu tranh chính trị vào thời kỳ ấy là đưa ra những đối sách để vô hiệu hóa những tác động của các giải pháp như vậy của những kẻ thực dân. Mà những kẻ thực dân ấy tận dụng cái gi? Tận dụng các nền tảng tự do dân chủ phương Tây, các kiến thức của tự do dân chủ phương Tây để giải quyết các vấn đề quản trị và cai trị.
Chúng ta đã học được rất nhiều thứ. Ví dụ, kinh tế thị trường là một khái niệm nằm trong cái gọi là dân chủ phương Tây, chúng ta cũng học được đôi chút về nó nên mới xuất hiện các nhà tư bản trong thời kỳ người Pháp xâm chiếm. Những người cộng sản của chúng ta ở thời kỳ đầu biết đi vào giai cấp công nhân, biết hợp tác với giới thương nhân. Trước đó chúng ta chưa có giai cấp công nhân, giai cấp công nhân công nghiệp hình thành cùng với chủ nghĩa thực dân. Cái mà xã hội Việt Nam nhận ra được là giai cấp công nhân, những mỏ than, các đồn điền mà chủ tịch Lê Đức Anh cũng có thời làm phu. Phu mỏ, phu đồn điền, thậm chí cả quân đội, tất cả những người như vậy, những công việc như vậy xuất hiện cùng chủ nghĩa thực dân. Quân đội mà nhà nước thực dân có là được tuyển mộ từ người Việt. Thậm chí quân đội Pháp đi tác chiến ở Châu Phi, ở chiến tranh thế giới thứ 2 cũng được tuyển mộ từ các vùng thuộc địa. Nhiều người Việt Nam ở nước ngoài đã từng đi lính, nguồn gốc đi lính trong cộng đồng Việt kiều ở Pháp chiếm tỷ lệ không nhỏ. Chúng ta thâm nhập vào tất cả các hoạt động như vậy. Và phải nói rằng, người Việt Nam có khá nhiều kinh nghiệm về nền dân chủ phương Tây, nhưng không đạt đến mức chuyên nghiệp. Chỉ có một vài nhà trí thức chuyên nghiên cứu chuyện đấy như: cụ Phan Châu Trinh, cụ Phan Văn Trường, cụ Hồ Chí Minh, còn lứa sau hơn nữa như giáo sư Trần Đức Thảo đã nâng sự nghiên cứu ấy lên tầng triết học.
Hỏi: Đến thời kỳ Việt minh giành chính quyền, thành lập ra nước Việt Nam mới, lập ra nền dân chủ cộng hòa đầu tiên ở Đông Nam Á, lúc ấy các giá trị dân chủ phương tây được du nhập bằng cách nào vào các sinh hoạt chính trị?
Trả lời: Nó được du nhập bằng Hồ Chí Minh và những người đồng sự của ông Cụ, cả những người lớp trước ông Cụ một chút, ví dụ như Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, và cả lớp sau ông Cụ. Bên cạnh Hồ Chí Minh, vào thời điểm những năm 1945-1946 có rất nhiều trí thức được đào tạo tại phương Tây một cách rất bài bản như giáo sư Hồ Đắc Di, giáo sưHoàng Đình Cầu, giáo sư Tôn Thất Tùng, giáo sư Nguyễn Văn Huyên, giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, Những người như vậy xuất hiện bên cạnh Hồ Chí Minh rất nhiều. Nếu những người ấy không nhìn thấy ở Hồ Chí Minh những phẩm chất dân chủ mà họ đã quen biết từ phương Tây thì họ không theo Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là nhà chính trị có kích thước lớn đầu tiên ở Việt Nam ý thức một cách chuyên nghiệp vai trò chính trị của khái niệm dân chủ. Đấy là vai trò tập hợp những thành phần ưu tú nhất. Sau này chúng ta chịu ảnh hưởng củaMao Trạch Đông, của Stalin và cái nhận thức ấy nó giữ một tỷ trọng ít dần đi, cho nên chúng ta dẫn đến khái niệm dân chủ xã hội chủ nghĩa. Còn lúc đầu là khái niệm dân chủ, tập trung cơ bản vào tuyên ngôn độc lập, tập trung cơ bản vào Hiến pháp năm 1946. Phải nói rằng, tinh thần dân chủ của phương Tây là cứ liệu, là lực lượng cơ bản tạo ra sự xuất thần củaTuyên ngôn Độc lập và Hiến pháp năm 1946.
Hỏi: Vậy có thể đặt tên cho nền dân chủ chính trị Việt Nam giai đoạn liền trước và sau năm 1945 là dân chủ Hồ Chí Minh được không?
Trả lời: Hoàn toàn có thể gọi được như thế. Nhưng nếu gọi là dân chủ Hồ Chí Minh thì sẽ xung đột với quan niệm của những người cộng sản không hoàn toàn đồng ý với chất lượng của khái niệm dân chủ mà phương Tây là kẻ tạo ra nội dung. Không phải trong phong trào cộng sản quốc tế, cũng không phải trong những người cộng sản tiền bối Việt Nam ai cũng tán thành các quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ. Cho nên, ngay cả khái niệm dân chủ ấy cũng thể hiện một cuộc đấu tranh không chỉ trong xã hội của chúng ta mà còn cả trong Đảng của chúng ta, không phải khi cầm quyền mà ngay cả trước khi cầm quyền. Ngay từ năm 30, nhìn cương lĩnh chính trị của Trần Phú, chúng ta thấy rằng màu sắc của quá trình dân chủ rất ít. Màu sắc phân biệt giai cấp là cơ bản, là giai điệu chính của cương lĩnh chính trị Trần Phú. Nhưng trongCương lĩnh vắn tắt của Hồ Chí Minh thì màu sắc dân chủ rõ hơn, bởi vì nó thừa nhận vai trò của sự thống nhất dân tộc hay vai trò của sự thừa nhận những yếu tố sơ khai của đa nguyên chính trị. Và chính cái lý thuyết về sự thống nhất dân tộc ấy thể hiện thông qua Việt Minh, thông qua nhiều hình thức mặt trận khác của Hồ Chí Minh là những yếu tố tạo ra những sách lược mềm dẻo nhất của người Cộng sản, để tạo ra sự thành công của Cách mạng tháng Tám.
Hỏi: Nếu gọi nền dân chủ đó là dân chủ Hồ Chí Minh thì như ông nói sẽ có sự xung đột với các quan điểm dân chủ khác, nhưng có thể nói là những năm 1945 và sau đấy những năm thời kỳ đầu của Kháng chiến chống Pháp cái nền dân chủ Hồ Chí Minh ấy nó mang tính bao trùm?
Trả lời: Đúng, nhưng chỉ đến thời điểm mà những xung đột theo kiểu mâu thuẫn luận của Mao tạo ra sự thất bại khá lớn không phải chỉ ở Việt Nam mà ngay cả ở Trung Quốc. Đọc lại lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc, anh sẽ thấy Mao Trạch Đông là người chủ trương vũ trang khởi nghĩa. Chính cái phương pháp ấy đã khiến Mao Trạch Đông thua hết trận này đến trận khác. Để nói về chuyện này một cách có sử liệu, có căn cứ thì rất mất thì giờ, tôi không có điều kiện làm như vậy. Tôi chỉ muốn nói rằng khia cạnh phi dân chủ phương Tây ấy đến từ Trung Quốc, đến từ Mao Trạch Đông. Ngay cả những người Cộng sản trong Đảng cộng sản Trung Quốc cũng không hoàn toàn tán thành các tư tưởng của Mao Trạch Đông. Thế mới có những cuốn sách như "Mao Trach Đông nghìn năm công tội". Đấy là thực tế chính trị, là môi trường chính trị hình thành và phát triển Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tóm lại, trong Đảng của chúng ta có nhiều quan niệm, có quan niệm dân chủ theo kiểu phương Tây, có cả quan niệm phi dân chủ theo kiểu Mao, theo kiểu Stalin, thậm chí còn cực đoan hơn cả Mao và Stalin là Trotsky, tức là làm cách mạng toàn cầu. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về cách mạng và các giá trị cơ bản của cách mạng là thân phận người dân, có nhiều trường phái tư tưởng khác nhau về chuyện đó.
Phải biết phân tích một cách rất chuyên nghiệp về phong trào cộng sản Quốc tế vào những thời điểm như vậy mới có thể tìm ra được khả năng vận dụng những nguyên lý căn bản của đời sống chính trị, mới tạo ra được những giải pháp như của Hồ Chí Minh cho Cách mạng tháng Tám.
Hỏi: Cho đến nay có lẽ không ai còn chối cãi là nền dân chủ của Hồ Chí Minh vào những năm 1945-1946 là sáng rực rỡ nhất từ trước đến giờ?
Trả lời: Cho đến gần đây. Cái sự thoát ra khỏi bóng râm của Mao để xuất hiện Đặng Tiểu Bình là một ví dụ về sự thức tỉnh nhiều giá trị dân chủ. Nhưng Đặng Tiểu Bình là một trong số người hiếm thức tỉnh, nên Đặng Tiểu Bình vừa là con tin của chủ nghĩa dân tộc Trung Hoa đầy rắc rối, vừa là con tin của cả những lực lượng bảo thủ trong Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Đặng Tiểu Bình là một nhân vật chính trị tài giỏi ở chỗ ông ta hành động một cách tự do ngay trong những điều kiện không có tự do. Cái vĩ đại của Đặng Tiểu Bình là ở chỗ đấy. Và nó được giải thích cho dễ hiểu, cho dễ chấp nhận bằng cái gọi là chủ nghĩa thực dụng Đặng Tiểu Bình, là chủ nghĩa mèo. Đấy là cái giải thích dễ hiểu và đơn giản hóa, nhưng trên thực tế nó không đơn giản như thế. Đặng Tiểu Bình là một học giả, là người đã đi học ở Pháp cùng vớiChu Ân Lai và nhiều người khác. Đặng Tiểu Bình là một người được đào tạo rất căn bản. Ông ta có năng lực tổ chức ngay từ thời kỳ ông ta đi học. Người ta kể chuyện rằng trên một chuyến tàu, các đoàn sinh viên ở các tỉnh khác nhau để đồ đạc thất lạc lung tung, nhưng Đặng Tiểu Bình biết lấy dây buộc hành lý của những người cùng tỉnh với mình lại, do đó đoàn củaĐặng Tiểu Bình không bị thất lạc hành lý. Năng lực tổ chức của ông ta được thể hiện khi còn trẻ như thế. Sau này, thủ tướng Chu Ân Lai cũng điều hành chính phủ Trung Hoa rất giỏi. Phá đến như Mao mà Chu Ân Lai vẫn sắp xếp lại để có một nhà nước Trung Hoa không tan rã thì đấy là thiên tài. Mà cụ Hồ thì quen với những ông ấy ở Pháp chứ không phải ở Trung Quốc. Cứ lên án dân chủ phương Tây nhưng những thủ lĩnh anh minh nhất, những người có ích nhất cho Trung Quốc, cho Việt Nam đều học ở phương Tây và đều dùng những giá trị phương Tây chứ không chỉ có giá trị dân chủ. Nếu không học ở Pari, không hiểu về chủ nghĩa tư bản thì làm sao Đặng Tiểu Bình mở cửa được, trong con người của Đặng Tiểu Bình làm sao có phẩm chất của kẻ thực dụng tư bản chủ nghĩa để tạo ra Trung Quốc bây giờ được. Phải nói rằng phương Tây là cái nôi của những khái niệm xã hội học tốt nhất mà nhân loại có. Cái đó phải khẳng định và nếu cứ cãi đi cãi lại thì chẳng đi đến đâu cả.
Chúng ta phải học họ. Và cho đến bây giờ, tổng thống Medvedev và Thủ tướng Putin mới thấy rằng càng đến gần phương Tây bao nhiêu thì càng tốt cho nước Nga bấy nhiêu. Ngay cảĐặng Tiểu Bình và các nhà lãnh đạo của Trung Quốc bây giờ, mồm họ nói khác thì không biết, nhưng trong bụng họ nghĩ rằng càng đến gần phương Tây bao nhiêu thì càng tốt cho Trung Quốc bấy nhiêu. Tất nhiên, nhà chính trị thì nói một đằng họ nghĩ một nẻo, cho nên nghe họ nói và hiểu được thực bụng của họ thì phải có một hệ thống phiên dịch rất cẩn thận. Phải có kiến thức thì mới hiểu được các thông điệp chính trị từ những lãnh tụ Châu Á như Đặng Tiểu Bình, ông Giang Trạch Dân, ông Hồ Cầm Đào. Để hiểu họ là không đơn giản.
Hỏi: Quay lại chủ đề chúng ta đang bàn là dân chủ Hồ Chí Minh, ở thời điểm mà dân chủ Hồ Chí Minh thăng hoa nhất nó thể hiện bởi những đặc trưng như thế nào?
Trả lời: Hồ Chí Minh không chỉ có dân chủ phương Tây. Dân chủ Hồ Chí Minh là một khái niệm rộng hơn, hay có thể nói là một tập hợp bao của cả khái niệm dân chủ phương Tây trong khuôn khổ ứng dụng khái niệm ấy cho nền chính trị Việt Nam.
Nền dân chủ Hồ Chí Minh có ba cấp độ, ba hình thức hay ba căn bản khác nhau. Cấp độ thứ nhất tôi gọi là nền dân chủ thái độ, thể hiện ở đạo đức và tác phong quần chúng. Tác phong Hồ Chí Minh nổi tiếng trong phòng trào Cộng sản Quốc tế. Đã có một thời Đảng ta gọi "Chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng Mao Trạch Đông, tác phong Hồ Chí Minh". Về mặt sử liệu tôi không biết ai đặt ra sự phân loại ấy, nghe nói là đồng chí Nguyễn Chí Thanh, nhưng đã có thời chúng ta gọi công khai trên văn bản của Đảng ta như thế.
Cái cơ sở của nền dân chủ thái độ là đạo đức, bởi vì nếu không có tình cảm, tình yêu đối với nhân dân, không có sự trân trọng con người, không có nền tảng đạo đức thì không thể có nền dân chủ thái độ được. Cho nên tác phong quần chúng trở thành một động lực, một sức mạnh chính trị của Hồ Chí Minh trong suốt cả cuộc đời của Ông. Có lẽ tôi là người Việt Nam đầu tiên gọi nền dân chủ ấy của Hồ Chí Minh là nền dân chủ thái độ.
Hỏi: Ông có thể nói thêm về dân chủ thái độ? Dân chủ thái độ toát ra từ giá trị đạo đức của con người ấy?
Trả lời: Đúng, chính giá trị đạo đức nó toát ra thái độ. Khi chúng ta không còn căn bản đạo đức, chúng ta coi thường đạo đức cách mạng, chúng ta sẽ không có nền dân chủ thái độ. Và phải nói rằng từ đầu thế kỷ XX, đến những năm 40 của thế kỷ XX, thậm chí đến những năm cuối cùng của thế kỷ XX, trình độ nhân dân, trình độ dân trí của Việt Nam chưa đủ để hiểu các nền dân chủ khác của Hồ Chí Minh, chỉ mới đủ điều kiện để hiểu nền dân chủ cơ sở của Hồ Chí Minh là nền dân chủ thái độ.
Hỏi: Như vậy là với đại đa số người dân là người nông dân, họ không có được những hiểu biết, cảm nhận được dân chủ từ phương Tây du nhập vào, mà người ta chỉ cảm nhận được dân chủ dưới hình thức là dân chủ thái độ của Hồ Chí Minh?
Trả lời: Đấy là điều vô cùng quan trọng khi nghiên cứu Lịch sử Đảng, nghiên cứu Lý luận cầm quyền của Đảng.
Hỏi: Nền dân chủ thái độ ấy có thấm đến các đồng chí của Hồ Chí Minh không?
Trả lời: Nó thấm vô cùng. Sau này, do thắng lợi, do cầm quyền lâu thì nó bị thoái hóa và biến mất dần dần, cho đến thời điểm chúng ta ngồi đây, nền dân chủ thái độ đã bắt đầu biến mất gần hết. Những người cộng sản quên mất rằng, dân chủ thái độ là một lực lượng quan trọng, một sức mạnh quan trọng, một động lực quan trọng để phát triển cả Đảng và sự nghiệp của Đảng. Nhân dân nhận ra giá trị đạo đức của những người cộng sản thông qua thái độ của họ. Bây giờ chúng ta làm biến mất. Bây giờ việc đầu tiên trong hoạt động xây dựng Đảng, việc đầu tiên trong cải cách chính trị theo hướng dân chủ là khôi phục lại nền dân chủ thái độ. Khôi phục lại nền dân chủ thái độ thì anh mới giữ mình để có thể đủ yên tĩnh để nhận thức ra những chất lượng dân chủ cao hơn.
Trước đây, những người cộng sản đến với nhân dân đều đi bộ, nhiều lắm thì đi xe đạp. Bây giờ những người cộng sản đến với nhân dân bằng máy bay trực thăng. Do đó không có cơ hội để họ và nhân dân giao lưu với nhau, họ không hiểu nhân dân nữa, và quan trọng hơn, nhân dân không yêu họ nữa. Bởi vì hầu hết nhân dân chúng ta yêu mến những người cộng sản trước đó là yêu mến thái độ của những người cộng sản, khi không còn thái độ ấy nữa thì nhân dân không yêu họ nữa. Và muốn nhân dân yêu lại thì phải khôi phục lại nền dân chủ thái độ, được gọi là tác phong quần chúng.
Hỏi: Cấp độ thứ hai của nền dân chủ Hồ Chí Minh là gì?
Trả lời: Cấp độ thứ hai của nền dân chủ Hồ Chí Minh là dân chủ cấu trúc. Tại sao Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh gửi ra đây tặng bức tượng Bác Hồ và Bác Tôn? Bác Tôn xuất hiện như là một giải pháp của nền dân chủ cấu trúc Hồ Chí Minh. Nhân dân miền Nam không có điều kiện tham gia vào các sinh hoạt hình thành các quyết định chính trị, cho nên phải có Bác Tôn để nhắc nhở người Nam Bộ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ rằng, họ không có ở đây nhưng người đại diện cho họ là Tôn Đức Thắng có ở đây. Ông ấy giữ địa vị cực kỳ quan trọng, ông ấy là một biểu tượng của chủ nghĩa yêu nước Nam Bộ, tác phong đạo đức của ông ấy là biểu tượng của đạo đức người Nam Bộ. Sự gắn bó giữa Hồ Chủ tịch và Tôn Chủ tịch là sự gắn bó mang chất lượng cấu trúc chính trị, mang chất lượng kế sách chính trị. Cấu trúc chính trị ba miền là sự sáng tạo của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là người sáng lập ra Đảng Cộng sản, nhưng quan trọng hơn Hồ Chí Minh là người tìm lại sự thống nhất trong phong trào Cộng sản Việt Nam, sau này để tiện hơn nữa ông biến thành Mặt trận dân tộc thống nhất. Tất cả những chính sách mặt trận ấy là sáng tạo của Hồ Chí Minh, và đấy chính là chủ nghĩa dân chủ cấu trúc. Chúng ta chưa có điều kiện để thực thi nền dân chủ phổ quát theo cái mà người ta gọi là dân chủ phương Tây mặc dù Hồ Chí Minh rất ý thức về chuyện ấy. Hồ Chí Minh phải tạo ra, phải cấu trúc ra một nền dân chủ, và dùng cấu trúc ấy để huấn luyện xã hội và huấn luyện các đồng chí của mình thừa nhận dân chủ bằng sự có mặt của các bộ phận hoặc đại diện của các bộ phận dân chúng trong đời sống chính trị của Hồ Chí Minh. Đấy là nền dân chủ thứ hai của Hồ Chí Minh, tôi gọi là nền dân chủ cấu trúc mà sau này mọi người gọi là cơ cấu. Khi gọi là cơ cấu và gọi là cấu trúc nó có các ý nghĩa khác nhau. Hồ Chí Minh chỉ cơ cấu một chút, nhưng bản chất cái cấu trúc khách quan của nền dân chủ Hồ Chí Minh về phương diện ấy rõ hơn. Hồ Chí Minh không cưỡng bức một cơ cấu, mà cỗ vũ một cấu trúc. Phải có bắc, có nam, phải có trung, thiếu Trường Chinh không được, thiếu Hoàng Văn Thụkhông được, thiếu Nguyễn Văn Cừ cũng không được. Thời nào cụ Hồ cũng cố tìm ra những yếu tố để làm hoàn thiện cái cấu trúc chính trị của mình.
Có lẽ tôi cũng là người Việt Nam đầu tiên gọi tên cái nấc thứ hai, yếu tố thứ hai của nền dân chủ Hồ Chí Minh là dân chủ cấu trúc. Cứ để ý mà xem, có nam, có bắc một cách rất rõ ràng, và thành một kỷ luật chính trị. Kỷ luật chính trị ấy phải là kỷ luật buộc cấu trúc chính trị của các lực lượng chính trị phải phản ánh được tính đại diện. Không phải ông Giang Trạch Dân là người sáng tạo ra chủ nghĩa đại diện, Hồ Chí Minh là người đã sáng tạo ra chủ nghĩa đại diện ấy từ lâu lắm rồi, thậm chí từ lúc ông Giang Trạch Dân còn nhỏ thì đã có chủ nghĩa đại diện Hồ Chí Minh hay chủ nghĩa cấu trúc Hồ Chí Minh. Trong nền dân chủ cấu trúc của Hồ Chí Minh có tất cả các lực lượng xã hội. Tỷ trọng chính trị có thể khác nhau cùng với thời thế, cùng với tình thế, nhưng luôn luôn có đủ các yếu tố. Nếu không nghiên cứu kỹ chủ nghĩa cấu trúc của Hồ Chí Minh như là một biểu hiện của nền dân chủ, của các quan niệm dân chủ của Hồ Chí Minh thì tức là chưa nghiên cứu về chủ nghĩa Hồ Chí Minh. Gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh tôi nghĩ là chưa đánh giá được các giá trị của Hồ Chí Minh, cho nên có thể mạnh dạn gọi là chủ nghĩa cấu trúc chính trị Hồ Chí Minh.
Hỏi: Nhưng cái dân chủ cấu trúc ấy khác gì với biểu hiện của thời đại bây giờ là dân chủ chịu tác động của các nhóm lợi ích?
Trả lời: Nó khác nhau ở một điều thôi, đó là tính minh bạch và sự trong sáng chính trị.
Các lực lượng cấu trúc ra nền chính trị Hồ Chí Minh thì chỉ có một lợi ích thống nhất trong toàn Đảng. Còn các nhóm lợi ích thì phấn đấu vì nhiều lợi ích khác nhau. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng biết rất rõ rằng, các cấu trúc ở chừng mực nào đó đều mang tính chủ quan cho nên ông không dừng lại ở đấy. Ngay từ những ngày đầu tiên của nền cộng hòa của chúng ta, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến nền dân chủ phổ quát của phương Tây. Tuyên ngôn độc lập, Hiến pháp, sự cấu trúc đa dạng trong đời sống chính trị thể hiện rất rõ nhận thức rằng về lâu về dài vẫn cần phổ quát hóa khái niệm dân chủ. Phổ quát hóa bằng cách nào? Bằng cách xây dựng nhà nước pháp quyền. Trung tâm của các giải pháp chính trị là xây dựng nhà nước pháp quyền, không phải pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Pháp quyền xã hội chủ nghĩa là cái không cần phải nói đến, bởi vì ngay bản thân khái niệm "xã hội chủ nghĩa" cũng không được định nghĩa rõ ràng ở đâu cả, kể cả trong lịch sử phong trào cộng sản quốc tế. Làm gì có chủ nghĩa chính trị nào được tóm tắt là làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu? Những khái niệm được tóm tắt theo kiểu thực dụng chủ nghĩa như vậy không phản ánh trí tuệ chính trị.
Hỏi: Ông có thể nói rõ hơn những đặc điểm của nền dân chủ phổ quát trong dân chủ Hồ Chí Minh?
Trả lời: Dân chủ phổ quát chính là dân chủ mà chúng ta vẫn luôn kêu ca, lên án nó là dân chủ phương Tây. Không phải phương Tây tạo ra nó mà các nhà nghiên cứu phương Tây tạo ra nó, các nhà Khai sáng phương Tây tạo ra nó. Phương Tây không tạo ra nó, thậm chí phương Tây ứng dụng nó cũng vất vả giống như chúng ta ứng dụng nó. J.J. Rousseau bị lưu đày, bị truy nã, Montesquieu cũng bị truy nã, Voltaire cũng bị truy nã, tất cả những người sáng tạo ra những nguyên lý căn bản nhất của nền dân chủ phương Tây đều từng là kẻ địch của tất cả những người cầm quyền ở phương Tây vào thời điểm đó.
Hỏi: Vậy dân chủ phổ quát ấy thể hiện như thế nào trong dân chủ Hồ Chí Minh?
Trả lời: Nó là một tầng phát triển cao hơn khái niệm dân chủ Hồ Chí Minh. Tức là bằng khái niệm dân chủ phổ quát, Hồ Chí Minh không biến nền dân chủ của ông trở thành nền dân chủ làng xã, dân chủ đặc thù của riêng Việt Nam, mà ông muốn phổ quát hóa nền dân chủ của ông trở thành một nền dân chủ được chấp nhận bởi tiêu chuẩn quốc tế về cái gọi là dân chủ. Điều đó thể hiện trong Tuyên ngôn độc lập và trong Hiến pháp 1946.
Cho nên, ở trong con người Hồ Chí Minh, có cả yếu tố đạo đức làm nền tảng chính trị thông qua tác phong quần chúng mà tôi gọi đó là nền dân chủ thái độ, có cả sự phản ánh cái đặc thù của cấu trúc dân cư Việt Nam, cấu trúc lịch sử Việt Nam, cấu trúc chính trị Việt Nam để tạo ra nền dân chủ cấu trúc mà đã có thời kỳ chúng ta gọi một cách tầm thường là cơ cấu. Nền dân chủ ấy phản ánh bắc-trung-nam đều phải có các đại diện trong đời sống chính trị. Phải có nam có nữ, bởi vì nền dân chủ Hồ Chí Minh hình thành khi con người thức tỉnh về giá trị nhân quyền, quyền của phụ nữ là một vấn đề chính trị trong thời đại Hồ Chí Minh sống, vì thế ông rất để ý đến việc có tính giới trong đời sống chính trị. Rồi phải có cả miền xuôi, miền ngược, tức là có cả sự chênh lệch phát triển. Phải có bằng được ông Y Blok Eban, phải có bằng được ông Núp, phải có bằng được những người miền núi. Đó là sự phấn đấu rất kiên nhẫn của Hồ Chí Minh để đảm bảo tất cả các lực lượng xã hội dù là gì đều có mặt trong cấu trúc chính trị. Đấy là chưa kể có tôn giáo nữa, trong các cấu trúc chính trị của Hồ Chí Minh có mặt tất cả các tôn giáo với địa vị hết sức bình đẳng. Đấy là nền dân chủ cấu trúc của Hồ Chí Minh.
Hỏi: Thế còn sự hình thành các đảng phái?
Trả lời: Sự hình thành các đảng phái là đa nguyên chính trị, đấy là nền dân chủ phổ quát. Bản chất của nền dân chủ phương Tây là nền dân chủ đa nguyên chính trị, tức là nó đã đạt đến trạng thái chuyên nghiệp là mỗi một lực lượng xã hội đều có các đảng chính trị rồi. Cái này ngay từ năm 1946 Hồ Chí Minh đã nghĩ đến và hiểu rất rõ cái thực tiễn rằng, các đảng phái chính trị không phải lúc nào cũng thống nhất, không phải lúc nào cũng ủng hộ nhau, cũng có lúc nó đấu tranh với nhau và tạo ra sự mâu thuẫn có hại cho các cuộc kháng chiến mà ông Cụ tiến hành. Vì thế ông Cụ có những thái độ khá kiên quyết với những đảng chính trị không ủng hộ độc lập dân tộc theo quan điểm của ông Cụ. Nhưng thay vì vứt bỏ các đảng chính trị khác thì Hồ Chí Minh thay thế nó bằng những đảng chính trị hỗ trợ đảng cộng sản, những người cộng sản Việt Nam trong quá trình giải phóng dân tộc, tìm kiếm độc lập dân tộc. Đấy là một thái độ rất quan trọng. Hồ Chí Minh chưa đạt đến nền dân chủ phổ quát, nhưng ông đã đặt tiền đề cho một nền dân chủ phổ quát. Rất đáng tiếc là chiến tranh và tính hiếu thắng của người Việt Nam đã làm cho chúng ta trong một lúc nào đó lãng quên cái công phu mà cụ Hồ đã tạo ra cho tương lai chính trị của Việt Nam.
Hỏi: Ông nói Hồ Chí Minh chưa đạt đến nền dân chủ phổ quát, ý muốn nói là chưa đạt đến khía cạnh là các đảng chính trị ấy phải tham gia vào giành quyền lực?
Trả lời: Thế mới thực sự là phổ quát, tức là các đảng chính trị phải thay thế nhau trong quá trình chuyển đổi năng lực cầm quyền.
Hỏi: Nghĩa là các đảng chính trị ấy phải đối lập nhau đúng không?
Trả lời: Nó có thể đối lập, nó có thể là đồng minh. Các chính phủ liên hiệp là kết quả của sự đồng minh hóa các đảng chính trị. Dân chủ và đa đảng thú vị lắm. Nó không đơn giản như cái mà chúng ta quan niệm. Dân chủ phổ quát của Hồ Chí Minh mới chỉ đặt nền móng. Ở đây chúng ta không bình luận về những cái cụ thể mà bình luận trên khía cạnh là ngay từ đầu Hồ Chí Minh đã ý thức rằng tương lai của nền dân chủ Việt Nam chính là nền dân chủ phổ quát. Khi phân tích như thế mới thấy Hồ Chí Minh công phu lắm.
Hỏi: Có những thông tin rằng có những trí thức không phải là người của Đảng cộng sản, không phải là Đảng viên, khi tổ chức, sắp xếp, người ta định gợi ý để vào Đảng thì chính Hồ Chí Minh đã gạt ra bảo: chú đứng ngoài Đảng tốt hơn. Cái đó thể hiện điều gì?
Trả lời: Đấy là câu chuyện rất nổi tiếng giữa Hồ Chí Minh và giáo sư Tôn Thất Tùng. Cái đấy thể hiện năng lực cấu trúc chính trị của Hồ Chí Minh, cấu trúc ra các lực lượng chính trị, cấu trúc ra một nền chính trị, cấu trúc ra một loại nhà nước chính trị. Đấy là chủ nghĩa cấu trúc, nó vẫn mang tính chủ quan, nó chưa phải là một nền dân chủ khách quan thực sự. Chính vì thế Hồ Chí Minh mới chuẩn bị cho tầng thứ ba của nền dân chủ là dân chủ phổ quát, đó chính là sự hiện diện của các đảng chính trị như những thực thể đại diện cho các khuynh hướng chính trị khác nhau tồn tại trong xã hội. Cái tầng thứ ba này Hồ Chí Minh phấn đấu và chưa đạt được đến. Hồ Chí Minh mới hoàn thiện được nền dân chủ thái độ, mới hoàn thiện được nền dân chủ cấu trúc và đặt nền móng cho nền dân chủ phổ quát.