Arirang – biểu tượng tâm hồn Hàn Quốc

Hide Nguyễn

Du mục số
Arirang – biểu tượng tâm hồn Hàn Quốc


Một buổi lang thang trên mạng, tôi đọc được một bài giới thiệu về điệu Arirang, một loại dân ca của Hàn Quốc. Bỗng trong tôi cháy bỏng niềm khát khao muốn tìm hiểu thể loại dân ca này. Như Biêlinxki (nhà mỹ học Nga thế kỷ 19) từng nói: Dân ca Nga, đó là lịch sử của tâm hồn Nga. Liệu tôi cũng có thể nói, Arirang, đó là lịch sử tâm hồn Hàn Quốc, được chăng?


Bắt đầu là những bài tập viết của sinh viên Khoa Tiếng Việt trường Đại học Ngoại ngữ Hàn Quốc, Seoul: dịch sang tiếng Việt một số lời ca của Arirang. Tiếp đó là các sinh viên hát cho tôi nghe điệu hát này. Người Hàn Quốc vốn là dân tộc có nhạc cảm rất khá, hầu như ai cũng hát được, kể cả những sinh viên bình thường nhất cũng hát khá hay. Có một nỗi buồn bàng bạc, một mối tơ vương quấn quýt của tình người sau điệu hát. Tôi đã xúc động thực sự, khi tất cả sinh viên trong lớp cùng cất tiếng hát điệu Arirang, mà cứ tưởng, những chàng trai, cô gái Hàn Quốc tóc vàng, bấm điện thoại nhoay nhoáy đã quên sạch.


Lại cũng lạ, điệu Arirang lại hoà hợp với cây đàn bầu Việt Nam đến thế. Tại buổi liên hoan chiêu đãi của Trung tâm Việt Nam học trường Đại học sư phạm Hà Nội, một học sinh người Đan Mạch gốc Việt đã cùng cây đàn bầu cất lên điệu Arirang, một chút ngỡ ngàng, rồi tất cả sinh viên Hàn Quốc đều hát theo, thế mới biết, điệu Arirang đã ngấm sâu vào lòng người Hàn Quốc đến thế nào.
Tôi đã nghe nhiều lần điệu Arirang. Hơi buồn, trầm lắng, chậm rãi. Đó là điệu hát cất lên từ những nỗi cực nhọc, vất vả, từ sự giải thoát của trái tim, từ nỗi niềm những con người sống trong nỗi vất vả và khổ đau đến cùng cực. Cũng lạ, cũng là dân tộc lớn lên và đói nghèo trong rơm rạ (Chế Lan Viên), vậy mà cái dấu ấn của cái đói nghèo trong văn học và dân ca Việt Nam tôi lại không thấy nặng nề, đau đớn, dai dẳng như trong văn học dân gian Hàn Quốc. Cũng đầy cực nhọc, vất vả, đoạ đầy, nhưng trong lời ca của người Việt ít có những bài ca đẫm nước mắt, kiểu: Con ơi đừng khóc mẹ sầu, Cha con đốt lửa dưới tàu Long Môn, Bao giờ con lớn con khôn, Thì con lại xuống Long Môn con làm. Vậy mà những bài ca đẫm nước mắt lại có quá nhiều trong lời ca điệu Arirang: - Xin anh đừng bỏ em, nếu anh bỏ em, đôi chân anh sẽ không đi xa được 10 lý, bởi vì anh sẽ bị đau chân; – Em sẽ sống ra sao nếu thiếu vắng anh?Em nghĩ rằng em sẽ chết vì nỗi đau xé lòng. Phụ nữ Hàn thường sống chết với tình yêu là thế đó. Đối với họ, tình yêu mạnh hơn niềm kiêu hãnh cá nhân: Tôi đang vượt đèo Arirang, những nỗi đau đớn trong trái tim tôi nhiều hơn sao trên trời. Niềm đau và nỗi buồn trong những bài Arirang kéo dài qua nhiều thế kỷ.


***
[FLASH]https://www.nhaccuatui.com/m/LqwhIcu615[/FLASH]



Arirang là một điệu hát mang tính biểu tượng của người Hàn Quốc. Arirang là một trong số ít những bài dân ca mà người Hàn Quốc nào cũng hát được. Nó nổi tiếng không chỉ vì vẻ đẹp của giai điệu, mà còn ở sự phong phú của nó. Điệu Arirang năm 1976 đã được giới thiệu ở Mỹ do dàn nhạc Paul Mauriat biểu diễn với cái tên Tình yêu phương đông, nội dung là lời tâm sự của một cô gái đang thất vọng về tình yêu [2]. Cảm xúc buồn thương và giai điệu trầm buồn, nhịp điệu khoan thai chậm rãi của bài hát tạo nên một sức quyến rũ đặc biệt, đã giải thích vì sao Arirang lại là điệu dân ca phổ biến nhất ở Hàn Quốc. Điệu Arirang hiện giờ vẫn vang lên ở những nơi có người Hàn trên khắp thế giới và ở cả những cuộc thi Olympic thể thao có người Hàn tham dự để động viên tinh thần họ.

Về nguồn gốc điệu dân ca này, có giả thuyết cho rằng Arirang ra đời từ thời Shilla, hơn 1000 năm truớc. Bởi lẽ, người ta tìm thấy trong lời của bài hát ca ngợi sự trinh tiết của Aryong, vợ người sáng lập ra triều đại Shilla, đã sử dụng điệp khúc Aryong Arirang[2]. Cũng có người cho rằng điệu Arirang có cách đây khoảng 600 năm, từ vùng Jeongseon, bởi lẽ, Arirang vùng Jeongseon được đánh giá là hay nhất, chuẩn mực nhất, nhiều nhất với ca từ đẹp, nhạc điệu chậm rãi, xốn xang, day dứt [4]. Còn giả thuyết khác lại cho rằng Arirang ra đời khoảng thế kỷ19, thời kỳ cuối của triều đại Jeonseon, với những người công nhân đang xây lại lâu đài Gyeongbok vốn bị người Nhật phá huỷ từ thế kỷ 16. Họ dùng điệu Arirang để tự an ủi lòng mình trong những tháng ngày lao động cơ cực [2].

Tuy nhiên trong Lời giới thiệu về các bài hát Arirang, tác giả lại cho rằng Arirang có từ nghìn năm nay. Lúc đầu, đó là những bài Moiari dùng trong nghi lễ về các thần núi (Moiari, có nghĩa là âm thanh của núi). Moiari ngày càng phát triển, thành những bài Arirang của những người làm nghề trồng trọt. Arirang, do đó, là bằng chứng của lịch sử, của mọi niềm vui và nỗi buồn của người Hàn. Đó là “bài hát của lịch sử” và là “lịch sử của những bài hát” Hàn Quốc [7].

Arirang không có một mẫu cố định. Có nhiều giai điệu và mẫu dạng khác nhau. Về hình thức, câu mở đầu bài thường là điệp khúc Arirang arirang, araryo, tôi đang vượt đèo Arirang. Ari trong tiếng Hàn cổ là đẹp, đáng yêu, rang là thân mến, còn araryo không có nghĩa, chỉ là những tiếng đệm. Có tài liệu nói rằng Arirang là một ngọn núi chính, nằm trên con đường có từ thời Jeonseon cổ, giữa Seuol và phía đông nam tỉnh Gyeongsang. Vượt đèo Arirang chính là vượt qua những ngọn đồi ở giữa đông nam Seoul [2]. Nhưng nhìn chung, vượt đèo Arirang là một ẩn dụ, bởi cả xứ Hàn, đồi núi trùng trùng, đường đi luôn lên dốc xuống đèo, vượt đèo còn là vượt muôn nỗi khó khăn của cuộc sống thường nhật. Đây chính là mẫu điệp khúc chuẩn, phổ biến nhất của Arirang.

Tiếp theo, cả bài thường chỉ có một hoặc vài đoạn, mỗi đoạn hai câu. Tiết tấu của mỗi câu thường sử dụng nhịp ba (một hai ba, một hai ba), khác với dân ca Trung Quốc và Nhật Bản sử dụng nhịp đôi (một hai, một hai) [6], gồm 3 tiếng đập cố định, làm thoả mãn cảm giác thẩm mỹ của người Hàn. Cấu trúc ngôn ngữ đơn giản, nhưng lời hát, giai điệu, tiết tấu vô cùng phong phú, có khả năng diễn tả mọi cung bậc tình cảm.

Nội dung của Arirang là toàn bộ đời sống tâm hồn người Hàn: tình yêu, hạnh phúc, bất hạnh, nỗi khổ đau, những nhọc nhằn vất vả, sự không bằng lòng về cuộc sống hiện tại, lời than thân, trách móc, hờn giận… Từ ngữ của lời ca Arirang thường buồn rầu, đa cảm, có lúc đến mức thảm thương, nhịp điệu khoan thai, thậm chí rất chậm. Nội dung Arirang có gì đó giống với những vang động sâu thẳm nhất từ trái tim Hàn Quốc: sự giận dữ và nỗi đau đớn. Người Hàn Quốc đã cố gắng giải quyết nỗi xúc động tinh thần của họ thông qua lối đi của thời gian hơn là tìm cách giải toả căng thẳng ngay lập tức [4].

Lời lẽ của Arirang thường là sự thú nhận những tình cảm thật của tình yêu, cũng như sự tiếc nuối của chia ly, những tình cảm nồng nàn nhưng rất đỗi dịu dàng (một nét phong cách tình yêu ta đã quen gặp trong phim Hàn!). Nỗi nhớ trong xa cách: Ơi người lái đò sông Awooraji, Xin hãy đưa tôi qua sông, Bầu ở làng Ssarigil đã rụng hết rồi, Bầu rụng còn có lá rơi theo cùng, Em không thể sống nếu thiếu anh. Nỗi đau đớn trong tuyệt vọng: Em làm sao có thể sống nếu thiếu anh, Mây đen bao phủ mặt trăng, Trái tim em tan nát bao lần; -Mặt trăng sáng ngời, hồ Kyongpodae lấp lánh, tôi tuyệt vọng vì mất mát tình yêu. Tôi có thể chịu được nỗi buồn đau đến đâu đây???.

Bên cạnh đó Arirang cũng là những lời ca nói về cuộc sống lao động nhọc nhằn vất vả. Vùng Jeongseon có dòng sông chảy về xuôi, những chàng trai đốn gỗ, thả bè xuôi về Seoul, điệu Arirang đi theo những người làm nghề sông nước trong suốt cuộc hành trình của họ. Vì vậy nơi lưu giữ nhiều nhất những bài Arirang là khu vực dọc theo sông Namhan, chính là Jeongseon Arirang.

Arirang là những tâm tình của người lao động. Từ ngày xưa, mọi nỗi vất vả nhọc nhằn của cuộc sống nơi núi cao, rừng sâu, hay biển rộng, những gánh nặng của người phụ nữ trong gia đình, những ai oán, hy vọng, mọi niềm vui, nỗi buồn đều gửi gắm trong lời ca: Arirang arirang arariyo, vượt đèo Arirang, có bao nhiêu ngôi sao trên bầu trời quang đãng, cũng là có bao nhiêu giấc mơ trong trái tim tôi; – Arirang, băng qua đồng nho hoang dã, ôi chao quả chín mùi quả chín dây tây, mùi kẹo chín, quả mơ chua chua, Ôi chao Arirang; – Miryang nhỏ bé, ngày ngày bước từng bước hái hoa, những tuần trăng, ôi chao Riga, nụ cười, tiếng chuông …; – Tuyết rơi, mây đen bao phủ đỉnh Mansoo, Và mưa cứ rơi theo mùa, Có phải tên cũ của Chungsun là Myungung? Mọi thứ đều biến mất, chỉ còn núi cao và rừng rậm…; – Tôi trồng lúa trên từng mảnh ruộng, vậy mà tìm đâu thấy sự no đủ, Trồng cả mảnh ruộng trên đồi lẫn dưới khe sâu, mà hạt thóc cứ đi đâu mất, Mặt trời đã lặn ở núi phía tây, và mặt trăng lại lên ở phía đông…

Arirang còn là niềm mơ ước: Hãy vượt qua Arirang Gogae. Gần cửa Đông tiểu môn của Seoul có núi Gogae. Gogae là ảo giác về một thế giới khác, là ranh giới giữa thế giới này và miền đất mơ ước. Vượt qua Arirang Gogae là đến được vùng đất mơ ước đó [1]. ở đó, tít bên kia núi, đó là núi Baekdu, Nơi đó, thậm chí vào giữa mùa đông hoa vẫn nở. Hoa nở vào mùa đông là biểu tượng của niềm mơ ước không bao giờ lụi tàn của con nguời.

Arirang không chỉ giúp con người giải toả mọi nỗi niềm mà còn làm cho những công việc nặng nhọc trở nên thú vị, đỡ nặng nề hơn. Có cụ già 68 tuổi đã nói: “Tôi thường hát Arirang trong khi làm việc. Từ khi tôi 12 tuổi, tôi đã nghe và thấy bố mẹ tôi hát Arirang, vì thế tôi cũng hát Arirang” [3]. Arirang đã ngấm sâu vào tâm hồn Hàn tự thuở ấu thơ là thế đó.

Cũng có người cho rằng Arirang quá buồn bã và thiếu tinh thần mạnh mẽ. Nhưng biết thế nào được, có khi những lời ca buồn lại làm tâm hồn cứng cỏi hơn bao giờ hết, có sức làm hoá giải mọi nỗi đau, niềm giận dữ, hơn cả mọi khúc ca hùng tráng. Bởi lẽ, sức mạnh của lời ca buồn không phải lúc nào cũng kéo con người chìm nghỉm mà có khi lại giúp họ đứng vững, kiên cường hơn, bởi trong đó, bên cạnh nỗi buồn còn có niềm hy vọng, bên cạnh sự than thân còn có sự tự ý thức, bên cạnh nỗi buồn chia ly còn có niềm mơ ước đoàn tụ, bởi những mơ ước không bao giờ bị dập tắt trong những lời ca. Khi con người hoá giải mọi nỗi buồn, niềm đau vào cái đẹp, thì nghĩa là họ đang hướng tới sự vĩnh cửu. Mà điều này, chính Biêlinxki đã nói, đó là “nỗi buồn trong sáng” làm tiếp thêm nghị lực sống cho con người.

Cái dịu dàng, mềm mại của điệu hát cũng như mọi nỗi khắc khoải chờ mong, hy vọng, đã làm cho cuộc sống trở nên nhẹ nhàng và cởi mở hơn. Chính sự giao lưu cởi mở lòng mình sẽ làm con người thấy cuộc đời có ý nghĩa hơn, dám bước qua mọi niềm đau để mà tồn tại.

Arirang chủ yếu được lưu truyền ở ba vùng: Jeongseon, Jindo và Miryang. Có hàng trăm bài Arirang, giai điệu và lời ca có thể thay đổi từ vùng này sang vùng khác, với những hoàn cảnh diễn xướng khác nhau.

Ví như điệu Arirang vùng Jeongseon, tỉnh Kangwondo, một vùng bốn bề là núi cao và rừng rậm, cuộc sống vất vả, nghèo khó. Lời bài hát ở đây như cũng viền theo những đường gập ghềnh của núi. Thậm chí, ở nhiều Arirang vùng Jeongseon, thành ngữ Tôi vượt đèo Arirang được viết ở thể bị động: Hãy cho tôi vượt đèo, như một lời cầu xin để diễn tả nỗi khó khăn. Những hình ảnh dòng sông, nước lũ, mùa trăng, núi cao, hoa bầu nở vàng…bao bọc con người trong một khung cảnh đặc thù [3].

Còn những bài Arirang đảo Jindo. Hòn đảo này như là tuyến tiền tiêu ở phía nam Hàn Quốc, nơi đầu tiên phải đối đầu với bao lần xâm lược của Nhật Bản. Đàn ông ngã xuống không chỉ trong chiến đấu mà còn trong nghề đi biển hiểm hoạ khôn lường. Có những thời điểm hòn đảo này vắng quá nhiều bóng dáng đàn ông. Vì vậy, phụ nữ Jindo hát Arirang để hoá giải những niềm đau và nỗi buồn trong trái tim họ. Họ hát để biến nỗi buồn thành niềm vui, để được tiếp thêm sức mạnh qua những bài hát. Thường bắt đầu là những lời than thân trách phận, nhưng cùng với lời ca, nỗi buồn chất chứa trong lòng cũng tan biến. Họ hát giữa bữa ăn, hát khi chiến đấu và cả khi cái chết gần kề [5].

Nội dung của Arirang còn mang tính lịch sử. Với thời gian, nội dung của Arirang luôn thay đổi để phù hợp với thời đại. Dưới thời Nhật thống trị Hàn Quốc, người ta hát Arirang để khẳng định tinh thần dân tộc. Năm 1926, bộ phim Arirang ra đời như biểu tượng về sức sống sâu thẳm, mạnh mẽ, quật cường của người Hàn dưới ách đô hộ của người Nhật.

Đã từng có những lời ca mang nội dung về sự chia cắt đất nước: -Nếu một đồ sứ đánh bóng bị vỡ, thì nó chia thành hai hoặc ba mảnh, Nếu vĩ tuyến 38 bị mất, thì chúng ta sẽ hợp nhất thành một khối; – Con đường bị nghẽn bởi núi cao và sông dài, Chúng ta sẽ sống cùng nhau mãi mãi, Ai ngăn được sự thống nhất đó, bình minh đang đến là bóng tối mà thời gian đã vượt qua, Chúng ta có bảy muơi triệu người hứa ban phúc cho ngày mai, Tất cả chúng ta là anh em, Chúng ta hợp nhất với Arirang, Dùng đến trái tim Arirang, Thế giới mới đang đến, Chúng ta hãy sống cùng nhau trong thế giới Arirang. Đây là những bài hát vẫn còn được hát bởi những người luôn hy vọng vào sự thống nhất miền Bắc và miền Nam.

Arirang đã phản ánh cả lịch sử hiện đại của Hàn Quốc lẫn đời sống cá nhân của người Hàn Quốc một thời gian dài.

Arirang chính là một trong những sợi dây liên kết mọi tâm hồn Hàn, dù chính kiến không đồng nhất. Arirang đã được hát ở Bình Nhưỡng do đoàn nghệ thuật Seoul biểu diễn. Và tại liên hoan Arirang lần thứ nhất ở Seoul, Arirang là bài hát hướng tới sự thống nhất của bán đảo Triều Tiên.

Arirang chính là chiều sâu và lịch sử của tâm hồn Hàn. Bởi vậy để hiểu được tâm hồn Hàn qua Arirang không dễ. “Jindo Arirang đang vang vọng tự một nơi nào đó trên đảo. Để hiểu và cảm nhận được những giai điệu đó, cần phải hoà mình vào cuộc sống của người dân Jindo, đằm mình vào cuộc sống của những người dân nơi đây như mặt trời chìm vào lòng biển, mới có thể nghe được những âm thanh nguyên sơ của Arirang đã được đảo ôm chặt trong lòng từ thuở xa xưa” [5].

Arirang chính là lịch sử của tâm hồn Hàn như thế đó.


Tháng 5-2006
Lê Lưu Oanh
Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc á, số 11-2007
___________________________
Tài liệu tham khảo:
1. Arirang: Immortal Fokl Song, w.sowega.com/arirang.htm
2. Arirang, Wikipedia, the free encyclopedia
3. Điệu Arirang vùng Jeongseon, w.kbs.world/vietnamese, Đời sống và văn hoá, 5/11/2005
4. Jeongseon Arirang, Jin Yong-seon, w.arirang.re.kr
5. Jindo, hòn đảo hát, w.kbs.world/vietnamese, Đời sống và văn hoá, 9/11/2005
6. Hàn Quốc xin chào bạn, 1999, Cục Thông tin HQ, Seuol, tr.55
7. Lời giới thiệu Arirang, w.Arirang1.txt
 
Arirang - điệu dân ca tiêu biểu nhất của Hàn Quốc

Arirang là điệu dân ca mà bất cứ người Hàn nào cũng thuộc ít nhất là một bài. Arirang được con người nơi đây hát lên để an ủi, để xoa dịu đi nỗi vất vả của cuộc sống khó khăn, cực nhọc.

Arirang được chia thành 3 loại chính. Arirang tại khu vực tỉnh Nam Gyeongsang được gọi là Milyang Arirang, ở vùng Honam - phía tây nam của bán đảo là Jindo Arirang, và Jeongseon Arirang được phổ biến rộng rãi ở khu vực tỉnh Kangwon. Trong đó, Jeongseon Arirang được đánh giá là điệu dân ca được yêu thích nhất với ca từ đẹp, nhạc điệu khoan thai.


arirang-26.jpg

Phong cảnh miền sơn cước Jeongseon.


Nằm ở phía đông nam của tỉnh Kangwon, Jeongseon là một khu vực hẻo lánh ở về phía nam của dãy Baekdoo Daegan - xương sống của bán đảo Triều Tiên, bốn bề là núi cao và rừng rậm. Lee Joong Hwan, nhà địa lý học sống vào Trung kỳ triều đại Joseon, đã viết về vị trí của Jeongseon trong sách Taekriji như sau: “Dù đã đi bộ 4 ngày trong rừng mà vẫn không trông thấy trời và biển đâu cả”.
Với người sống ở vùng Jeongseon, những người đã phải vất vả vỡ hoang những dốc núi hiểm trở, và sống một cuộc đời nghèo khó, thì Arirang chính là thú tiêu khiển tốt nhất giúp họ quên đi những lo lắng, mệt mỏi hàng ngày.

Giai điệu của Jeongseon Arirang giống với con người và cách sống của họ ở vùng sơn cước. Ông Jin Yong Seon, Viện trưởng Viện nghiên cứu Jeongseon Arirang, nói về những đặc trưng trong nhịp điệu của làn điệu dân ca này: “Những câu hát bắt nguồn từ tỉnh Gangwon chủ yếu là những giai điệu thuộc gam nguyên. Những giai điệu đó bắt nguồn từ vùng đất này, gắn bó và hòa hợp với môi trường nơi đây. Hiện nay, khi dạy Jeongseon Arirang cho học viên, chúng tôi thường nói với họ rằng: “Hãy vừa hát vừa giơ tay, như đang vẽ hình gập ghềnh của núi. Như vậy bạn sẽ cảm nhận được rằng âm thanh và nhạc điệu của bài hát rất phù hợp với địa hình núi non của khu vực này”. Vì vậy, người ta nói rằng: “Nước, núi và những con người của Jeongseon đều rất giống với những âm điệu chậm rãi của Arirang”.

Từ xa xưa, những người ở vùng núi sâu hẻo lánh Jeongseon đã giải tỏa những nỗi vất vả trong cuộc sống hàng ngày bằng việc hát lên những câu hát Jeongseon Arirang. Cuộc sống vất vả nơi núi cao rừng sâu, gánh nặng gia đình của người phụ nữ, sự oán trách và niềm hy vọng của họ… đều được gửi gắm trong Jeongseon Arirang.

Arirang Arirang Arariyo…Hãy cho tôi vượt đèo Arirang…Thay vì Tôi vượt qua đèo Arirang như phần lớn những bài Arirang của các vùng khác, lời bài hát trong Jeongseon Arirang lại là Hãy cho tôi vượt đèo Arirang. Thể bị động của câu hát thể hiện nỗi buồn và tình cảm của những con người sống nơi rừng sâu, phải chịu đựng nhiều khó khăn, vất vả trong cuộc sống.

Trong những điệu Arirang khác, câu chữ đều ở thể chủ động, họ hát Tôi vượt đèo Arirang vì những dốc núi nơi họ sống hoàn toàn có thể vượt qua nếu cố gắng và tập trung sức lực. Nhưng trong Jeongseon Arirang, câu hát lại ở thể bị động, Hãy cho tôi vượt đèo Arirang. Có nghĩa là, dù họ đã cố gắng để vượt qua nhưng cuộc sống đầy khó khăn và ngăn cách với thế giới bên ngoài đã không cho phép họ mơ tưởng quá nhiều. Vì vậy, bây giờ, Arirang đối với người Jeongseon là âm nhạc, điệu hát, nhưng trước đây nó chính là tiếng nói của họ. Arirang đã là một phần cuộc sống của những con người thời xưa.

Mọi vui buồn của cuộc sống đều được gửi gắm vào những giai điệu, vì thế mà trong Jeongseon Arirang có tới hàng nghìn cách đặt lời hát. Giống với con người, giống với thế núi… những bài hát đã trở nên quen thuộc trong cuộc sống.

Nếu tìm hiểu sâu về ca từ của Jeongseon Arirang, ta thấy có rất nhiều câu hát có nội dung nói về tình yêu và nỗi nhớ.

Trong đó nổi tiếng nhất là Arirang của vùng Awooraji. Awooraji thuộc Bookmyun, huyện Jeongseong. Từ xưa, nơi đây đã nổi tiếng là quê hương của Jeongseon Arirang, nơi tình yêu và khát vọng xuôi về với dòng sông. Tại Aworaji, nơi người xưa từng qua sông trên những con thuyền nhỏ, giờ đây những chiếc thuyền cổ lại phơi mình chờ đón khách sang sông. Người lái đò ở Awooraji giới thiệu về nơi này: “Đây là nơi gặp gỡ của hai dòng sông. Một dòng chảy từ phía bắc xuống và nó giống như một người đàn ông hay gắt gỏng và ồn ào. Dòng sông hung dữ với tên gọi là Songcheon. ‘Song’ có nghĩa là ‘cây thông’ và ‘Cheon’ có nghĩa là ‘dòng suối’. Một dòng khác chảy xuống từ phía đông. Dòng sông rất hiền hòa và lặng lẽ như một cô dâu hay một nàng công chúa. Tên của nó là Golji. ‘Gol’ có nghĩa là ‘tuyệt vời’, ‘Ji’ nghĩa là ‘cái ao’. Sông Golji và Songcheong gặp nhau thì gọi là Awooraji”.

Awooraji là nơi hai con sông Golji và Songcheong hợp lưu. Từ xưa, sông Songcheong được coi như là người đàn ông bởi dòng nước chảy xiết. Sông Golji được coi như người phụ nữ bởi dòng chảy hiền hòa. Nói một cách khác, thì tên địa danh nơi đây - Awooraji đã được đặt dựa trên trí tưởng tượng về sự hòa hợp giữa âm và dương của dòng nước. Ở Awooraji, nơi hai dòng sông gặp gỡ, câu chuyện của những con người nơi đây cứ thấm vào những câu ca.

Trong những lời ca của Jeongseon Arirang, có một cô gái sống ở Yoocheon, bên sông Songcheon và một chàng trai ở Yeoryang yêu nhau. Hàng ngày họ đều đến gặp nhau. Bỗng một ngày kia sông Golji dâng nước lên và hai người không thể đến gặp nhau được. Họ đứng ở hai bên bờ và hát. Người con trai hát: “Hỡi người lái đò Awooraji, xin hãy đưa tôi qua sông. Bầu ở làng Ssarigil đã rụng hết cả rồi”. Người con gái hát đáp lại: “Bầu rụng còn có lá rơi theo cùng, em sẽ không thể sống nếu thiếu anh chỉ trong chốc lát”. Vì vậy, câu hát đã trở thành giai điệu tiêu biểu cho sự sum họp. Và cội nguồn của câu hát, Awooraji cũng đã trở thành biểu tượng cho khát vọng, và là quê hương trong trái tim của những đôi lứa không thành”.

Tượng một người con gái đã được dựng bên bờ sông Awooraji để biểu tượng tấm lòng hướng tới người thương. Vào mùa hè, khi hoa bầu nở vàng, những chàng trai, cô gái lại hẹn hò trong khung cảnh hoa nở rực rỡ. Tình yêu của những chàng trai, cô gái ở Awooraji vẫn chảy mãi như dòng sông trong lời ca của Jeongseon Arirang. Awooraji - bối cảnh cho những câu chuyện tình thơ mộng, dưới thời Joseon còn nổi tiếng là nơi thả bè gỗ xuôi về Seoul, dọc theo sông Namhan.

Vào giai đoạn cuối của triều đại Joseon, Awooraji là điểm xuất phát của một tuyến đường kinh tế trên sông. Khi ấy, gỗ đốn trên núi Taebaek và núi Hwangbyeon được vận chuyển trên những bè gỗ, theo dòng về Seoul. Những súc gỗ được buộc chặt vào bè bằng dây thừng và hai người lái bè, một ngồi đằng trước và một ngồi đằng sau để điều khiển bè. Điểm xuất phát của những bè gỗ đó chính là Awooraji. Những người lái bè thường hát lên điệu Jeongseon Arirang trong suốt cuộc hành trình của của họ. Và làn điệu dân ca còn được lưu lại nhiều nhất ở khu vực dọc theo sông Namhan chính là Jeongseon Arirang.

Rời Awooraji, nơi những câu chuyện xưa còn đọng lại trong kí ức của Jeongseon Arirang, cùng tìm đến nhà của cụ Kim Nam Ki - nghệ nhân hát dân ca vùng Jeongseon nổi tiếng ở cách đó không xa. Ông đang cùng những người hàng xóm biểu diễn một trích đoạn.
Cụ Kim Nam Ki năm nay đã 68 tuổi. Suốt cả cuộc đời, cụ chưa từng bỏ việc đồng áng. Đối với cụ, Arirang đã trở thành cách duy nhất làm tiêu tan những nỗi ưu phiền và khó nhọc của cuộc sống lao động nặng nhọc ngoài đồng ruộng. “Tôi sinh ra ở nơi đây. Từ nhiều đời nay, gia đình tôi đã làm nghề cày cấy. Công việc nhà nông vất vả chính là nơi nảy sinh những niềm vui và nỗi buồn trong cuộc sống của tôi. Hát lên những lời ca là cách tôi giải tỏa những nỗi vất vả. Tôi thường hát Arirang trong khi làm việc. Từ khi 12 tuổi, tôi đã được nghe và thấy bố mẹ tôi hát Arirang, vì thế tôi cũng hát Arirang”.

Cụ Kim tiếp: “Ngày trước, chúng tôi làm việc trên những mảnh nương nhỏ bé phát quang được trên núi. Chúng tôi dùng cuốc đào những lỗ nhỏ và gieo hạt giống. Khi hạt giống nảy mầm, chúng tôi làm cỏ bằng tay. Trong khi làm việc vất vả như vậy, chúng tôi đối đáp nhau bằng những lời ca Jeongseon Arirang. Nếu tôi bắt đầu hát bên này, thì một người khác sẽ hát đáp lời ở đằng kia. Chúng tôi có thể làm những công việc nặng nhọc và không thấy lẻ loi bởi những câu hát qua lại đó. Sau khi kết thúc công việc trên núi, chúng tôi trở về với những bó cỏ cho bò, và cho chúng ăn. Ngày hôm sau, chúng tôi lại tiếp tục làm như vậy”.
Arirang Arirang Arariyo… Hãy cho tôi vượt đèo Arirang…

Vất vả vượt qua đường đèo quanh co, hiểm trở, tìm đến với Jeongseon, chúng ta có thể hình dung ra được cuộc sống khó khăn, vất vả của những con người nơi đây. Người Jeongseon đã vượt qua tất cả những khó khăn đó bằng cách hát lên những giai điệu Arirang.

(Theo KBS Vietnamese)
 




아리랑, 아리랑, 아라리요,
아리랑 고개로 넘어간다.
나를 버리고 가시는 님은,
십리도 못가서 발병난다.

아리랑, 아리랑, 아라리요,
아리랑, 고개로 넘어간다.
청천하늘엔 별도 많고,
우리네 가슴엔 꿈도 많다.

아리랑, 아리랑, 아라리요,
아리랑 고개로 넘어간다.
저기 저 산이 백두산이라
동 섣달에도 꽃만 핀다.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Em đang tìm hiểu về người Hàn thì gặp pài viết of anh! Cảm ơn anh nhìu nha! ^.^ Thêm đk 1 thông tin nữa rồi...sẽ có ích lắm đây! :D
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top