Đánh giá vai trò của Mỹ trong đời sống quan hệ Quốc tế từ đầu thế kỷ XX – XXI.

Trang Dimple

New member
Xu
38
Đánh giá vai trò của Mỹ trong đời sống quan hệ Quốc tế từ đầu thế kỷ XX – XXI.

I. Khái quát

Sau cuộc chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ, ngày 4/7/1776 Mỹ tuyên bố độc lập và trở thành một chủ thể hùng mạnh trong đời sống quan hệ Quốc tế.

Như LeNin nhận định: “ Lịch sử của nước Mỹ văn minh hiện nay là do cuộc chiến tranh cách mạng vĩ đại, một cuộc giải phóng chân chính mở đầu”.

Ngay sau chiến tranh kết thúc. Nước Mỹ cộng hòa lâm vào tình thế khó khăn: nạn lạm phát khiến cho tiền giấy bị phá giá, giá sinh hoạt tăng vọt. Ngân sách của chính phủ Liên Bang chống rỗng, mọi hoạt động sản xuất bị đình đốn, nạn thất nghiệp lan tràn, đời sống của những người dân nghèo càng thêm cơ cực…các cuộc đấu tranh của nhân dân nổ ra khắp nơi. Địa vị quốc tế của nước Mỹ thấp kém, các mối quan hệ ngoại quốc mờ nhạt.



Từ đầu thế kỷ XX, tình hình nước Mỹ có sự biến chuyển lớn:

* Kinh tế :

-Công nghiệp Mỹ từ vị trí thứ tư vươn lên đứng nhất thế giới do:

+Tài nguyên thiên nhiên phong phú .

+Thị trường trong nước mở rộng , thu hút nhân lực từ Châu Âu.

+Ưng dụng khoa học kỹ thuật và hợp lý hóa sản xuất .

+Lợi dụng vốn đầu tư từ Châu Âu .

+Đất nước hòa bình lâu dài .

- Các công ty độc quyền Mỹ hình thành khi kinh tế phát triển mạnh nhất trong các nước công nghiệp, vươn lên đứng nhất thế giới , năm 1894 công nghiệp Mỹ gấp đôi Anh và bằng nửa các nước Tây Âu cộng lại.

- Công ty độc quyền khổng lồ xuất hiện :như vua dầu mỏ của Rốc phe lơ, vua thép Moóc gan ,vua xe hơi Hen ri Fo , họ đã lũng đoạn trong nước và nghiệp Mỹ gấp đôi Anh và bằng nửa các nước Tây Âu gộp lại .quốc tế về kinh tế và chính trị , nên Mỹ là xứ sở của các “Vua công nghiệp”

-Nông nghiệp với phương pháp canh tác hiện đại .

* Chính trị :

- Vai trò tổng thống do 2 đảng Dân Chủ và Cộng hòa thay nhau cầm quyền.

- Chính sách đối nội , đối ngoại phục vụ cho Giai cấp tư sản .

- Mở rộng biên giới đến Thái Bình Dương .

- Chiến tranh với Tây Ban Nha để giành thuộc địa Cuba và Phi líp pin.

- Dùng sức mạnh của đô la để can thiệp vào Trung và Nam Mỹ .

II. Nội dung.

1. Vai trò của nước Mỹ trong giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến trước chiến tranh Thế giới thứ nhất.

Từ đầu thế kỷ XX, gắn với sự phát triển nhanh chóng về mặt kinh tế đó là sự mở rộng các mối quan hệ vè mặt chính trị và ngoại giao.

Ở từng nước, từng khu vực khác nhau mối quan hệ đó lại được thể hiện ở một mức độ, một phương diện khác nhau. Có liên minh, có chiến tranh xâm lược,.. tất cả đều phục vụ cho quyền lợi của nước Mĩ.

*) Đối với các nước thuộc địa và các nước tư bản: Mĩ thực hiện chính sách xâm lược và bành trướng dã man.

Thuộc địa là thị trường tiêu thụ hàng hóa, nguồn nguyên liệu phục vụ nền công nghiệp chính quốc, nguồn nhân lực rẻ mạt trong các cơ sở đầu tư tại chỗ và là nguồn vơ vét của cải qua thuế khóa, cướp bóc. Thuộc địa còn là nới cung cấp binh lính cho chính quốc khi xảy ra chiến tranh, là cơ sở để nâng cao vị thế đế quốc trên trường quốc tế.

Vì vậy các nước đế quốc ráo riết tiến hành chiến tranh xâm lược vô cùng tàn bạo và đặt ách thống trị thực dân hết sức dã man, trong đó không thể không kể tới nước Mỹ.

Đến đầu thế kỷ XX, hầu hết các nước ở khu vực Á, Phi, Mỹ latinh đều trở thành thuộc địa hoặc nửa thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, thế giới không còn một vùng đất trống.

Nước Mỹ cũng ra sức tiến hành những cuộc chiến tranh bành trướng, xâm lược đối với các nước:

- Nhật Bản:

Năm 1853 hạm đội Mỹ do Đô đốc Pery chỉ huy đã thả leo tại cảng Êdo, đề nghị Nhật mở cửa buôn bán với phương Tây.

Sau đó, Nhật đã phải ký với Mỹ hiệp ước không bình đẳng, mà theo đó, Nhật phải mở các cửa biển cho nước ngoài vào buôn bán với những điều kiện ưu đãi.

Ngoài ra, Nhật còn phải ký với các nước Anh, Pháp, Nga,.. nhiều bản hiệp ước tương tự. Nước Nhật cũng đứng trước nguy cơ xâm lược và nô dịch bởi tư bản Âu Mĩ như nhiều các nước Châu Á khác.

- Trung Quốc:

Với sự khủng bố của Mỹ, năm 1844 nhà Thanh cũng phải ký với Mĩ hiệp ước Vọng Hạ với những điều kiện khắt khe về quyền tối huệ quốc, về mức thuế quan, về việc người phương Tây được quyền lãnh sự tài phán và tự do truyền đạo. Trung Quốc cũng phải kí với các nước châu Âu khác các bản hiệp ước tương tự. Từ đó, Trung Quốc trượt dài trên quá trình bị các nước đế quốc phương Tây xâm lược và nô dịch…

Trong khi các nước tư bản châu Âu và Nhật Bản phân chia phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc thì Mĩ lại chưa có khu vực nào trên lãnh thổ này. Vì vậy, để có thể lan chân vào khu vực thị trường Trung Quốc, tháng 9/1899 mĩ đã đưa ra “chính sách mở cửa” với nội dung như sau:

- Hàng hóa của các nước phải theo chế độ thuế quan cuả Trung Quốc và do chính phủ Trung Quốc thu thuế.

- Không can thiệp vào lợi ích của các nước đã giành được ở Trung Quốc, phải tôn trọng những điều ước đã kí.

- Trong mỗi khu vực ảnh hưởng của từng đế quốc, không được thu thuế cao đối với tàu bè và hàng hóa của nước khác.

Thực chất của chính sách mở của do Mĩ đề xướng là nhằm giữ Trung Quốc trong nguyên trạng, không cho phép các nước tư bản châu Âu và Nhật Bản mở rộng thế lực, tạo cơ hội để Mĩ có thể xâm nhập vào Trung Quốc. Hay kể từ đây, Trung Quốc đã thực sự biến thành một nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến.

*) Đối với khu vực Mĩ latinh:

- Thực hiện “chính sách đối ngoại cách li” – học thuyết Monrro(1823)

Sau cuộc chiến tranh giành độc lập, nước Mĩ tìm mọi cách để mở rộng lãnh thổ và tìm kiếm thị trường. Từ 13 bang ban đầu đến giữa thế kỉ XIX, nước Mĩ đã phát triển về phía Tây lên thành 30 bang với diện tích khoảng 5 triệu km2.

So với các nước châu Âu thì Mĩ có lợi thế về vị trí địa lí khi toàn bộ lục địa châu Mĩ được bao bọc bởi 2 đại dương là Thái Bình Dương và Đại Tây Dương. Chính ưu thế đó đã cho phép giới cầm quyền Mĩ vạch định chính sách đối ngoại thích ứng với từng thời kí lịch sử.

Đầu thế kỉ XX, hướng ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Mĩ là nhằm tới khu vực Mĩ latinh bởi vì nơi đây gắn liền với nền an ninh quốc phòng và sự ổn định kinh tế của Mĩ.

Ngày 2/12/1823, Tổng thống Mĩ Mơn ro chính thức tuyên bố chính sách đối ngoại cách li đối với khu vực Mĩ Latinh: “Lục địa châu Mĩ đã chọn và duy trì được độc lập, tương lai của nó không thể bị một cường quốc châu Âu nào đô hộ nữa” nhằm sử dụng lợi thế cách li với châu Âu để gạt dần hoặc đẩy xuống hàng thứ yếu ảnh hưởng của các nước tư bản châu Âu đối với khu vực này.

Nội dung của chính sách đối ngoại cách li – học thuyết Mơn rô được thể hiện ở 3 phương diện:

- Mĩ phải quan tâm đến các cuộc tranh chấp ở khu vực Mĩ Latinh.

Vì lí do an ninh của nước Mĩ, Mĩ sẽ có hành động can thiệp vào các cuộc xung đột hoặc chiến tranh giữa các nước với nhau cũng như chiến tranh giữa họ với các nước bên ngoài. Mĩ cũng sẽ tham gia vào các cuộc tranh chấp kinh tế, chính trị ở châu Mĩ..

- Mĩ tự cho rằng phải có “trách nhiệm bảo vệ” an ninh của cả châu lục khỏi sự nhòm ngó từ bên ngoài.

Với khẩu hiệu nổi tiếng: “Châu Mĩ của người châu Mĩ”, học thuyết Mơn rô là lá bùa hộ mệnh để cho Mĩ giữ nguyên trạng tình hình ở khu vực này, chống lại sự can thiệp của bất kỳ quốc gia nào ngoài châu Mĩ.

Đây chính là công cụ để Mĩ mở rộng ảnh hưởng ở Mĩ Latinh và sa này sẽ vươn ra các khu vực khác trên thế giới.Nước Mĩ đóng vai trò như là “cảnh sát ở Tây bán cầu”. Mĩ đứng ra can thiệp vào công việc nội bộ của các nước Trung Mĩ: Đôminica (1904,1916), Cuba (1906), Nicaragoa ( 1909,1912), Haiti ( 1914-1915), và Mehico ( 1914,1916).

- Mĩ thực hiện chính sách cái gậy lớn và ngoại giao đô la đầu thế kỉ XX.

Thực chất, chính sách “cái gậy lớn” và “ngoại giao đô la” của chính phủ Mĩ ngoài việc tiến hành các hoạt động quân sự xâm lược, mặt khác dùng thủ đoạn mua chuộc để can thiệp vào công việc nội bộ của tất cả các nước trên thế giới. Năm 1902, Tổng thống Teodo Rudoven, đã thực hiện chính sách trên đầu tiên ở Venexuela. Năm 1905, Mĩ dàn xếp công việc xung đột tại nước Cộng hòa Đôminia. Đặc biệt là vụ tách Panama ra khỏi Côlombia năm 1903. Chính phủ Panama do Mĩ dựng lên đã kí hiệp ước cho Mĩ độc quyền trong việc đào con kênh nối liền Thái Bình Dương và Đại Tây Dương, được xây dựng đường sắt và pháo đài dọc kênh Panama. Năm 1914, Mĩ hoàn thành việc đào kênh Panama, mở đường cho Mĩ làm chủ toàn bộ khu vực Mĩ Latinh.

Cùng với những cuộc tiến công bằng quân sự, đế quốc Mĩ còn tăng cường xâm nhập các nước Mĩ Latinh bằng kinh tế. Mĩ thực hiện “chính sách ngoại giao đôla” với thủ đoạn là: thông qua hình thức đầu tư xây dựng các xí nghiệp khai thác, luyện kim, công nghiệp nhẹ và cho vay hoặc viện trợ để dựa vào đó khống chế đời sống chính trị các nước Mĩ latinh. Nếu chính phủ nào không tuân theo sự chỉ đạo của Mĩ sẽ lập tức bị cắt viện trợ hoặc sẽ bi lật đổ bằng những cuộc đảo chính có sự góp mặt của Mĩ.

Tóm lại, từ chính sách “ngoại giao cách li” đến chính sách “cái gậy lớn” và “đồng đôla” , đế quốc Mĩ đã dần loại bỏ sự ảnh hưởng của các nước tư bản châu Âu ra khỏi khu vực Mĩ latinh. Mĩ đã xác lập được địa vị thống trị của mình ở khu vực này cũng như tạo điều kiện thuận lợi để cho Mĩ mở rộng ảnh hưởng của mình ra các khu vưc khác trên thế giới.

Không chỉ đối với Mĩ mà đối với hầu hết các nước đế quốc trên thế giới đều có chung một mục tiêu đó là chiếm được một vùng lãnh thổ rộng lớn,.. Vì vậy mà vấn đề tranh chấp thuộc địa luôn là một vấn đề quan trọng trong mối quan hệ quốc tế ở mọi thời kì của lịch sử. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân, là nguồn gốc của cuộc chiến tranh thế giới.

2. Nước Mĩ và chiến tranh thế giới thứ nhất ( 1914-1918).

Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ năm 1914 ở Châu Âu , mặc dù rất xa nước mỹ về khoảng cách, nhưng trên thực tế đã tác động sâu sắc đến tình hình kinh tế , chính trị và cuộc sống của người dân Mỹ.

Về hình thức chính phủ mỹ thực hiện chính sách không can thiệp và giữ lập trường trung lập trong những năm 1914- 1917, nhưng do Mỹ là một nước nhập cư với nhiều dân tộc khác nhau nên trên thực tế các nhóm dân tộc lại có quan điểm ủng hộ cho các bên tham chiến theo nguồn gốc dân tộc của mình.

Chiến tranh thế giới thứ nhất có tác động tích cực đối với nền kinh tế Mỹ và đem lại một nguồn lợi lớn đối với tư bản Mỹ. Năm 1915 kinh tế Mỹ chịu một cơn suy thoái nhẹ đã phục hồi và phát triển nhanh chóng nhờ những đơn đặt hàng của cả hai bên tham chiến. Trong vòng 3 năm (1914-1917) Mỹ xuất khẩu số lượng vũ khí và thuốc nổ trị giá 1 tỉ usd cho các khối hiệp ước . Với các đơn đặt hàng quân sự, các nghành công nghiệp chế tạo vũ khí sắt, thép, quân trang . . . được mở rộng sản xuất tới tối đa . Các nhà đầu tư mỹ trong thời gian này tiếp tục mở rộng đầu tư , cho vay với cả hai bên tham chiến.

2.1Thời kỳ Mĩ tham chiến (4/1917- 11/1918).

Sau khi tái đắc cử nhiệm kỳ hai trong bài diễn văn đọc trước quốc hội mĩ ngày 22/1/1917 tổng thống Wilson đã yêu cầu các nước tham chiến chấm dứt chiến tranh và chấp nhận một nền hòa bình không có kẻ thắng, người thua.Tuy nhiên trên thực tế cuộc chiến tranh ở châu âu ngày càng trở nên ác liệt hơn.

2/4/1917 Wilson đã yêu cầu quốc hội cho phép nước Mỹ tuyên chiến. Hai ngày sau đó với 82 phiếu thuận và 6 phiếu chống. Quốc hội Mỹ đã nhanh chóng thông qua quyết định tham chiến, nước Mỹ chính thức bước vào cuộc chiến từ ngày 6/4/1917.

Trong nhiều năm chiến tranh các nhà sử học Mỹ còn tranh luận và lý giải nguyên nhân dẫn tới việc nước mĩ tham chiến sau gần 3 tháng đứng trung lập. Phần lớn các ý kiến cho rằng, nguyên nhân cơ bản của việc Mỹ tham chiến xuất phát từ những lợi ích của chủ nghĩa tư bản Mỹ. Sau gần ba năm thu lợi từ những đơn đặt hàng quân sự từ cả hai bên tham chiến , nhất là các khối hiệp ước, vào lúc chiến tranh chuẩn bị đi vào hồi kết, nước Mỹ cần phải đứng về phe hiệp ước để giành chiến thắng.

Với sự tham gia của chiến tranh thế gưới thứ nhất và giành thắng lợi cùng với phe phát xít là sự kiện đầu của cho việc nước Mỹ can dự vào các công việc của thế giới. Chỉ khi tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất với sự xuất hiện đầu tiên trong cuộc đấu cùng những cường cuốc tư bản hàng đầu thế giới. nước Mỹ đã thực sự khẳng định được mình với tư cách một cường quốc trong quan hệ với các cường quốc tư bản khác cũng như quan hệ quốc tế nói chung.

2.2 Nước Mĩ với trật tự thế giới mới.

Trong lúc Mỹ chủ trương duy trì một nước Đức tương đối mạnh để thực hiện chính sách cân bằng lực lượng ở Châu Âu, ngăn chặn âm mưu bá chủ Châu Âu của Pháp thì theo hòa ước Versailles, nước Đức phải chịu những điều khoản hết sức nặng nề và một gánh nặng khổng lồ trong việc bồi thường chiến phí cho các nước thắng trận.

Do việc quốc hội Mỹ không phê chuẩn hòa ước Versailes, tháng 8/1921 Mĩ ký hòa ước riêng rẽ với Đức. Đồng thời Mĩ đề xuất việc triệu tập hội nghị quốc tế ở Washington để giả quyết những vấn đề trong quan hệ quốc tế ở khu vực Viễn Đông- Thái Bình Dương với sự tham gia của 9 nước có liên quan bao gồm: Anh, Pháp, Mĩ, Bỉ …

Hội nghị Washington là một thắng lợi của nền ngoại giao Mĩ đầu thế kỷ 20, nước Anh mất đi địa vị độc tôn trên mặt biển mà nước này đã từng giữ vững trong nhiều năm qua. Hải quân mĩ kể từ đây sẽ ngang hàng với Anh và vượt qua Nhật. Mĩ tiếp tục khẳng định chính sách mở cửa ở Trung Quốc và thực hiện việc xâm nhập vào thị trường rộng lớn này. Nhật bản cũng bị suy giảm sức mạnh trên biển , đồng thời pjair nhượng bộ Mĩ trong vấn đề Trng Quốc. Với hiệp ước Washington, Mĩ đã đạt được những mục tiêu chiến lược của mình ở khu vưc Châu Á – Thái Bình Dương.

2.3 Chủ nghĩa biệt lập Mĩ với các vấn đề quốc tế trong thập niên 20

Trong thập niên 20 chủ nghĩa biệt lập tiếp tục giữ vị trí chủ đạo trong chính sách ngoại giao của Mĩ.

Trong khi duy trì chủ nghĩa biệt lập, vai trò của chủ nghĩa tư bản Mĩ trong nền kinh tế thế giới ngày càng cao. Nước Mĩ đóng vai trò chủ đạo trong việc giải quyết cuộc khủng hoamngr tauif chính và lạm phát trầm trọng nhất trong lịch sử nước Đức năm 1923.

2.4 Từ chủ nghĩa biệt lập đến chiến tranh thế giới thứ hai

Trong thập niên 1930 chủ nghĩa biệt lập vẫn tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong chính sách ngoại giao của Mĩ. Chính phủ Roosevelt duy trì chính sách ngoại giao không can thiệp trong bối cảnh bận rộn với những chương trình cải cách kinh tế- xã hội diễn ra trong nước. Cuộc đại suy thoái kinh tế 1929-1933đã chấm dứt thời kỳ phát triển ổn định của chủ nghĩa tư bản cùng những ảo tưởng về một kỷ nguyên hòa bình của thế giới.Trước những diễn biến phức tạp và căng thẳng trong quan hệ quốc tế, nước Mĩ tuyên bố chính sách không can thiệp đối với các cuộc xung đột ở Châu Âu cũng như châu Á.

Năm 1935 đạo luật trung lập được ban hành, theo đó chính phủ mĩ cấm buôn bán hay cung cấp vũ khí cho các bên tham chiến. Trong những năm 1936-1937 đạo luật trung lập tiếp tục được mở rộng với các điều khoản khắt khe hơn như cấm cho vay, cấm các tàu có quốc tịch Mĩ chuyên chở hàng hóa, vật liệu chiến tranh cho các bên tham chiến. Chính sách không can thiệp của Mĩ trong lúc này về thực chất là hành động ủng hộ và góp phần vào sự thắng thế của lực lượng phát xít Fanco đối với chính phủ cộng hòa non trẻ trong cuộc nội chiến ở Tây ban Nha.

Đối với các nước Mỹ La tinh tháng 3/1933 Roosevelt tuyên bố nước Mĩ sẽ thi hành “chính sách láng giềng thân thiện” nhằm duy trì ảnh hưởng ở khu vực này.

Năm 1936, trong khi tham dự hội nghị hòa bình châu Mĩ , tổng thống Rooosevelt tiếp tục khẳng định sự liên minh của Mĩ đối với các nước Mĩ La tinh trong việc duy trì hòa bình và an ninh ở khu vực châu mĩ. Với việc thực hiện chính sách ‘ láng giềng thân thiện’ đã tạo điề kiện thuận lợi cho Mĩ trong quan hệ với các nước trong khu vực.

3. Nước Mĩ với chiến tranh thế giới 2(1939-1945)

3.1 Thời kỳ trước khi Mĩ tham chiến ( 9/1939-12/1941).

Khi chiến tranh thế giới hai bùng nổ ngày 1/9/1939 đại bộ phận công chúng Mĩ đứng về phía quân đồng minh và ủng hộ cho những nước bị chử nghĩa phát xít xâm lược, trong khi một bộ phận trong quốc hội Mĩ vẫn duy trì chủ nghĩa biệt lập. hai ngày sau khi phát xít Đức tấn công Balan, tổng thống Roosevelt tuyên bố về lập trường trung lập của Mĩ, tuy nhiên ông cũng cho rằng người dân Mĩ không nhất thiết phải giữ lập trường trung lập trong suy nghĩ của mình. Mặc dù tuyên bố đứng trung lập nhưng Rooseveelt nẫn tìm cách thuyết phục quốc hội bãi bỏ luật cấm bán vũ khí cho các bên tham chiến. Cuối cùng quốc hội đã chấp nhận việc bán vũ khí cho các nước đồng minh theo phương thức trả tiền mặt và tự chuyên chở.

3.2 Thời kỳ Mĩ tham chiến (12/1941- 8/1945)

Rạng sáng 7/12/1941 quân đội Nhật cho quân tấn công bất ngờ vào Trân Châu Cảng – căn cứ quân sự đặc biệt của Mĩ ở Thái Bình Dương. Trận Trân Châu cảng là một đòn choáng váng bất ngờ với Mĩ. Sự kiện này chấm dứt một cách nhanh chonhs sự tồn tại của chủ nghĩa biệt lập và mở ra thời kì mới trong chính sách ngoại giao của Mĩ . này 8/12 Mĩ chính thức tuyên chiến với Nhật. Bắt đầu từ đây, nước Mĩ trực tiếp tham chiến , đồng thời can dự vào các vấn đề quốc tế trong và sau chiến tranh hai.

4. Nước Mỹ từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 tới nay.

4.1 Vị trí bá chủ thế giới.

Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đã dẫn tới những chuyển biến căn bản của tình hình quốc tế. Chiến tranh đã làm thay đổi hoàn toàn so sánh lực lượng trên phạm vi thế giới. Châu Âu, với địa vị trung tâm của thế giới kể từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời, bị suy yếu nghiêm trọng. Các nước tư bản đứng đầu châu Âu như Anh, Pháp đều bị chiến tranh tàn phá. Dù là nước thắng trận nhưng Anh, Pháp đều không thể mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình như thời kì sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, hơn thế nữa, ngay cả sự thống trị đối với những vùng đất thực dân cũ cũng bị đe doạ. Các nước phát xít, kẻ thù chung của nhân loại đã bị tiêu diệt và hoàn toàn kiệt quệ. Châu Âu bị tách thành hai khối Đông và Tây.

Trong lúc đó, nước Mĩ đã vươn lên hết sức nhanh chóng về thế và lực, trở thành một siêu cường khống chế toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa. Khi chiến tranh kết thúc, nước Mĩ chiếm gần 60% tổng sản lượng công nghiệp, 3/4 trữ lượng vàng của thế giới tư bản và là chủ nợ lớn nhất trên thế giới. Về quân sự, Mĩ đứng đầu thế giới tư bản về lục quân, hải quân, không quân và nắm độc quyền về bom nguyên tử trong thời gian đầu sau chiến tranh. Các nước tư bản châu Âu và Nhật đều phải dựa vào sự giúp đỡ của Mĩ để phục hồi kinh tế. Đây chính là cơ hội có một không hai để Mĩ vươn lên nắm quyền lãnh đạo trong hệ thống tư bản chủ nghĩa và thực hiện mưu đồ bá chủ thế giới.

Trong bối cảnh đó, Mặt trận đồng minh chống phát xít, hình thành trong chiến tranh, đứng trước nguy cơ tan rã. Những mâu thuẫn trong nội bộ các lực lượng chống phát xít, vốn tạm thời dịu đi trong chiến tranh, nay ngày càng bộc lộ công khai. Ngay trong giai đoạn cuối của chiến tranh, Mĩ đã nhìn nhận Liên Xô như một lực lượng chính, có khả năng cản trở âm mưu bá chủ thế giới của mình. Khi thất bại của phe phát xít chỉ còn là vấn đề thời gian, cũng là lúc Mĩ bắt đầu triển khai chính sách kiềm chế Liên Xô. Quá trình tập hợp lực lượng mới sau chiến tranh dựa trên cơ sở ý thức hệ và lợi ích quốc gia được bắt đầu từ Hội nghị Ianta (2 - 1945), khi chiến tranh còn chưa kết thúc.

4.2 Giai đoạn từ 1945-1989: chiến tranh lạnh- với vai trò trụ cột của Mĩ

Sau khi chiến tranh kết thúc, những rạn nứt chính trị trong quan hệ Xô - Mĩ ngày càng lớn, đặc biệt là trong vấn đề Đông Âu. Với ảnh hưởng và sự giúp đỡ của Liên Xô, hàng loạt nước Đông Âu đã thực hiện những cải cách tiến bộ và trở thành những nước dân chủ nhân dân. Trong khi đó, Mĩ tìm mọi cách để ngăn cản quá trình cách mạng ở Đông Âu, ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa xã hội và thực hiện mưu đồ bá chủ thế giới. Sau khi Tổng thống Rudơven qua đời (4 - 1945), H. Truman lên làm Tổng thống và bắt đầu thực hiện chính sách cứng rắn với Liên Xô. Tháng 3 - 1947, Truman đọc bài diễn văn trước Quốc hội, thực chất là công bố chính sách đối ngoại mới, được gọi là Học thuyết Truman, nhằm ngăn chặn sự bành trướng của Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản. Truman yêu cầu Quốc hội viện trợ khẩn cấp cho Hi Lạp và Thổ Nhĩ Kì để chống lại “sự đe doạ” của Liên Xô, thiết lập sự thống trị của Mĩ ở khu vực phía Đông Địa Trung Hải, một khu vực có tầm chiến lược quan trọng ngay sát Liên Xô. Với học thuyết Truman, Mĩ công khai từ bỏ hợp tác với Liên Xô trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế như đã từng diễn ra trong Chiến tranh thế giới thứ hai và bắt đầu cuộc Chiến tranh lạnh chống Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.

clip_image001.gif
Sau khi phát động Chiến tranh lạnh, Mĩ tìm cách lôi kéo các đồng minh vào các liên minh do Mĩ khống chế để tăng cường lực lượng chống Liên Xô và chủ nghĩa xã hội. Ngày 5 - 6 - 1947, ngoại trưởng Mĩ G. Marshall đọc một bài diễn văn tại trường đại học Harvard, công bố “kế hoạch phục hưng châu Âu” bằng viện trợ của Mĩ.

Từ tháng 4 - 1948, kế hoạch Mácsan bắt đầu được thực hiện, Mĩ đã chi khoảng 12,5 tỉ đôla cho kế hoạch này. Nền kinh tế các nước Tây Âu phục hồi và phát triển nhanh chóng, tuy nhiên bị đặt dưới sự khống chế của Mĩ. Đó là cơ sở để Mĩ tiếp tục thao túng Tây Âu về chính trị và quân sự.

Sau khi tuyên bố học thuyết Truman và thực hiện kế hoạch Mácsan, Mĩ xúc tiến âm mưu chia cắt nước Đức, biến Tây Đức thành con đập ngăn làn sóng chủ nghĩa cộng sản tràn vào châu Âu. Vấn đề Đức trở thành tiêu điểm của cuộc đấu tranh giữa hai phe ở châu Âu. Mĩ đề nghị thống nhất khu vực chiếm đóng của ba nước Mĩ, Anh, Pháp ở Tây Đức, thực hiện những cải cách kinh tế, tiền tệ riêng rẽ và bác bỏ những đề nghị của Liên Xô về việc thành lập một chính phủ chung cho toàn nước Đức theo nghị quyết Pốtxđam. Tháng 8 - 1949 ở Tây Đức đã diễn ra cuộc bầu cử Quốc hội riêng rẽ và sau đó một tháng, ngày 12 - 9 - 1949 nước Cộng hoà Liên bang Đức tuyên bố thành lập.

Mĩ đóng vai trò trụ cột, đã chi 180 tỉ USD, triển khai lớn hơn 300.000 quân ở Tây Âu. Ngoài mục tiêu chống LX CNCS, Mĩ còn mục tiêu thông qua cái ô an ninh để kiềm chế Tây Âu. Các nước Tây Âu muốn giảm lệ thuộc Mĩ (Pháp). Chứa đựng khác biệt về lợi ích Như vậy, sau khi chiến tranh kết thúc chưa đầy một thập niên, ở châu Âu đã hình thành hai khối quân sự đối đầu nhau. Sau khi thành lập, cả hai khối quân sự đều tiến hành chạy đua vũ trang để tăng cường sức mạnh quân sự của mình. Cuộc chiến tranh lạnh giữa hai cực Xô - Mĩ, sự đối đầu giữa hai khối Đông - Tây ngày càng trở nên gay gắt.

4.3 Giai đoạn từ 1989-nay.

Năm 1991, sau khi Liên Xô sụp đổ, trật tự thế giới tồn tại gần nửa thế kỷ đã bị phá vỡ, cục diện thế giới và quan hệ chính trị quốc tế thay đổi về cơ bản, dẫn đến hình thành trật tự thế giới mới và tập hợp lực lượng mới. Trước hết, đó là sự điều chỉnh chiến lược đối ngoại của các nước lớn nhằm giành vị trí xứng đáng trong quan hệ quốc tế. Tất cả các nước khác cũng đều tìm cách tác động một cách có lợi nhất cho mình vào quá trình thiết lập trật tự thế giới mới. Từ sự đa dạng về lợi ích của các chủ thể quan hệ quốc tế đã hình thành nhiều mối quan hệ song phương và đa phương, làm cho tình hình thế giới càng thêm phức tạp.

- Trong số các cường quốc, thời kỳ này thực lực giữa ba trung tâm của chủ nghĩa tư bản là Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản đã nhích lại gần nhau, không còn quá chênh lệch như trước đây. Mỹ không còn quá mạnh để áp đặt các nước, nhưng vẫn muốn xác lập vai trò lãnh đạo thế giới.

trục đấu tranh chính trong quan hệ giữa các nước lớn đã chuyển từ Mỹ - Liên Xô sang quan hệ Mỹ - Trung.

Trước đây, Mỹ quan hệ với Trung Quốc để ngăn chặn Liên Xô, nay kết cấu chiến lược đó không còn ý nghĩa. Sự lớn mạnh của Trung Quốc lại thách thức dài hạn đối với Mỹ, biến mối quan hệ Mỹ - Trung lên tầm cao mới, thành trục chính và quan trọng nhất. Nếu Mỹ - Trung đối đầu, khả năng phân cực sẽ diễn ra giữa Mỹ - Nhật một bên, Nga - Trung (có thể cả Ấn Độ) một bên. Nếu quan hệ Trung - Mỹ ổn định, sự phân cực giữa các nước lớn sẽ không xảy ra.

Trong lúc các cường quốc đang nổi lên thì Mĩ vẫn là một siêu cường, một cường quốc vượt trội và là cường quốc duy nhất có ảnh hưởng ở cấp độ toàn cầu. Nước Mĩ vừa trải qua một chu kì tăng trưởng dài nhất trong lịch sử nước này (1992 - 2001), với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao (từ 3 đến 4%), chỉ số thất nghiệp thấp, mức lạm phát thấp. Với số dân chỉ bằng 4,7% dân số thế giới, nhưng nước Mĩ chiếm trên 30% GDP toàn cầu, với khoảng 10.000 tỉ đôla hàng năm, bằng GDP của tất cả các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU) cộng lại. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, sức mạnh tổng hợp của Mĩ (gồm 7 lĩnh vực: kinh tế, quân sự, khoa học công nghệ, tài nguyên thiên nhiên, chính trị, xã hội, ảnh hưởng trên trường quốc tế) lớn hơn hai lần Nhật Bản và hơn bốn lần Trung Quốc(1). Với sự giải thể Liên bang Xô viết, Mĩ không còn đối thủ cạnh tranh và có mưu đồ thiết lập trật tự thế giới một cực. Nhằm đạt được mục tiêu chiến lược ngăn chặn không cho cường quốc nào, dù là đồng minh hay đối thủ vươn lên thách thức vai trò siêu cường của mình, Mĩ thực hiện chính sách đối ngoại đơn phương, chà đạp lên các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, coi thường các tổ chức quốc tế, kể cả Liên Hợp Quốc và chỉ lợi dụng các tổ chức này khi cần thiết vì lợi ích của Mĩ. Mĩ cho triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa chống tên lửa (NMD), rút ra khỏi hiệp ước ABM, từ chối không phê chuẩn Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân… Chiến lược xây dựng một thế giới đơn cực do Mĩ chi phối được bắt đầu ngay sau chiến tranh lạnh và được thể hiện bằng những biện pháp cứng rắn, công khai hơn trong thời kì cầm quyền của Tổng thống Bush (con).

Trong bối cảnh đó, sự kiện nước Mĩ bị tấn công khủng bố ngày 11 - 9 - 2001 là một đòn choáng váng thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa âm mưu thiết lập trật tự đơn cực của Mĩ. Sau khi mất ngọn cờ “chống cộng” để tập hợp lực lượng trong chiến tranh lạnh, Mĩ đưa ra chiêu bài thành lập liên minh chống khủng bố quốc tế để tập hợp lực lượng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành một trật tự thế giới mới do Mĩ chi phối. Sự kiện 11 - 9 - 2001 được dùng để biện minh cho quyết định sử dụng lực lượng quân sự phát động cuộc chiến tranh chớp nhoáng ở ápganixtan (10 - 2001) và cuộc chiến tranh Irắc (3 - 2003) của Mĩ, bất chấp sự phản đối của dư luận quốc tế. Mĩ đã lợi dụng cuộc chiến chống khủng bố để tăng cường sức mạnh và thực hiện mục tiêu chiến lược lâu dài bá chủ thế giới của mình. Chủ nghĩa đơn phương, ý đồ thiết lập trật tự thế giới đơn cực của Mĩ đã vấp phải sự chống đối không những của các nước lớn như Pháp, Đức, Nga, Trung Quốc… mà còn của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Phong trào chống chiến tranh, chống chính sách hiếu chiến của Mĩ ở Irắc lan rộng khắp thế giới. Mâu thuẫn giữa chủ trương xây dựng thế giới đơn cực do Mĩ chi phối với yêu cầu thiết lập một trật tự đa cực của các nước lớn và cộng đồng quốc tế là một trong những mâu thuẫn cơ bản trong quan hệ quốc tế thời kì sau Chiến tranh lạnh.

Tình hình thế giới đang chuyển tiếp sang một trật tự thế giới mới. Thời kỳ quá độ sau chiến tranh lạnh hiện nay được các nhà nghiên cứu gọi là trạng thái “nhất siêu, nhiều cường”. Trong trạng thái này, Mĩ nổi lên là siêu cường mạnh nhất so với các cường quốc khác, với ưu thế vượt trội trên tất cả các lĩnh vực then chốt của sức mạnh. Do tương quan lực lượng giữa các nước lớn hiện nay đang có lợi cho Mĩ, cùng với những thắng lợi quân sự nhanh chóng tại ápganixtan và Irắc, nên Mĩ có chủ trương xây dựng một trật tự thế giới đơn cực do Mĩ chi phối. Tuy nhiên ảnh hưởng của Mĩ bị cạnh tranh mạnh mẽ bởi sự vươn lên của các cường quốc khác như Nhật Bản, Tây Âu, Nga, Trung Quốc…

Xu thế phát triển của trật tự thế giới trong tương lai là tiến tới một hệ thống đa cực, bởi lẽ nhìn trên bình diện toàn cầu, một quốc gia, dù là siêu cường duy nhất cũng không có khả năng kiểm soát thực tế toàn bộ các lĩnh vực của đời sống quốc tế. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trong kỷ nguyên toàn cầu hoá khiến cho Mĩ không thể và không đủ khả năng thiết lập một trật tự đơn cực mà phải dựa vào các cường quốc khác và các tổ chức quốc tế, trong đó quan trọng nhất là Liên Hợp Quốc. Việc tái thiết Irắc sau chiến tranh đã cho thấy thực tế đó. Bên cạnh đó, đặc điểm chủ yếu trong quan hệ giữa các nước trong trạng thái “nhất siêu nhiều cường” hiện nay vẫn tiếp tục là hợp tác, cạnh tranh và kiềm chế lẫn nhau. Quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước đã tạo ra tình thế buộc các nước phải vừa hợp tác, vừa cạnh tranh nhưng tránh đối đầu, xung đột và chiến tranh.

Trong những năm tới, mục tiêu của Mỹ vẫn không thay đổi, là xác lập một trật tự thế giới một cực dưới sự lãnh đạo của Mỹ. Trong những năm tới, các cặp quan hệ Mỹ - Nhật, Trung - NhậtNga - Nhật có lẽ là những mối quan hệ ít thay đổi nhất. Quan hệ Mỹ - Nhật vẫn là quan hệ đồng minh, liên minh chặt chẽ, nước này luôn coi nước kia là hòn đá tảng trong chiến lược đối ngoại và an ninh của mình, và tính chất này nhìn chung không thay đổi trước những thăng trầm của lịch sử thế giới. Sau sự kiện 11 – 9, Mỹ tăng cường sự hiện diện quân sự ở một số nước châu Á – Thái Bình Dương, nhưng các căn cứ trên đất Nhật Bản vẫn là những mắt khâu chính yếu và quan trọng nhất để Mỹ triển khai chiến lược an ninh ở khu vực này. Trên thực tế, trong quan hệ song phương và trên trường quốc tế, Mỹ đang lợi dụng Nhật hơn là hợp tác bình đẳng với Nhật. Nhật vẫn bị Mỹ coi là đồng minh đàn em, và không hiếm khi Mỹ qua mặt Nhật trong các vấn đề quốc tế và trong quan hệ với những nước lớn khác.

Như vậy, có nhiều nhân tố chủ quan và khách quan thúc đẩy sự hợp tác, liên kết giữa các nước lớn những năm đầu thế kỷ XXI, nhưng trong sâu xa quan hệ giữa họ vẫn chứa đầy mâu thuẫn, xung đột. Có thể quy lại ở mâu thuẫn giữa đơn cực và đa cực, giữa Mỹ và các nước lớn khác trong việc vẽ lại bản đồ chính trị - an ninh – kinh tế thế giới. Quan hệ giữa các nước lớn còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cục diện quan hệ giữa họ còn tiếp tục thay đổi khó lường. Hơn nữa, trong thời điểm hiện nay, khi tình hình Irắc sau chiến tranh, vấn đề hạt nhân ở Iran và Bắc Triều Tiên, quan hệ Palextin – Ixraen … còn diễn biến phức tạp, lại liên quan trực tiếp đến lợi ích của các nước lớn (nên chắc chắn họ có sự mặc cả với nhau để dàn xếp lợi ích), thì cục diện đó càng khó đoán định. Với cục diện quan hệ giữa các nước lớn như vậy, trật tự thế giới mới khó có thể được xác lập trong tương lai gần.

III. Kết luận


Nước Mĩ đã đóng một vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế với hơn một thế kỷ qua. Là chủ thể chủ đạo trong QHQT thời kỳ cận hiện đại. Là người “khổng lồ” của thế giới. Người chèo lái con thuyền QHQT trong suốt quá trình tồn tại của mình. Nước Mĩ với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế TBCN đã chiếm ngôi vị bá chủ của thế giới, là siêu cường của thế giới trong thế kỷ XX.

Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế đã làm cho quan hệ ngoại giao của Mĩ ngày càng chiếm ưu thế. Mĩ đã sử dụng đồng tiền của mình giống như một sức mạnh khủng khiếp để chi phối toàn bộ thế giới TBCN về chính trị, kinh tế và quân sự, khiến các nước nhận Đôla của Mĩ phải lệ thuộc chặt chẽ vào Mĩ và phải theo sự chỉ đạo của Mĩ.

Ngày nay, vị thế và vai trò của Mĩ vẫn không hề suy giảm khi mà các nước khác như Trung Quốc, Nga, Ấn.. đang là những nước “nổi lên” nhanh chóng. Tuy vậy, Mĩ cũng đã phải điều chỉnh chiến lược của mình sao cho phù hợp với tình hình mới.

Tóm lại, vai trò của Mĩ trong hơn một thập kỷ từ đầu thế kỷ XX_đầu thế kỷ XXI là không thay đổi nhiều: siêu cường số 1 trên thế giới, người anh cả của thế giới TBCN, vị thế chủ đạo, chi phối toàn bộ QHQT của các nước trên thế giới…

NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG
 
Bây giờ 2 cực là Nato vs 1 bên là Nga+Trung. Nói chung là giờ bên nào lôi kéo đc càng nhiều đồng minh châu Á thì bên đó càng giành lợi thế lớn
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top