Võ lâm Sài Gòn - Chợ Lớn

  • Thread starter Thread starter Butchi
  • Ngày gửi Ngày gửi

Butchi

VPP Sơn Ca
Xu
92
Ngày nay, trong guồng quay hối hả của cuộc sống bộn bề lo toan, hình ảnh ông thầy dạy võ tung quyền phóng cước bên lũy tre làng dưới ánh trăng hay tiếng thét “ki… ai” đầy uy lực trong những trận “đả lôi đài”, giờ đây thuộc về hoài niệm của một thời xưa cũ. Thế nhưng, trong chuyện phiếm lúc trà dư tửu hậu, những người mê quyền cước vẫn thường kể nhau nghe những giai thoại võ lâm để… luận anh hùng.

Nhằm giúp bạn đọc có cái nhìn tường tận về võ thuật ở đất Sài Gòn đồng thời tôn vinh các hệ phái võ cổ truyền của dân tộc, bắt đầu từ số này Báo CATP sẽ lần lượt đăng tải kỳ tích của các bậc cao thủ làng võ Sài Gòn - Chợ Lớn.


5A3_copy.jpg

Võ sĩ Kê Hoàng Hổ (phải - môn phái Thiếu Lâm Nội quyền Kim Kê) tung cú “Bàng long cước” trong trận đấu đài tại miền Trung

BỐN CAO THỦ ĐẾN TỪ THƯỢNG HẢI

Sân Tinh Võ được thành lập vào năm 1922 với tên gọi “Việt Nam Tinh Võ thể dục học hiệu” do Tổng hội Tinh Võ Thượng Hải sáng lập, gồm Chiêu Tráng Chí (hội trưởng), Lý Nghị Hoàn (hội phó), Diệp Bá Hành (chánh trị sự), Tào Diên Sương (phó trị sự)... tập hợp 85 hội viên, trụ sở tọa lạc tại “Thất phủ Thiên Hậu cung” số 114 đường Mai Sơn, Q5, đến năm 1955 đổi tên thành Hội Thể thao Tinh Võ, nay là Trung tâm TDTT Q5, CLB Tinh Võ (756 Nguyễn Trãi, P11Q5, TPHCM).

Tổng hội Tinh Võ Thượng Hải cử bốn võ sư là Triệu Chấn Quần, Nhan Quế Chi, Bạch Liên Trân và Vương Phượng Cang sang dạy võ thuật, sau đó phát triển thêm các môn bóng bàn, bóng rổ, bóng chuyền, cờ tướng... Năm 1945, Việt Nam Tinh Võ thể dục học hiệu đổi tên thành Hội Thể dục Tinh Võ Việt Nam do võ sư Tạ Lâm Tường trực tiếp giảng dạy. Sau đó Tạ Lâm Tường mất, Lệ Nhật Lâm lên thay. Năm 1952, võ sư Triệu Trúc Khê được ban trị sự của hội mời sang dạy Thái Cực Đường Lang đến năm 1968. Một năm sau đó, Thái Cực Đường Lang bắt đầu xuất hiện trên võ đài sân Tinh Võ, thi đấu cùng các lò võ Long Hổ Hội, La Khôn, Nguyễn Hớn Minh, Hồng Nghĩa, Xuân Bình...

Trước 1975, võ cổ truyền (tức võ tự do) ở Sài Gòn - Chợ Lớn có khoảng 15 môn phái thuộc Tổng cuộc Quyền thuật Việt Nam. Võ đài thời đó có hai hình thức thi đấu gồm võ tự do (được sử dụng các đòn chỏ, gối, đấm, đá, kể cả đá hạ bộ) và quyền anh, chia làm bốn hạng: Hạng muỗi (võ sĩ đánh đài lần đầu); hạng ruồi (võ sĩ đã tham gia đánh đài từ 3 - 5 trận); hạng gà (từng thượng đài nhiều lần, có trận thắng) và hạng lông (rất hiếm) dành cho số ít võ sư thách đấu nhau nhằm gây quỹ ủy lạo người nghèo, người bệnh tật.

Võ tự do, người thi đấu mang “găng sáu” (six), môn quyền anh, võ sĩ mang “găng chín” (neuf), nam võ sĩ đấu đài mình trần, mặc quần đùi, mang giáp bảo hộ hạ bộ (coqui). Trọng lượng hai võ sĩ cho phép chênh lệch tối đa 3kg. Mỗi đêm sân Tinh Võ có khoảng 5 độ đài, để đỡ nhàm chán, trong ba độ võ tự do chen vào hai độ quyền anh. Mỗi trận ba hiệp (3 phút/hiệp), giữa mỗi hiệp giải lao một phút, giá vé 200 đồng, võ sĩ chiến thắng được nhận 1.800 đồng từ ban tổ chức, kẻ “rớt đài” được an ủi 800 đồng. Trước trận đấu, hai võ sĩ ký bản cam kết “Ban tổ chức hoàn toàn không chịu trách nhiệm về tính mạng võ sĩ”, nói nôm na là... “đánh chết ráng chịu”! Sân Tinh Võ là nơi vinh danh các “tay đấm vượt thời gian” làng võ miền Nam (1925 - 1975): Nguyễn Văn Phát (Kid Dempsey), sư Muôn, Đông Phương Sóc, Kim Sang, Văn Thọ, Minh Cảnh, Minh Thành, Minh Sang, Huỳnh Tiền, Trần Xil, Xuân Bình, Nguyễn Nhiều, Lê Đại Hoan, Mai Thái Hòa, Nguyễn Son, Từ Thanh Nghĩa, Trần Mạnh Hiền, Kê Hoàng Hổ, Lý Huỳnh Cường, Xuân Hùng, La Khôn, Nguyễn Hớn Minh, Mã Thành Long, Trần Minh...


5A1_copy.jpg

Một trận đấu võ tự do tại sân Tinh Võ, Q5

NHỮNG TRẬN “ĐI ĐÊM” TẠI SÂN TINH VÕ


Tại đây cũng từng diễn ra nhiều trận “đánh cuội”, chẳng hạn hôm nay võ sinh môn phái A hạ môn sinh võ phái B thì tuần sau kết quả diễn ra ngược lại, cả hai võ sĩ đều nhận được tiền đăng đài vừa không mất uy tín môn phái bởi “ăn qua ăn lại”, xem như huề! Nhiều trận võ sĩ tung đòn nhẹ hều như... gãi ngứa, vờn qua lượn lại quanh võ đài chờ hết giờ vào lãnh tiền! Nếu trọng tài tinh ý phát hiện, trận đấu lập tức bị “cắt” ngay. Trận N.H.M đấu với M.C (năm 1970) tại võ đài Tinh Võ bị trọng tài Minh Sang phát hiện khi nghe võ sĩ N.H.M trách: “Sao bữa nay mày đánh mạnh quá vậy?”. Báo chí làm rùm beng, tiếng tăm võ sĩ N.H.M coi như tiêu tùng!

Võ sư Từ Thiện từng kể: “Một số trận đấu võ tự do nam, có người sử dụng đòn... cắn! Năm 1970, võ sĩ T.Q.C đã dùng đòn... “cẩu xực” trong pha nhập nội, bị trọng tài cảnh cáo trừ điểm!”. Có trường hợp, một võ sĩ đã lợi dụng sức bật dây đài để bung mình nhanh vào tấn công đối thủ, hành động này vi phạm luật đấu võ đài.

Một lối đánh xấu nữa: tấn công đối thủ ngay sau khi lệnh trọng tài vừa phát ra. Trong thi đấu võ Thiếu Lâm vốn có lệ “bái Tổ” trước khi xung trận, lệ “bái Tổ” thực hiện ngay sau khi lệnh trọng tài phát ra. Có trường hợp võ sĩ tranh thủ “bái Tổ” thật nhanh nhằm tận dụng chút thời gian hiếm hoi tấn công đối thủ đang trong tư thế... “bái Tổ” khiến kẻ giao đấu trở tay không kịp!


5A2_copy.jpg

Võ sĩ nghỉ giải lao (1 phút) sau mỗi hiệp đấu (ảnh chụp tại sân Tinh Võ năm 1968)

Tệ hơn nữa là “đánh cuội”. Nghĩa là võ sĩ thi đấu được trả tiền từ võ sĩ đối phương, lên đài làm “hình nhân” cho võ sĩ đã “mua” tha hồ đấm đá, nếu có phản công lại (để tránh bị phát hiện) võ sĩ “bán độ” cũng vờ ra đòn không trúng hoặc đánh nhẹ như... phủi bụi, sao cho phần thắng thuộc về người bỏ tiền ra! Đó là trường hợp võ sĩ L.K đấu với võ sĩ võ đường Mã Thành Long hay võ sĩ N.G đấu với võ sĩ N.H.M... Cá biệt, một số võ sư chỉ “bán độ” hai hiệp đầu, hiệp thứ ba trở đi bắt đầu “đánh thật”.

“Đi đêm có ngày gặp ma”, thỉnh thoảng những trận võ đài “móc ngoặc” bị “tổ trác”. Võ sĩ Long Mouse của võ đường Long Hổ Hội trong lúc nhập nội... lỡ tay tung đòn chỏ láy vào chân mày võ sư K. làm máu tuôn lênh láng; võ sĩ Phạm Công Thành và võ sĩ A. Mách đánh một hồi... quên “giao kèo” đã dùng thế Bàng long cước hạ knock-out võ sư H.C - người tự xưng là “đại lực sĩ quốc tế”! Những sự cố ngoài ý muốn làm “bể” hợp đồng giữa hai võ sĩ, tất nhiên người “lỡ tay” mặt mày méo xệch bởi sơ ý... đá “bể nồi cơm” của mình! Cũng may, những trường hợp trên không phổ biến với tất cả cao thủ võ lâm Sài Gòn - Chợ Lớn. Võ thuật là một lĩnh vực đề cao tinh thần thượng võ: thắng vinh - bại không nhục. Do đó, những trận võ đài vẩn đục khó tồn tại trong dòng chảy của một nền võ thuật Việt Nam chân chính, đậm tính “anh hùng mã thượng”.

Còn nữa

Theo báo Công an
 
Kỳ 2: HỔ BẠCH ÂN TRỪNG TRỊ Ô HẮC LỢI

volamky23.jpg

Võ sư Hổ Bạch Ân, trưởng môn phái Thiếu Lâm Bắc phái Bạch Hổ

LĨNH HỘI BÍ KÍP VÕ CÔNG NƠI CỬA THIỀN

Tương truyền, ở Trung Hoa vào đời nhà Nguyên, có một vị cao tăng là Lâm Đạo Thai ẩn tu tại chùa Thiếu Lâm, tỉnh Hồ Bắc. Một hôm, Lâm Đạo Thai lên non hái lá thuốc, bất chợt trông thấy một con cọp trắng nhỏ và một con khỉ đột khổng lồ đang giao đấu. Ông dừng lại xem. Con cọp trắng có vẻ thất thế trước địch thủ quá to lớn. Sau một hồi quần thảo, con khỉ đột chụp được con cọp và chuẩn bị xé ra làm hai mảnh thì bất ngờ cọp trắng vùng dậy tát mạnh vào hạ bộ khỉ đột. Con khỉ rú lên rồi ngã xuống chết tốt. Lâm Đạo Thai chứng kiến cảnh ấy lấy làm thích thú, sau đó ông cho ra đời môn võ Bạch Hổ quyền.

Trải qua hàng thế kỷ, môn phái Thiếu Lâm Bạch Hổ theo chân những võ sư người Hoa du nhập vào Sài Gòn những năm 30. Tại TPHCM, nắm quyền chưởng môn Thiếu Lâm Bắc phái Bạch Hổ hiện nay là đại lão võ sư Hổ Bạch Ân. Ông tên thật là Trịnh Văn Ân, sinh năm 1929 tại huyện Đức Phổ (tỉnh Quảng Ngãi). Năm lên hai tuổi, cậu bé Ân phải theo cha mẹ chạy giặc, trôi dạt đến tận huyện Long Phú (tỉnh Sóc Trăng). Nhà nghèo lại gặp thời ly loạn nên năm Ân lên 7 tuổi, cậu được cha gởi vào chùa nương nhờ cửa Phật, vừa có “cái chữ thánh hiền” lại “đỡ một miệng cơm”. Vào chùa, Ân được hòa thượng trụ trì Thích Thiện Duyên, vốn là cao thủ võ lâm trong chốn giang hồ nay mai danh ẩn tích, đem lòng thương mến bởi tính thật thà, gan dạ và có chí khí hơn người. Nhận thấy ở chú tiểu nhỏ có thể trở thành người chấp chưởng môn phái sau này nên hòa thượng Thích Thiện Duyên đã dốc hết tinh hoa võ học và y học chân truyền lại. Bảy mùa mai nở cũng là khoảng thời gian Trịnh Văn Ân lĩnh hội các tuyệt kỹ Thiếu Lâm Bắc phái Bạch Hổ của vị tăng già.

Một lần, bọn Tây càn vào phá chùa, vị sư già chống trả kiên cường, hạ gục hàng chục tên địch, sau cùng ngã xuống trước mũi súng của kẻ thù. Trước lúc viên tịch, vị cao tăng trăng trối: “Ân con! Môn phái Thiếu Lâm Bạch Hổ là môn võ của nhà Phật, luyện ra cốt để tự vệ, chỉ được sử dụng khi bị bức bách vào đường cùng hoặc phải ra tay diệt kẻ bạo tàn gây hại cho dân!”. Chùa cháy, thầy mất, lòng căm thù giặc như đốt cháy tâm can, Ân quyết định theo “các anh” tham gia kháng chiến, trả thù cho thầy, bảo vệ quê hương. Vào du kích, Ân được giao nhiệm vụ huấn luyện võ thuật cho đội đặc công huyện Long Phú. Nhiều tên hương hào, lý trưởng, địa chủ hống hách, ức hiếp dân lành đã phải ôm đầu máu chạy thục mạng khi “nếm” các tuyệt kỹ của vị chưởng môn Thiếu Lâm Bạch Hổ. Năm 1950, Ân được cơ sở cách mạng đưa ra hoạt động công khai dưới cái “tên cúng cơm” Trịnh Văn Ân.

Về Sài Gòn, Ân mở võ đường tại chùa Định Thành trên đường Lê Văn Duyệt (nay là đường CMT8, cạnh công viên Lê Thị Riêng) lấy pháp danh là Hổ Bạch Ân, ghép tên môn phái với tên khai sinh. Với cái tâm nhà Phật cùng cả một kho tàng quí báu về võ thuật đã được thọ giáo, “Hổ Bạch môn” lần lượt cho ra lò nhiều võ sĩ tên tuổi thời bấy giờ như Hổ Bạch Ba, Hổ Bạch Dạng, Hổ Bạch Hoa (Trần Beo), Hổ Bạch Xuân, Hổ Bạch Biểu, Hổ Bạch Hiếu... Theo nghi thức nhập môn Thiếu Lâm Bắc phái Bạch Hổ, nam môn sinh được đặt là “Hổ Bạch” ghép với tên của mình, nữ môn sinh là “Hổ Kim”. Giai đoạn 1950 - 1960, vị chưởng môn Thiếu Lâm Bạch Hổ đã thượng đài và đoạt nhiều HCV võ tự do, trong đó có những trận thắng lẫy lừng chấn động làng võ Sài Gòn ở một giải thi đấu bao gồm nhiều võ sĩ nổi tiếng 3 nước Đông Dương (1951 - 1952), với các tuyệt kỹ Quan Âm xuất thế, Thập bát La Hán... Tuy nhiên, trận đấu ấn tượng nhất của võ sư Hổ Bạch Ân đến nay vẫn còn được truyền tụng trong giới cao thủ võ lâm Sài Gòn - Chợ Lớn đó là trận thượng đài hạ “knock-out” võ sĩ Ô Hắc Lợi năm 1949.


volamky21.jpg

Lão võ sư Hổ Bạch Ân (thứ hai, từ phải sang) nhận kỷ niệm chương nhân ngày thành lập Liên đoàn Võ cổ truyền TPHCM (1990 - 2010)

BA NÉN TÂM NHANG TRƯỚC TRẬN “ĐẢ LÔI ĐÀI”


Một giờ trước lúc thượng đài với Ô Hắc Lợi, võ sư Hổ Bạch Ân vào chánh điện chùa Định Thành thắp ba nén nhang trước bài vị Phật Bà Quan Âm, Bồ Đề Đạt Ma và vị tổ sư Thích Thiện Duyên, sau đó ông đến sân Tinh Võ (Q5). Sở dĩ chưởng môn Hổ Bạch Ân đích thân lâm trận vì chỉ ông mới có đủ bản lĩnh trừng trị Ô Hắc Lợi - tên trưởng ấp ác ôn, cậy quyền thế ức hiếp dân lành, cam tâm làm “chó săn” cho thực dân Pháp. Trận đấu gồm sáu hiệp (hai phút/hiệp) thể thức võ tự do, võ sĩ không mang thiết bị bảo hộ.

Ô Hắc Lợi thân hình vạm vỡ, cao gần 1m80, da đen sạm, mặt mày hung dữ trông như một bức tượng La Hán bằng đồng trong chùa. Đòn tay của Ô Hắc Lợi ra chiêu khá nhanh do có pha trộn quyền anh, đôi chân di chuyển rất lẹ quanh khắp sàn đấu dụng ý triệt tiêu thể lực đối phương. Dù đấm đá liên tục, nhưng thấy địch thủ chẳng dính đòn nào, Ô Hắc Lợi tỏ ra nôn nóng, chiêu thức bắt đầu chệch choạc. Qua hai hiệp đầu đánh thăm dò, Hổ Bạch Ân dùng kế điệu hổ ly sơn nhằm làm cho Ô Hắc Lợi mất tập trung, sau một đòn “hư chiêu” khiến Ô Hắc Lợi lỡ đà, nhanh như cắt, bằng tuyệt kỹ “trên dao dưới thớt” vị chưởng môn Thiếu Lâm Bắc phái Bạch Hổ lao tới cắm cùng lúc hai đòn chỏ xuống lưng đồng thời phóng một đòn gối mạnh như trời giáng vào giữa ngực nơi huyệt chấn thủy của Ô Hắc Lợi. Tên ác ôn gây nhiều nợ máu với nhân dân lập tức đổ gục xuống sàn đấu giãy đành đạch, hai mắt trợn ngược, miệng sùi bọt...

Dù đã 80 tuổi, nhưng hiện nay đại lão võ sư Hổ Bạch Ân vẫn minh mẫn và khỏe mạnh, hằng ngày ông dạy võ, khám chữa bệnh tại tịnh xá cũng là tư gia (hẻm 209, số 15, Vườn Lài, P. Phú Thọ, Q. Tân Phú, TPHCM) với mong muốn trong những ngày cuối đời kịp truyền lại những tinh hoa võ học cho thế hệ sau này.

(Còn tiếp)
 
Kỳ 3: TUYỆT KỸ KIM KÊ

Năm 1930, tại làng Phước Vân, huyện Cần Đước (tỉnh Chợ Lớn cũ, nay là tỉnh Long An) có cậu bé Đặng Văn Anh 9 tuổi, một tối theo chú đi coi hát bộ ở đình làng. Trong lúc chen lấn để xem đào kép, người chú xích mích với đám trai làng, đụng độ xảy ra. Hình ảnh tả xung hữu đột hạ gục đám thanh niên hơn chục tên của ông chú đã gieo vào tâm trí trẻ thơ của cậu bé niềm đam mê võ thuật. Năm 12 tuổi (1933) , cậu được cha - một võ sư - bắt thắp nhang, bái tổ nhập môn để rồi 22 năm sau (1955), cậu sáng lập Kim Kê môn lừng lẫy võ lâm Sài Gòn - Chợ Lớn với biệt danh Phi Vân Nhạn.

VL9_copy.jpg

Đặng Văn Anh - Tổ sư Kim Kê trong thế “Kim Kê độc lập”...

PHI VÂN NHẠN - ĐẶNG VĂN ANH

Chưởng môn phái Đặng Văn Anh sinh năm 1921, thuộc dòng dõi võ thuật từ đời cụ cố Đặng Văn Thơ đến ông nội Đặng Văn Chương và cha là Đặng Văn Tưởng. Từ nhỏ, Đặng Văn Anh đã mê quyền cước, ngoài học võ với ông nội và cha, ông còn thọ giáo với các võ sư nổi tiếng do cha mời về dạy. Vì thế ở quê, Đặng Văn Anh sớm thành danh với biệt danh Hai Thép, huấn luyện đội du kích huyện Cần Đước. Sau đó, ông lên Sài Gòn thọ giáo bậc cao thủ là võ sư Bùi Văn Hóa (Chín Hóa) – chưởng môn phái Tây Sơn Nhạn tại trường học Chợ Quán (nay là trường Kim Đồng). Do sáng dạ và có căn cơ võ thuật, chẳng bao lâu Đặng Văn Anh đã tinh thông quyền cước và thập bát ban binh khí. Năm 1955, ông sáng lập Kim Kê môn (võ đường số 25E, Khổng Tử, Q5) đến năm 1994 chính thức trở thành Thiếu Lâm nội quyền Kim Kê - Tây Sơn nhạn (TLNQKKTSN) cho đến nay. Môn sinh Kim Kê lừng lẫy giới võ lâm qua các trận đấu đài khắp Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đến các tỉnh miền Trung, nổi bật là chưởng môn Kim Kê Đặng Văn Anh tự Phi Vân Nhạn. Vậy “Kim Kê” là gì?

Trên bàn thờ tổ sư Kim Kê Đặng Văn Anh có treo bức tranh con gà trống đứng gáy trên đỉnh núi, cùng 4 câu thơ:

Phong vũ như mai
Kê mình bất kỷ
Kích kiến quân tử
Vân hồ bất hỉ

Tạm dịch:
Mặc dù ngoài mưa gió
Gà không ngớt tiếng gáy
Thấy được người quân tử
Còn gì vui sướng bằng

“Kim Kê” nghĩa là “gà trống vàng”, lấy cảm hứng từ bài Mai hoa quyền của Thiếu Lâm Tây Sơn nhạn, trong đó có thế Kim Kê độc lập, tổ sư Đặng Văn Anh mê thế võ hiểm này bèn lấy chữ “Kim Kê” đặt tên môn phái với ước muốn đào tạo những võ sĩ hùng dũng, nhanh nhẹn, gan lì, dám đối đòn. Kim Kê độc lập với tư thế đứng trụ chân trái, co cao chân phải, hai tay thủ theo bộ song chủy (gập ngón cái, áp út và út). Khi thủ, che kín những yếu huyệt, lúc bị tấn công phản đòn bằng cách: chân đá vào hạ đẳng (hạ bộ), tay phải đánh vào vùng thượng đẳng (mặt, mắt, mũi), tay trái tung cú đấm thôi sơn vào vùng trung đẳng (ngực, hông) đối thủ.

TLNQKKTSN lấy Yêu tự xà hành làm thân pháp; Thôi sơn làm thủ pháp; Bình sa lạc nhạn làm cước pháp; Mai hoa quyền và Kim Kê quyền làm quyền pháp; thuật cường thân làm nội lực; lừng lẫy với bài Tứ linh đao và Kim Kê đao. Năm 1969, chưởng môn Đặng Văn Anh cùng 13 võ sư là Mai Văn Phát, Lê Văn Kiển, Từ Thiện, Trần Xil, Nguyễn Văn Mách, Xuân Bình, Quách Phước, Minh Sang... thành lập Tổng hội Võ học Việt Nam.

VL1_copy.jpg

... một thế trong bài “Tứ linh đao”

Nguồn gốc “Kim Kê” còn có nguyên nhân khác. Theo võ sư Đặng Kim Anh: “Hồi nhỏ ở quê, ba tôi rất mê đá gà, ông thường ôm gà đi đá đầu làng cuối xóm. Nhà ông nội tôi nuôi hàng chục con gà đòn và gà cựa đều do ba tôi chăm sóc. Ba tôi rất tâm đắc những đặc tính của gà: Biểu tượng cho sự thịnh vượng, nghiêm túc và vinh hoa, gà trống còn có đức tính mà đấng nam nhi, đấng trượng phu cần có”. Hàn Thi ngoại truyện nêu đặc tính gà trống: cái mào đỏ tựa mũ cánh chuồn là văn. Chân có cựa sắt như kiếm là võ. Dũng cảm đương đầu với kẻ thù là dũng. Gọi nhau cùng chia mồi là nhân. Gáy đúng giờ gọi mọi người dậy là tín.

VL5_copy.jpg

Võ sư Kê Hoàng Hổ (phải) trong trận thắng Lý Huệ Đường tại hội chợ kỹ nông công thương năm 1971

LẪY LỪNG TUYỆT KỸ KIM KÊ


TLNQKKTSN đào tạo nhiều võ sĩ từng “làm mưa làm gió” võ đài Sài Gòn - Chợ Lớn giai đoạn 1965 - 1974, nam võ sĩ lấy họ “Kê”, nữ họ “Kim” như Kê Hồng Đăng, “máy đấm” Kê Hoàng Long (Huỳnh Hữu Hào), “trụ đồng” Kê Hoàng Hổ (Huỳnh Thượng Hải), Kê Hùng Sơn, Kê Minh Sơn, Kê Thắng Sơn, Kê Hoa Sơn, Kê An Sơn (Trần Văn Mười)... Sau 1975 có Lê Đình Long, Nguyễn An Tâm Khánh, Kê Huỳnh Long, Hoàng Hạnh Phúc, Phan Văn Trí Nhân, Dương Thị Thanh Trúc, Ngô Thị Ngọc Chi, Kê Long Sơn, Kê Bạch Long, Lương Văn Thành (mở võ đường Kabudo - Kim Kê Kung-fu tại Berlin - Đức)...

Môn phái TLNQKKTSN lừng lẫy với thế Sát thủ giản (võ sư Kê Hoàng Hổ thường tung liên tiếp hai cú Bàng long cước ép đối thủ vào góc đài rồi hạ knock-out bằng đòn revers) và thế Bình sa lạc nhạn. Hồi nhỏ nếu nghe ai nói: “Có ông thầy đá trói rất hay” thì đó là thế Bình sa lạc nhạn. Khi đá trúng hồng hải huyệt (giữa bắp đùi) hoặc bạch hải huyệt (gần đầu gối) địch thủ lập tức “rớt” liền (nghĩa là tự trói mình vậy).

Lúc sinh thời, tổ sư Kim Kê Đặng Văn Anh từng nhận xét: “Đòn thế hay đẹp là do người thực hiện chứ không có riêng đòn thế này hoặc đòn thế kia đẹp. Chẳng hạn Yêu tự xà hành đi tiếp với Siêu phong hoán vũ thì rất hay và đẹp”. Về đấu võ đài, tổ sư cho rằng: “Lên võ đài mà đánh loạn đả là do võ sĩ ấy mất bình tĩnh hoặc còn non nghề! Võ thuật tuy phát triển hơn trước năm 1975 nhưng trình độ võ sinh không bằng do ít ai chịu khổ luyện”.

VL6_copy.jpg

Võ sư Đặng Kim Anh (Chưởng môn phái TLNQKKTSN - trái) và lão võ sư Kê Hoàng Hổ (tức Huỳnh Thượng Hải)

14 giờ ngày 3-5-1998, tổ sư Kim Kê Đặng Văn Anh về cõi vĩnh hằng, hưởng thọ 77 tuổi. Con trai tổ sư Kim Kê - võ sư Đặng Kim Anh chấp chưởng môn phái, tổ đường đặt tại số 75 đường 26A, Bình Phú, P10Q6, TPHCM. Võ sư Đặng Kim Anh hiện là Phó chủ nhiệm CLB Tinh Võ, Q5. Đệ tử ruột cố tổ sư Kim Kê là Kê Hoàng Hổ (tức võ sư Huỳnh Thượng Hải, năm nay 62 tuổi) hiện dạy TLNQKKTSN tại Trung tâm TDTT Q5 (CLB Tinh Võ, 756 Nguyễn Trãi, P11Q5) và tại tư gia (258/68/6 Dương Bá Trạc, P2Q8).

(Còn tiếp)
NGỌC THIỆN
 
Kỳ 4: ĐƯỜNG ĐAO CỦA ĐẠI SƯ MAI VĂN PHÁT

Giới võ lâm Sài Gòn - Chợ Lớn luôn dành vị trí trang trọng nhất trong những lần họp mặt cho một vị thiền sư tóc búi cao, râu bạc dài, đôi mắt sáng quắc tinh anh trong bộ cà sa vàng mượt, tác phong ông thư thái, tay lần chuỗi hạt. Đó là vị chưởng môn phái Trung Sơn võ đạo Mai Văn Phát, pháp danh Thích Thiện Tánh, trụ trì tại Long Hoa tự (phường Tân Định, TPHCM)...


VL_ky4.jpg.jpg

Tổ sư môn phái Trung Sơn võ đạo Mai Văn Phát trong bài song tô, đăng trên tạp chí võ thuật Karaté Bushido (Pháp), tháng 6-1995

LÃNH HỘI TUYỆT KỸ CHỐN THÂM SƠN

Đại sư Mai Văn Phát sinh năm 1917 tại xã Thới Đông, huyện Ô Môn, tỉnh Cần Thơ trong một gia đình nông dân. Thuở nhỏ ông là một đứa trẻ ốm yếu, thường hay bệnh tật, nên khoảng 10 tuổi được gia đình đưa lên Hải Sơn tự ở núi Thất Sơn (Châu Đốc - An Giang) theo hòa thượng Thích Thiện Hoa tu học. Vị hòa thượng trụ trì Hải Sơn tự nguyên là thủ hạ của Nguyễn Trung Trực - vị anh hùng cầm đầu nghĩa quân đốt cháy tàu Espéranto của thực dân Pháp trên dòng Nhật Tảo. Khởi nghĩa thất bại, người cận tướng của Nguyễn Trung Trực bị thực dân Pháp truy lùng, phải lánh nạn tại Hải Sơn tự, mai danh ẩn tích dưới pháp danh Thích Thiện Hoa. Chốn thiền môn không chỉ là chỗ người nghĩa quân dung thân, ông còn dùng sân chùa đêm đêm bí mật rèn luyện võ nghệ cho thanh niên trai tráng trong làng dưới chân núi. Nơi cửa chùa, ngoài Phật pháp, cậu bé Phát còn được sư phụ truyền dạy võ công. Sau 14 năm, cậu bé Mai Văn Phát gầy gò bệnh tật năm nào giờ đã trở nên rắn rỏi, săn chắc, tinh thông quyền cước và thập bát ban binh khí. Năm 24 tuổi sư phụ viên tịch, Mai Văn Phát xuống núi đem sở học mà thầy đã chân truyền ra giúp đời.

Năm 1941, võ sư Mai Văn Phát về quê nhà Cần Thơ, đêm đêm dạy võ cho trai tráng trong thôn. Một hôm ông may mắn được võ sư Lào Thêm - một bậc cao thủ người Hẹ ẩn tích tại núi Bà Đen (Tây Ninh) tình cờ hành hiệp ngang qua sân luyện võ, thấy Mai Văn Phát cốt cách tinh anh, tác phong quân tử nên đem lòng yêu mến và nhận làm nghĩa tử, sau đó chân truyền các tuyệt kỹ võ công Thiếu Lâm Bắc phái Bạch Hạc và Thiếu Lâm Chu Gia (võ Hẹ).


VL_ky4.jpg_%282%29.jpg

Tổ sư Mai Văn Phát (ngồi bên trái) và chưởng môn Lam Sơn võ đạo Quách Phước

Năm 1955, võ sư Mai Văn Phát rời Ô Môn lên Sài Gòn sinh sống, vừa đi làm vừa dạy võ tại nhà, đồng thời nghiên cứu, hệ thống hóa tinh hoa võ thuật từ hai vị ân sư, sắp xếp thành chương trình huấn luyện từ thấp đến cao. Năm 1963, sau khi chế độ độc tài Ngô Đình Diệm bị lật đổ, chính quyền miền Nam xáo trộn, nhằm thu hút thanh thiếu niên sinh hoạt lành mạnh, võ sư Mai Văn Phát quyết định xuống tóc xuất gia, lấy pháp danh Thích Thiện Tánh với ước mong dùng việc dạy võ để giáo huấn thế hệ trẻ lòng yêu nước, đạo đức làm người và khả năng tự vệ hữu hiệu, ông sáng lập môn phái Trung Sơn võ đạo (Thiếu Lâm Nguyên thủy Mật truyền) từ chi đoàn Trúc Lâm (hướng đạo sinh Phật tử), võ đường đặt tại Long Hoa tự (P.Tân Định, TPHCM).

Năm 1969, cùng với 13 võ sư, đại sư Mai Văn Phát vận động thành lập Tổng hội Võ học Việt Nam, giữ chức phó chủ tịch (nhiệm kỳ 1969 - 1971, 1973 - 1975), chủ tịch (1971 - 1973). Sau 1975, đại sư Mai Văn Phát tham gia tổ chức Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam, được cử giữ chức trưởng ban cố vấn. Tại Liên hoan Võ thuật Việt - Pháp tổ chức tại NTĐ Phan Đình Phùng (TPHCM) tối 11-11-1997, dù đã bước qua tuổi 80, đại lão võ sư Mai Văn Phát vẫn biểu diễn bài đại đao với những đường múa uyển chuyển, đầy uy lực trong tiếng vỗ tay tán thưởng của hàng ngàn cặp mắt ngạc nhiên lẫn thán phục của các võ sư, môn sinh và quan khách. Ngoài dạy võ, đại lão võ sư Mai Văn Phát còn nhận chữa trị các bệnh khớp xương và thần kinh tọa. Tạp chí chuyên về võ thuật của Pháp Karate Bushido (6-1995) đã đăng bài viết của võ sư Việt kiều Phan Châu Toàn về đại lão võ sư Mai Văn Phát, tác giả Phan Châu Toàn đã gọi đại lão võ sư Mai Văn Phát là “vị thầy tu giỏi võ, một huyền thoại sống”.

Ngày 8-12-1997, đại lão võ sư Mai Văn Phát viên tịch sau một cơn bạo bệnh, để lại môn phái Trung Sơn võ đạo đã tồn tại đến nay tròn 45 năm, hiện TPHCM có 24 đơn vị đang hoạt động, số môn sinh khoác áo Trung Sơn võ đạo đã lên đến hàng vạn.


VL_ky4.jpg_%281%29.jpg

Các võ sư Trung Sơn võ đạo bên bàn thờ tổ môn phái

VANG DANH TRUNG SƠN VÕ ĐẠO


Sau 45 năm thành lập, Trung Sơn võ đạo của đại lão võ sư Mai Văn Phát sản sinh ra nhiều đệ tử tài năng như Lê Ngọc Điệp, Nguyễn Thanh Sơn, Trần Văn Hồng, Phạm Ngọc Hùng, Lê Tấn Phát, Lư Kim Toàn, Trần Hùng Khanh, Nguyễn Minh Trang, Trần Minh Tâm, Nguyễn Văn Thanh (Tâm Lương), Lê Thị Nhiều, Thanh Phượng... Là thiền sư, lấy chữ Bi làm đầu, đại sư Mai Văn Phát cấm môn đồ thượng đài, bởi ông tâm niệm “võ thuật nhằm rèn luyện nhân cách, học võ không phải để tranh tài cao thấp, phân định hơn thua”, dù vậy trong hai thập kỷ 60 - 70, võ đường Long Hoa tự vẫn thu hút hàng ngàn thanh thiếu niên đến xin tập luyện.

Trung Sơn võ đạo là môn võ cương nhu tương tế, trong đó có các bài quyền đặc trưng: La Hầu quyền, Hắc Long đao, Song tô lão hổ... Môn đồ Trung Sơn võ đạo thiện nghệ binh khí đơn đao, song tô, kiếm, côn. Đơn đao sử dụng hai tay gọi là Song thủ đới, chú trọng vào sức mạnh và tốc độ ra đòn, chiêu thức đơn giản nhưng đòi hỏi môn sinh phải khổ luyện. Đao pháp Trung Sơn võ đạo, trong thì ý, khí, lực, ngoài thì thân, thủ, bộ pháp uy lực đúng với khẩu quyết “đao như mãnh hổ”. Trung Sơn võ đạo còn có 10 thế điểm huyệt mật truyền: Nữ hầu chưởng ngọc; Thiết sa chưởng; Hầu xiềng; Bạch hổ thủ điểm hầu trung cực; Phụng hoàng sang điểm thủy; Hắc hổ du tâm; Hầu xiềng điểm huyệt yết hầu; Song hầu thủ điểm giáng kinh; Đơn hầu thủ, điểm huyệt toàn cơ; Mãnh hổ du sơn.

(Còn tiếp)
 
Kỳ 5: “TAM NGUYỆT DANH GIA” QUÁCH VĂN KẾ

Vl_ky5_3_copy.jpg

Các thế võ của môn phái Lam Sơn võ đạo

Hằng năm, vào dịp hạ tuần tháng 8 Âm lịch, võ đường Lam Sơn võ đạo đều tổ chức lễ giỗ vua Lê Thái Tổ - Thánh tổ của môn phái, tức người anh hùng áo vải đất Lam Sơn - Lê Lợi, vị chưởng môn sáng lập Lam Sơn võ đạo là võ sư Quách Văn Kế.

VỊ VÕ SƯ - CHIẾN SĨ CÁCH MẠNG

Cố chưởng môn Quách Văn Kế (1897 - 1976) sinh tại Tô Lịch (Hà Nội). Từ nhỏ đã có niềm đam mê võ thuật đến kỳ lạ, hễ nghe ở đâu có thầy võ giỏi là ông tìm đến bái sư. Người thầy đầu tiên là Ba Cát - vị võ tướng cuối cùng của triều Nguyễn. Năm 1918, Quách Văn Kế thọ giáo thầy Lê Bái - chưởng môn phái Hàn Bái đường. Học được mười năm thì thầy Hàn Bái đột ngột từ trần. Năm 1930, Quách Văn Kế bỏ xứ vào Sài Gòn làm kế toán viên. Tại đây ông may mắn hội ngộ và thọ giáo võ thuật với thầy Bảy Mùa. Võ sư Quách Văn Kế đâu thể ngờ rằng ông đã “có phước lớn” khi được lãnh giáo võ học của Tam Nhật danh gia trong lịch sử võ thuật Việt Nam là Ba Cát, Hàn Bái và Bảy Mùa.

Sau 33 năm khổ luyện nội công, quyền cước và binh khí, Quách Văn Kế được xem là một trong những cao thủ của làng võ Sài Gòn - Chợ Lớn thập niên 40 - 70. Ngưỡng mộ tài nghệ võ sư Quách Văn Kế, ký giả Trần Văn Hạnh - chủ nhiệm Nhật báo Dân Báo kiêm chủ nhà in Tín Đức thư xã đã bỏ tiền lập võ đường để thầy Kế truyền lại sở học cho thế hệ trẻ.

Vl_ky5_1_copy.jpg

Võ sư Quách Phước trong một thế kiếm...

Tháng 8-1945, Nhật đầu hàng đồng minh, hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ, nhân dân cả nước nổi dậy kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Hòa trong khí thế cách mạng, võ sư Quách Văn Kế trở thành bộ đội Cụ Hồ cầm súng đánh giặc, lập được nhiều chiến công. Năm 1949, với tư cách Hội phó “Hội Bắc Việt tương tế”, võ sư Quách Văn Kế sáng lập Hội TDTT Lam Sơn, sau đó ông còn tổ chức dạy Phương pháp cận chiến cấp tốc cho thanh niên tiền phong ở SVĐ Hoa Lư và Phan Đình Phùng (Sài Gòn), được một năm ông về Vườn Thơm (Đức Hòa - Đức Huệ, Long An) huấn luyện võ thuật cho lực lượng vũ trang rồi quay lại Sài Gòn làm nhiệm vụ bảo vệ cơ sở hoạt động nội thành cho tới ngày ký kết Hiệp định Geneve (1954). Thời gian này, võ sư Quách Văn Kế dạy võ ở đền thờ Trần Hưng Đạo (36 đường Mayer, nay là Võ Thị Sáu, Q1) dưới danh nghĩa Hội TDTT Lam Sơn và sau đó chính thức thành lập môn phái Lam Sơn võ đạo, nhận vị anh hùng dân tộc Lê Lợi làm thánh tổ. Năm 1967, khi đã 70 tuổi, võ sư Quách Văn Kế truyền chức chưởng môn lại cho con trai út là võ sư Quách Phước (34 tuổi) nhằm tiếp tục truyền bá môn phái Lam Sơn võ đạo cho thế hệ sau. Những học trò tài danh của chưởng môn Lam Sơn võ đạo Quách Văn Kế là võ sư Nghiêm An Thạch (sau lập Nam Hải võ đạo ở Ý), võ sư Nguyễn Văn Du, Huỳnh Thị Ngọc Sương, Nguyễn Sô... Võ sư Quách Văn Kế được xem là một trong Tam Nguyệt danh gia (hai võ sư còn lại là cụ Võ Bá Oai - môn phái Hàn Bái Đường và cụ Trương Thanh Đăng - môn phái Sa Long Cương).

Môn phái Lam Sơn võ đạo kết hợp tinh hoa hai dòng võ Thiếu Lâm (Trung Hoa) và Tây Sơn - Bình Định. vì thế tính chiến đấu cao. Sở trường đòn ngắn, nhập nội, thế đánh tốc độ, dũng mãnh. Lam Sơn võ đạo có các bài võ trấn môn như Phượng Hoàng quyền, Phượng Hoàng song đao, Lão Mai côn, Quách gia đại đao... danh bất hư truyền!

Vl_ky5_2_copy.jpg

... và một bài đao

TUYỆT KỸ QUÁCH GIA ĐẠI ĐAO

Không chỉ thừa hưởng tinh hoa võ thuật từ cha - chưởng môn Lam Sơn võ đạo Quách Văn Kế, võ sư Quách Phước còn tìm học thêm với bác sĩ - võ sư Đỗ Như Ánh, võ sư Thanh Vân (Thiếu Lâm Bắc phái Thăng Long) và võ sư Tám Kiển (chưởng môn phái Nam Tông). 18 tuổi, võ sư Quách Phước đã được Tổng cuộc Quyền thuật Việt Nam cấp bằng HLV, tiếp tục cùng cha truyền bá môn phái Lam Sơn võ đạo tại đền thờ đức Trần Hưng Đạo. Năm 1969, võ sư Quách Phước được bầu chọn vào chức vụ Tổng Thư ký của Tổng cuộc Quyền thuật Việt Nam, cũng năm đó ông cùng 13 võ sư là Tám Kiển, Mai Văn Phát, Trần Xil, Mười Mách, Kim Kê, Từ Thiện, Xuân Bình, Minh Sang... thành lập Tổng hội Võ học Việt Nam mà ông là tổng thư ký.

Vóc người nhỏ con (cao 1m58, nặng 50kg) nhưng võ sư Quách Phước đã vang danh thiên hạ hơn nửa thế kỷ qua với biệt danh Song thần thủ, sở trường cây Quách gia đại đao (dài 1m98, nặng trên 4kg), sử dụng thuần thục các tuyệt kỹ của môn phái như Cửu khúc Bạch long tiên (9 khúc sắt nối liền nhau, dài 1m33, nặng 32kg) và cây trượng Phượng Hoàng với nhiều đòn thế cương mãnh, Liên hoàn thiên địa trảm (đao), Phi thân trảm (kiếm), Phi thân tảo địa Thăng Long cước, Song long hổ cước...

50 năm truyền bá Lam Sơn võ đạo, võ sư Quách Phước đã đào tạo nhiều đệ tử tài năng như võ sư Trần Văn Ba Jacques, Đặng Đức, Hồ Ngọc Toàn, Lam Ngọc, Quách Phát (con trai võ sư Quách Phước)... Võ sư Trần Văn Ba Jacques quản lý 20 võ đường Lam Sơn võ đạo trải dài từ Montpellier đến Paris (Pháp), tại miền Nam Australia, Lam Sơn võ đạo đã phát triển ba chi nhánh ở Woodville Gardens, Mansfield Park, Salisbury do võ sư Hồ Ngọc Toàn và Lam Ngọc phụ trách, thu hút hàng ngàn môn sinh, Pháp, Úc, Tây Ban Nha, Ý, Mỹ... tham gia luyện tập. Các tạp chí chuyên về võ thuật như Budo International, Karate Bushido, Arts Combat, Ceinture Noire, Castries... đã có nhiều bài viết kèm ảnh giới thiệu môn phái Lam Sơn võ đạo, đặc biệt nhấn mạnh về thân thế và sự nghiệp vị chưởng môn đời thứ hai Quách Phước.

Võ sư Quách Phước còn là họa sĩ (ông tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Gia Định năm 1953 loại xuất sắc), ông đã xuất bản hai cuốn sách võ thuật: Cẩm nang Lam Sơn võ đạo và 120 thế tự vệ cho phụ nữ. Cẩm nang Lam Sơn võ đạo đã có ấn bản bằng Anh ngữ, Pháp ngữ phát hành rộng rãi ở Pháp và Australia.

(Còn tiếp)
NGỌC THIỆN
 
Kỳ 6: VÕ LÂM TÂN KHÁNH - BÀ TRÀ

Võ lâm Tân Khánh - Bà Trà hình thành vào khoảng thế kỷ XVII tại làng Tân Khánh thuộc vùng đất Đồng Nai xưa (nay là xã Tân Phước Khánh, huyện Tân Uyên và xã Bình Chuẩn, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương). Các bậc tiền bối góp phần sáng lập võ phái đặc thù Nam bộ này là những tay võ dũng trong đoàn người Việt khai phá vùng đất mới vừa được quốc vương Chân Lạp nhượng cho chúa Nguyễn ở đàng Trong. Chốn rừng thiêng nước độc, những người đi khẩn hoang đa số là dân đất võ Tây Sơn - Bình Định đã cùng một số người Hoa vốn là binh sĩ, nhà sư, cướp biển võ nghệ siêu quần hợp sức chống lại thú dữ: cá sấu, trâu rừng, heo rừng và nhất là cọp, từ đó dần hình thành môn võ miệt rừng: Võ lâm Tân Khánh.


volamky6_3_copy.jpg

Lão võ sư Từ Thiện (thứ ba từ trái sang) và đại sư Mai Văn Phát cùng các môn sinh võ đường Trung sơn võ đạo

Đến thế kỷ XIX, môn Võ lâm Tân Khánh ghép thêm một tên người: Võ lâm Tân Khánh - Bà Trà. Bà Trà là cao thủ võ lâm, con gái một bộ tướng của Tây Sơn Nguyễn Huệ. Bà Trà lập căn cứ tại Truông Mây (Tân Uyên - tỉnh Sông Bé cũ) chiêu mộ nghĩa binh chống lại triều đình Tự Đức (năm 1850), bà nổi tiếng với cặp kiếm, xông trận như vào chỗ không người. Năm 1853, có kẻ tạo phản trong hàng ngũ nghĩa quân, nửa đêm căn cứ Truông Mây bị quân triều đình “đánh úp”, bà Trà “mở đường máu” thoát thân cùng sáu nữ binh thân tín chạy đến vùng Chòm Sao (gần chợ Bún ngày nay) lập một ngôi chùa, ẩn náu tại đây đến những ngày cuối đời...

Võ lâm Tân Khánh - Bà Trà ngoài các bậc danh sư như Hai Ất, Ba Giá, Năm Vuông, lớp hậu duệ có Sáu Trực, sau đó đào tạo được đệ tử giỏi là Bảy Phiên (Võ Văn Phiên) - một thầy võ danh tiếng ở Tân Khánh (1939-1959), nhà cách mạng Nguyễn An Ninh từng là học trò ông Trực, Võ Văn Đước, Đỗ Văn Mạnh... lẫy lừng với những chiến công đả hổ.


volamky6_2_copy.jpg

Tổ sư Từ Thiện (Hồ Văn Lành) trong thế “Lão hầu tróc trư”

KỲ NHÂN HỒ VĂN LÀNH


Võ sư Hồ Văn Lành sinh năm Giáp Dần (1914) tại làng Tân Khánh, xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, thuở nhỏ ông đi làm thuê ở lò gốm để nuôi thân và phụ giúp gia đình. Quá hâm mộ ngọn roi đả hổ của thầy Hai Ất, Ba Giá, năm 14 tuổi cậu bé Lành theo thọ giáo nghề võ với người dượng thứ sáu tức võ sư Bảy Phiên (đệ tử đời thứ hai của lão sư Hai Ất).

Sau bốn năm miệt mài khổ luyện, Hồ Văn Lành lẫy lừng với những pha nhập nội thần tốc khiến các đồng môn đàn anh phải bái phục! Năm 20 tuổi, Lành có tên trong đoàn võ sĩ xứ Tân Khánh (do Cai tổng Thêm làm trưởng đoàn) đi đánh võ đài, đánh đâu thắng đó, vang dội khắp miền Đông Nam bộ. Năm 1939, Hồ Văn Lành mở lò dạy Võ lâm Tân Khánh - Bà Trà, lấy biệt danh “Từ Thiện” với mong muốn dùng võ thuật để hướng môn đồ đến điều thiện. Thời gian này, võ sư Từ Thiện đã giúp vốn cho ông Huỳnh Bá Phước – một cao thủ môn phái Thiếu Lâm Bạch Hạc, người gốc Vân Nam - Trung Quốc, mở tiệm thuốc Đông y, nên được Huỳnh sư phụ truyền dạy Thiếu Lâm Bạch Hạc và Vịnh Xuân cũng như khoa trật đả. Năm 1955, võ sư Từ Thiện vào Sài Gòn truyền bá môn võ xứ đả hổ ở Khánh Hội (Q4) sau qua Cầu Muối (Q1). Năm 1959, ông gia nhập Tổng cuộc Quyền thuật Việt Nam, đào tạo võ sĩ thượng đài, võ sư Từ Thiện còn học hỏi thêm quyền anh với Lư Hòa Phát, Denis Minh, Kid Dempsey...

Võ lâm Tân Khánh - Bà Trà giai đoạn 1955-1970 đào tạo nhiều võ sĩ nổi tiếng như Từ Thanh Tòng, Từ Thanh Nghĩa, Từ Trung Tín, Từ Y Văn, Hồ Ngọc Thọ, Từ Y Tuấn, Hồ Thanh Phượng, Từ Hoàng Minh, Từ Hoàng Út... từng hạ nhiều võ sĩ Campuchia, Lào, Thái Lan, Indonesia, Hồng Kông, Miến Điện... Những võ sĩ chưa một lần thất bại sau 10 trận đăng đài của “võ đường Từ Thiện” là Từ Hùng, Hồ Hoàng Thủy, Từ Dũng, Hồ Hoàng Hạnh, Từ Bạch Long, Hồ Tố Nguyệt... Cần nói thêm, võ sĩ “võ đường Từ Thiện”, nam được đặt họ “Từ”, nữ họ “Hồ” - hai họ của chưởng môn Hồ Văn Lành tức Từ Thiện.


volamky6_1_copy.jpg

Võ sư Từ Thiện (thứ ba từ phải sang) cùng 13 võ sư tại buổi thành lập Tổng hội Võ học Việt Nam năm 1969

TUYỆT KỸ VÕ LÂM TÂN KHÁNH - BÀ TRÀ


Võ sư Hồ Tường (con trai võ sư Từ Thiện), chưởng môn đời thứ hai Võ Lâm Tân Khánh - Bà Trà: “Ngoài thập bát binh khí, môn phái còn có 12 loại binh khí phụ gọi là thập nhị phân cơ như thiết lĩnh, khăn quấn đầu, sợi dây... Binh khí đả hổ của môn phái là côn, tiên và trường thương. Võ Lâm Tân Khánh - Bà Trà lừng lẫy với các loại binh khí như Độc kiếm, Song kiếm, Tứ Môn côn, Ngũ Môn côn, Roi Phụng Hoàng, Roi Thần Đồng, Roi Giáng Hỏa, Côn Tấn Nhứt và các bài danh quyền như Lão Mai, Ngọc Trản, Bạch Hạc, Tiểu Niệm đầu, Đồng Nhi, Thái Sơn... với cách đánh liên hoàn, xuất thủ chớp nhoáng, công thủ toàn diện, uyển chuyển của Thiếu Lâm Bạch Hạc pha trộn quyền thuật võ dân tộc Chân Lạp cùng cước pháp và binh khí đặc trưng võ trận Tây Sơn - Bình Định.

Võ sư Từ Thiện vang danh khắp võ đài Sài Gòn - Chợ Lớn nhờ tuyệt kỹ “rờ-ve” (đòn tay móc ngược) thần tốc. Năm 1969, võ sư Từ Thiện cùng 13 võ sư Tám Kiển, Mai Văn Phát, Trần Xil, Mười Mách, Kim Kê, Quách Phước, Xuân Bình, Minh Sang... sáng lập Tổng hội Võ học Việt Nam nhằm trấn hưng, bảo tồn và phát huy tinh hoa võ học nước nhà. Năm 1991, võ sư Từ Thiện xuất bản sách Võ Lâm Tân Khánh - Bà Trà. Năm 2003, Ủy banTDTT quốc gia trao tặng ông huân chương “Vì sự nghiệp TDTT”. Võ sư Từ Thiện từng cho rằng: “Luyện võ giúp ta tăng cường sức khỏe, kỹ năng tự vệ đồng thời đó cũng là cách luyện tinh thần, tính kiên nhẫn và lòng tự tin”.

Năm 2005, đại lão võ sư Từ Thiện về cõi vĩnh hằng, thượng thọ 91 tuổi. Người con trai - võ sư Hồ Tường tiếp tục truyền bá môn phái Võ Lâm Tân Khánh - Bà Trà tại NVH Thanh Niên (4 Phạm Ngọc Thạch, Q1), nơi đây từng đào tạo nhiều võ sĩ tài danh đoạt HCV qua các giải thi đấu võ cổ truyền cấp thành phố và cả nước.

(Còn tiếp)

NGỌC THIỆN
 
Vlam9-2_copy.jpg

Lão võ sư Trần Hữu Hoàng

Cuối đời Tống, đại sư chùa Thiếu Lâm là Bạch Ngọc Phong hệ thống hóa võ thuật đúc kết thành Ngũ hình quyền gồm 5 loài linh thú: long (rồng) - hổ (cọp) - báo (beo) - xà (rắn) - hạc (chim hạc), theo Bạch đại sư: “Tinh lực khí cốt con người tích tụ theo thể ngũ hình: long luyện thần, hổ luyện cốt, báo luyện lực, xà luyện khí, hạc luyện tinh”. Trong Ngũ hình quyền thì hổ được nhiều bậc cao thủ võ lâm chế tác thành những tuyệt kỹ chiến đấu hữu hiệu, giới yêu thích võ thuật Sài Gòn - Chợ Lớn từng tôn vinh môn phái Hắc Hổ - Thiết Quyền đạo của chưởng môn đời thứ ba Trần Hữu Hoàng, trước 1975 võ đường tọa lạc tại số 96/8/4, ấp Cộng Hòa 2, đường Lê Lợi, xã Hạnh Thông, Gò Vấp, tỉnh Gia Định.


Vlam9-3_copy.jpg

Huyền thoại Kungfu Bruce Lee (Lý Tiểu Long) với tuyệt kỹ “Hổ hình quyền” trong bộ phim “Mãnh Long quá giang” (1972)

NGŨ HỔ MƯỜI TÁM THÔN VƯỜN TRẦU

Đầu thế kỷ XX, trong những người đi khai hoang ở vùng Đông Nam bộ xuất hiện võ sư Trần Văn Đầy - một trong số ít danh sư Bình Định - An Thái tha phương vào Nam phát triển dòng võ nhà Tây Sơn tại Hóc Môn - Bà Điểm. Không chỉ chữa bệnh, bốc thuốc, võ sư Đầy còn tinh thông thập bát binh khí, Nho giáo Đông phương, quyền cước, khí công, nội công... Ông đã truyền bá tuyệt kỹ Hắc Hổ quyền cho người dân 18 thôn vườn trầu chống lại mãnh thú, bọn cường hào ác bá trong thôn, đặc biệt là sau khi phong trào Nam Kỳ khởi nghĩa nổ ra ngày 23-11-1940.

Nghe danh Hắc Hổ quyền, ông Thuận Tường - người Minh Hương (Trung Quốc), lưu lạc sang Việt Nam sống ẩn dật ở vùng Thất Sơn (Châu Đốc - An Giang) - một bậc cao thủ Bắc Phái - Sơn Đông, sở trường tuyệt chiêu Thiết Sa công, lặn lội tìm đến 18 thôn vườn trầu xin so tài với võ sư Đầy. Trận thư hùng “long tranh hổ đấu” giữa hai bậc kỳ tài chốn võ lâm xứng danh kỳ phùng địch thủ. Liên tiếp trong ba ngày, mỗi ngày ba hiệp đấu bất phân thắng bại, “anh hùng trọng anh hùng” từ đó đã nảy nở một tình bạn. Họ cắt máu kết nghĩa đệ huynh, đồng sinh đồng tử tạo nên danh tiếng Nhị hổ tướng lừng lẫy Nam Kỳ lục tỉnh. Sau nhiều tháng ngày ròng rã nghiên cứu, võ sư Thuận Tường kết hợp thủ pháp An Thái - Bình Định với cước pháp Thiết Sa công lập ra võ phái Hắc Hổ - Thiết Quyền đạo.

Võ sư Trần Văn Chánh - con trai thầy Đầy, từ nhỏ đã thụ đắc công phu Hắc Hổ - Thiết Quyền đạo và chân truyền các tuyệt kỹ võ lâm đó cho 5 người con trai. Năm 1960, trưởng nam Trần Hữu Hoàng. được thân sinh ủy thác, lên chấp chưởng môn phái Hắc Hổ - Thiết Quyền đạo khi vừa tròn 20 tuổi. Mười năm sau, ông được Tổng cuộc Quyền thuật Việt Nam và Tổng hội Võ học Việt Nam cấp bằng võ sư. Từ đó, ông đã đưa võ đường Hắc Hổ trở thành một trong những trung tâm đào tạo võ sĩ đánh đài chuyên nghiệp, thu hút hàng ngàn thanh thiếu niên đến võ đường ở Gò Vấp xin thọ giáo. Cả 4 em trai ông: Trần Văn Xuân, Trần Văn Hiệp, Trần Thuận Hòa, Trần Thanh Quang đều là võ sư. Trước 1975, nói đến võ Hắc Hổ ai cũng nghe danh Ngũ hổ tướng của 18 thôn vườn trầu.


Vlam9-1_copy.jpg

Võ sư Phùng Thiện Lương trong thế “hổ trảo”

HỔ TRẢO


Môn phái Hắc Hổ - Thiết Quyền đạo phản ánh đậm nét hành vi loài cọp. Môn sinh luyện tập phải cảm và nghĩ mình là một con cọp hoang xuống núi, đôi mắt phải thể hiện được thần và uy lực qua nhãn quan giận dữ, hủy diệt như khi chúa sơn lâm nhìn mồi. Người tập môn Hắc Hổ - Thiết Quyền đạo phải luyện sống lưng đạt độ dẻo để có thể tung ra những đòn đầy uy lực. Cọp là con vật mau lẹ, tinh khôn, sức cọp là một ngoại lực cương mãnh, vì thế đòn tấn công của môn phái Hắc Hổ - Thiết Quyền đạo cũng mạnh bạo, áp sát đối phương, triệt hạ bằng đòn chỏ, gối, xỉa, đâm, chụp (ngũ trảo) với bàn tay được luyện cứng như thép. Kỹ thuật căn bản của môn phái là hổ trảo (mười ngón tay quặp lại như móng cọp), đòn tấn công thẳng, ngắn để kéo, bẻ, xé hoặc vồ, mục tiêu của hổ trảo là mặt, cổ, hạ bộ, cánh tay, cổ tay, ngực... nhắm vào các yếu huyệt (hạ bộ, chấn thủy).

Hắc Hổ - Thiết Quyền đạo còn có lối tấn công bằng chưởng, chỉa (song chỉ), một số tuyệt chiêu của môn phái như Mãnh hổ hồi đầu, Ngạ hổ khiên dương, Hổ vĩ cước, Hắc hổ xuất sơn... đặc biệt bộ Liên Hoàn Châu - tuyệt kỹ của môn phái kết hợp 12 đường chỏ cực kỳ lợi hại trong lối đánh nhập nội nhắm vào các tử huyệt đối phương. Do đòn thế môn phái mang tính sát thương cao, kẻ dính đòn nặng thì tử vong, nhẹ thì bại liệt, vì thế chưởng môn Trần Hữu Hoàng luôn cẩn trọng khi thu nạp đệ tử, ông luôn chọn người tính tình ôn hòa, nhu mì, xem cốt cách, tướng mạo người xin học có phải là người hiền lành hay không, các độc chiêu hổ trảo chỉ truyền cho số ít cao đồ có đạo đức, trung thành và không hiếu sát.

Đến nay Hắc Hổ - Thiết Quyền đạo đã đào tạo 15 võ sư, 120 HLV và hơn 5.000 võ sinh. Nổi bật có Nguyễn Thanh Long, Lê Hải Bắc, Lê Ngọc Ẩn, Trần Văn Hiệp, Trần Thanh Quang, Liêng Hồng Sơn, Nguyễn Quang Thuận, Vũ Hồng Thanh, Trương Văn Tư, Đỗ Đặng Phong, nhà giáo ưu tú Thu Vân, diễn viên Quốc Cường, Sa Bảo, Nguyễn Xuân Đường (tại Nga), Jean Louis D, Aviau de Piolant và Ludovic huấn luyện trên 2.000 môn sinh tại Paris và Bordeaux (Pháp), Ngô Quang Thành (ở Lào), John Phan (ở Mỹ), Trần Ngọc Vinh (PC14 CAQ2), Nguyễn Việt Hoàng (PC14 CA tỉnh Bình Dương), Nguyễn Quốc Hưng (A.37 Bộ CA)...

(Còn tiếp)
 
Kỳ 8: THÁI CỰC ĐƯỜNG LANG - VÕ BỌ NGỰA
Vào cuối đời Minh ở Trung Hoa có Vương Lang - môn đồ của Thiếu Lâm tự (núi Tung Sơn, huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam) . Ở chùa, dịp Tết đến thường tổ chức “đả lôi đài”, sự cọ xát này giúp các môn sinh rèn luyện bản lĩnh chiến đấu. Vương Lang thượng đài năm nào cũng thua liểng xiểng, một hôm buồn quá ông vác kiếm vào rừng nằm ngủ. Đang mơ màng bên gốc cây, ông chợt nghe tiếng ve kêu, nhìn lên nhánh cây, ông thấy con ngựa trời (bọ ngựa) đang đánh nhau với con ve. Thích thú dõi theo từng đòn đánh, cú đá của con bọ ngựa, Vương Lang nghiên cứu thành thủ pháp rồi tìm hiểu cách leo trèo, chạy nhảy của loài khỉ, ông lập thành bộ pháp đặt tên là Thái Cực Đường Lang (môn võ mô phỏng tư thế con bọ ngựa - Đường Lang nghĩa là con bọ ngựa). Mùa xuân năm sau, Vương Lang thượng đài và với tuyệt kỹ Thái Cực Đường Lang ông trở thành “người bất khả chiến bại”.


Volamky8_3_copy.jpg

Võ sư Trần Minh thị phạm một đòn chân cho học trò tại Tinh Nghĩa Đường, Q5 và...

KỲ NHÂN TRIỆU TRÚC KHÊ

Người đầu tiên mang Thái Cực Đường Lang đến Việt Nam là võ sư Triệu Trúc Khê. Sau khi Trung Quốc giải phóng (1949), ông Triệu lánh qua Việt Nam ở Hải Phòng rồi năm 1951 xuống Chợ Lớn, dạy võ độ nhật ở sân Tinh Võ (Q5). Triệu Trúc Khê tự là Trường Khanh, sinh năm 1896 tại Sơn Đông - Trung Quốc. Ông mồ côi khi lên 6 tuổi, ở với cậu mợ, bị hành hạ không chịu nổi nên lén bỏ nhà phiêu bạt giang hồ. Tình cờ, ông gặp một hòa thượng đưa về chùa Trí Tạng (núi Đại Trạch) nuôi nấng. Trong chùa có hai vị đại sư là Thanh Tuyền và Giác Đông đều là cao thủ của Thái Tổ môn (Thiếu Lâm Thái Tổ quyền). Thấy Trúc Khê lanh lợi, siêng năng, hai đại sư bèn truyền dạy môn võ bí truyền này. Sau mười năm khổ luyện, võ công Triệu Trúc Khê vô cùng thâm hậu với hai tuyệt kỹ Thất tiết Mai Hoa tiên (roi 7 khúc) và Phi đà (còn gọi là Thằng tiên, tức sợi dây dài, một đầu dây có buộc một quả tạ). Sau khi cả ba vị ân sư lần lượt viên tịch, Triệu Trúc Khê xuống núi làm bảo tiêu (áp tải hàng hóa) cho tiêu đầu Dư Thông Hải. Thời gian này, Triệu võ sư lên núi Yên Đài, tìm đến đạo quán Thanh Phong lĩnh hội tuyệt kỹ Ma Vân chưởng của đạo sĩ Trương Vạn Thu - truyền nhân đời thứ 11 của tổ sư phái Võ Đang Trương Tam Phong rồi liên tục bảy năm học Thái Cực Đường Lang quyền với hai danh sư Nhậm Phong Thụy và Trì Thủ Tấn. Trước khi qua đời, Trì võ sư đã truyền chức chưởng môn Thái Cực Đường Lang đời thứ tám cho đệ tử ruột Triệu Trúc Khê.


Volamky8_1_copy.jpg

... Trong một thế kiếm

Thời gian ở Chợ Lớn, nhà Triệu võ sư cạnh chùa Bà Thiên Hậu (Nguyễn Trãi, Q5) cũng là y quán chữa trật đả. Sau đó, Tinh Võ Thể dục hội Sài Gòn mời ông về làm Tổng giáo huấn luyện võ thuật thay HLV Tạ Lâm Tường. Tổ sư Triệu Trúc Khê đào tạo hàng ngàn môn sinh, trong đó có 12 đại đệ tử giỏi nhất, gọi là Thập nhị Kim Cang gồm Trịnh Hoa Thu, Thái Hữu Thành, Quan Chí Cường, Trần Sanh, Liên Định An, Trần Hứa Tân, Trần Tùng Bách, Lý Văn Anh, Huỳnh Diệu Bính, Trần Minh, Lý Hỏa Yên, Tưởng Diệu Huy... Giới võ lâm Chợ Lớn và môn sinh người Hoa rất tự hào với võ đường Thái Cực Đường Lang của võ sư Trần Minh cũng là đội lân sư rồng Tinh Nghĩa Đường (bên cạnh chợ Hòa Bình, Q5) lừng lẫy ở thập niên 60-70.

Sau biến cố Tết Mậu Thân 1968, Triệu Trúc Khê đưa gia quyến về lại Hồng Kông, ông qua đời ngày 24-6-1992 (Âm lịch) đúng vào ngày giỗ tổ môn phái, hưởng thọ 96 tuổi.


Volamky8_2_copy.jpg

Võ sư Tô Thiếu Kiệt hiện dạy Thái Cực Đường Lang tại TT TDTT Q. Bình Thạnh (TPHCM) và Hội thể dục dưỡng sinh Q5

TUYỆT KỸ VÕ BỌ NGỰA

Theo võ sư Tô Thiếu Kiệt (56 tuổi) em ruột võ sư Tô Thiếu Hoa (đệ tử tổ sư Triệu Trúc Khê): “Thái Cực Đường Lang là môn võ thuật kết hợp thể thao do đó đường nét uyển chuyển đẹp mắt, ít mang tính chiến đấu. Thái Cực Đường Lang là môn võ cương trong khi Thái Cực quyền chọn lối nhu hòa. Môn võ Thái Cực Đường Lang động tác nhanh lẹ thuộc Thiếu Lâm Bắc phái (chủ yếu sử dụng cước pháp), hình tượng chiến đấu dũng mãnh của con bọ ngựa luôn được môn sinh Thái Cực Đường Lang quán tưởng. Do môn võ này kết hợp bộ pháp, thân pháp của loài khỉ (Hầu quyền) nên đòn thế xuất ra nhanh và chính xác vào yếu huyệt đối phương.

Thái Cực Đường Lang có các tuyệt kỹ về quyền, cước pháp và binh khí đặc trưng như Bát đại mã bộ, Băng bộ quyền, Lan tiệt quyền, Tiểu đại phiên xa, Đơn trích Mai Hoa, Âm thủ côn (đánh hai đầu côn), Đan môn đao, Tứ môn thương, Thượng hạ bát trửu, Ngọc hoàn đao, Thái cực kiếm, Mai Hoa tiên (dây xích), Liên hoàn kiếm, Triền phong cước, Thanh phong kiếm (sử dụng cả bao kiếm), Song câu, Xuân Thu đại đao, Đường Lang côn, Đường Lang băng bộ, Thất tiết Mai Hoa, Thập tự Liên Hoa chưởng, Bát quái côn, Phương thiên chưởng, Thái Cực chưởng (132 thức), Thái tổ tán thủ, Hổ đầu song côn, Tam tiết côn, Khai sơn đại đao, Thái Cực tiếu mã... và 12 bài Đàn thoái... Theo võ sư Tô Thiếu Kiệt: Môn phái có bài dây xích (Mai Hoa tiên bảy và chín khúc rất ảo diệu, áp dụng định luật ly tâm trong vật lý và bài Phi đà (đánh bằng dây sắt), hai tuyệt kỹ này độ phức tạp cao nên ít môn đồ của Triệu võ sư học được vẹn toàn.


Volamky8_4_copy.jpg

“Thập nhị Kim Cang” chụp ảnh lưu niệm cùng sư phụ Triệu Trúc Khê và sư mẫu...

Hiện võ sư Tô Thiếu Kiệt tiếp tục truyền bá môn phái Thái Cực Đường Lang tại công viên Nhà Thiếu nhi Q5, Trung tâm TDTD Q. Bình Thạnh và Hội Thể dục Dưỡng sinh Q5; võ sư Trần Chí Kiệt (con trai lớn võ sư Trần Minh - một trong Thập nhị Kim Cang của tổ sư Triệu Trúc Khê) và võ sư Trịnh Cẩm Hà (con rể võ sư Trần Minh) dạy Thái Cực Đường Lang tại Tinh Nghĩa Đường (5/5G Chiêu Anh Cát, P5Q5, cạnh chợ Hòa Bình, TPHCM).

(Còn tiếp)

NGỌC THIỆN
 
Kỳ 10: CÔN LUÂN KIẾM PHÁP

Tương truyền, vào thời thượng cổ, Hồng Quân lão tổ dạy cách tu tiên cho ba đệ tử là Ngưu Thỉ, Thông Thiên và Thái Thượng. Ông Ngưu Thỉ sau đó chế tác ra Thiên Cang, Ngũ Hành, Bát Quái. Thái Thượng và Thông Thiên luyện được Địa chi và Thú Hình quyền. Ba môn gọi chung là “võ tiên” khác “võ Phật” của phái Thiếu Lâm do tổ sư Bồ Đề Đạt Ma sáng lập. Thái Thượng Lão Quân về thiền định tại núi Côn Luân truyền lại cho đời môn võ công của mình được gọi là Đàn Thoái hay võ phái Côn Luân (còn gọi là Côn Lôn) sau này.


VL_ky10.jpg

Chưởng môn phái Côn Luân Lý Hồng Hon trong một thế đao

TUỔI THƠ DỮ DỘI CỦA LÝ VÕ SƯ

Năm 1932, khi lên hai tuổi, cậu bé Lý Hồng Hon phải theo gia đình sang Việt Nam lánh nạn bởi thân phụ là thành viên tổ chức Thiên Địa Hội bị chính quyền Trung Quốc truy nã. Được ông nội là Lý Thành Hỷ - chưởng môn đời thứ năm võ phái Côn Luân, người tỉnh Thanh Hải - Trung Quốc dạy võ nên từ bé Lý Hồng Hon đã được tập xuống tấn, đi quyền, phóng cước. Nơi đất khách quê người, cả gia đình làm nghề nhuộm vải, làm ruộng, trồng bông tại khu Xóm Đất (Lò Siêu, Q.6) lúc này vẫn đầy cọp, heo rừng, trâu rừng, cá sấu...

Sau thời gian dạy võ cho một số thanh thiếu niên tham gia đánh Tây, thân phụ Lý Hồng Hon bị mật thám bắt đưa ra tận Phú Quốc (Côn Đảo), nhà bị đốt, cả gia đình phải lánh nạn tại một chòi lá ở khu Nhị Tỳ Quảng Đông (cư xá Bình Thới, Q.11 ngày nay), sau đó dạt sang trường đua Phú Thọ rồi khu Mái Đá (Ngô Quyền, Q.10). Võ sư Lý Hồng Hon bùi ngùi : “Cả nhà tôi lúc đó phải đi ăn xin, anh Ba tôi đi chăn bò, bà già gánh nước mướn, suốt cả năm chỉ toàn ăn khoai và cơm cháy xin được. Do nghèo khổ nên bị đám bạn cùng xóm rẻ khinh, ngày nào tôi cũng choảng nhau với chúng bởi bị gọi là “thằng Tiều chó”! Năm 9 tuổi, Lý Hồng Hon đi giữ ngựa cho ông Ba Ngà (giao lộ Ngô Quyền - Hòa Hảo, Q10) may mắn được võ sư Lý Sol (người Khmer) truyền dạy một số chiêu thức Thiếu Lâm Bắc phái Triều Châu, ông này là võ sĩ đấu đài nổi tiếng sân Tinh Võ thập niên 40, học trò ruột võ sư Hia Ba Sen, một địa chủ ở Bạc Liêu.


VL_ky10_%282%29.jpg

Trong thế “Hạc tấn”

Năm 16 tuổi (1947), dịp may đến với Lý Hồng Hon. Qua võ sư Lai Quý (người Hẹ), bác ruột của ông là Dương Chí Minh - chưởng môn phái Côn Luân, từ Sơn Đông lặn lội qua Việt Nam đã tìm được người cháu nội của Lý Thành Hỷ là Lý Hồng Hon để truyền dạy tuyệt kỹ võ công môn phái Côn Luân. Sau bốn năm miệt mài khổ luyện, năm 1952, Lý Hồng Hon xuất sư, đến 1954 chính thức nhận chức chưởng môn phái Côn Luân cho đến nay, với biệt hiệu Thanh Vân tự Hồng Phong.
Các môn sư võ phái Côn Luân thích sống cuộc đời ẩn dật, giản dị, không phô trương môn phái, mỗi sư trưởng chỉ nhận truyền dạy không quá mười đệ tử, vì vậy môn phái Côn Luân nghe nói rất nhiều nhưng ít người được học. Võ phái Côn Luân của chưởng môn Lý Hồng Hon khác Côn Luân Bắc phái (Võ lâm Chánh tông hay Thập bát La Hán quyền, tức 18 môn binh khí của Võ lâm Chánh tông) do võ sư Đoàn Tâm Ảnh – học trò của Mộc Đức thiền sư sáng lập. Kể từ đời Mãn Thanh đến nay, các đạo sĩ sau đây đã kế tục nhau làm chưởng môn võ phái Côn Luân là Nhạc Nguyên Hùng, Vũ Thiếu Lang, Nhạc Phong, Lý Thành Hỷ, Dương Chí Minh.

Sau khi đắc thụ võ học, Lý Hồng Hon tham gia hoạt động thành, để tạo vỏ bọc che mắt địch, ông tham gia đánh võ đài với biệt danh Thanh Vân, từng vô địch 21 tỉnh thành miền Nam và miền Trung từ 1950-1953, đến năm 1954, Lý Hồng Hon theo “các anh” tập kết ra Bắc gia nhập sư đoàn 330 rồi sư đoàn 338. Võ sư – nhà cách mạng Lý Hồng Hon đã nhận được Huân chương Lao động hạng 3 (do Bác Hồ ký), Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng I (do Bác Hồ ký), Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng I (do đồng chí Trường Chinh ký), Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng cùng nhiều bằng khen, giấy khen, huân, huy chương kháng chiến các loại.
Võ sư Lý Hồng Hon đã đào tạo nhiều môn đệ lừng lẫy như Mã Triệu Sinh, Tạ Khởi Đức, Hà Hồng Câu (mở võ đường ở Canada), Tăng Hòa, Mạc Nam, Lương Tiến Hưng (Thụy Sĩ), Long Khởi Thụy (Đức)... và hai người con là võ sư Lý Hùng Thắng và Lý Hồng Quyền.


VL_ky10_%281%29.jpg

Võ sư Lý Hồng Hon

YẾU LĨNH CÔNG PHÁP PHÁI CÔN LUÂN

Đặc điểm võ thuật môn phái Côn Luân; tiến thoái rõ ràng, động tác nhanh lẹ, đường quyền rành rẽ. Khi tấn đi như gió, đứng trụ như đinh đóng vào gỗ, lên nhanh như vượn leo cây, xuống gấp như chim ưng bắt mồi, né tránh chui lòn như rắn bò, động như mãnh hổ vồ mồi, tịnh như núi non, chiêu pháp nhanh chậm, cứng mềm rõ ràng, không rối loạn. Sức mạnh (kình) chặt, thân chỉnh, một khí thông suốt, chiêu liền chiêu, thế tiếp thế, thế đứt nhưng khí phải liền. Động thì ào ạt như gió cuốn mây tan, tỉnh thì đột ngột như gương nước hồ lặng sóng.

Trong thập bát binh khí của võ phái Côn Luân, sở trường là hai bài Song kiếm hí nguyệt (26 thế) và Thâm huyệt phong kiếm (32 thế). Bài Song kiếm hí nguyệt đánh ba mặt, trong đó có một số tuyệt kỹ như Cổn thân phách kiếm, Bạch hạc xung thiên, Hoa phong xảo hài tả, Thiên hạc lan vũ ; bài Thâm huyệt phong kiếm đánh 4 hướng (phải - trước và trái - phải) với các thế kiếm bí truyền như Chuyển hạc tấn phách kiếm, Hoành mã đảo ảnh kiếm, Loan thoái thích tả kiếm, Tà khai đảo phong kiếm, Cổn phong u hồn kiếm, Tầm châu uyển địa, Tả thủ tiếp kiếm... Kiếm pháp Côn Luân thủ trên đỡ dưới kín đáo, khi loan kiếm, ánh kiếm bao bọc thân người thành hình tròn, đường kiếm không vẹo, lệch, không rời rạc, loạn xạ.

Hiện nay, vào mỗi buổi sáng trong tuần, võ sư chưởng môn phái Côn Luân Lý Hồng Hon truyền dạy võ thuật tại Công viên Văn hóa Tao Đàn (mặt đường Bùi Thị Xuân, Q1) và khám chữa bệnh tại tư gia (99 đường số 8, P4Q8, TPHCM).

(Còn tiếp)

 
Kỳ 11: THIẾU LÂM CHÁNH TÔNG THÁI LÝ PHẬT

Đề cập về võ lâm Sài Gòn - Chợ Lớn không thể không nhắc đến môn phái Thiếu Lâm Chánh Tông Thái Lý Phật (TLCTTLP), tổ đường đặt tại 104 Tân Khai, P4Q11 với đại gia đình gồm 10 anh em võ sư họ Huỳnh: Chí Cường, Chí Quyền, Chí Thắng, Chí Lợi, Chí Dân, Chí An, Chí Hữu, Chí Phước, Chí Mãng, Chí Đường, trong đó người thứ năm - võ sư Huỳnh Chí Dân (SN 1962) nắm quyền chưởng môn TLCTTLP từ năm 2004 cho đến nay.


VLky11_%281%29.jpg

Tổ sư môn phái TLCTTLP Đặng Văn Thành trong thế “Tiên nhân chỉ lộ”

NGƯỜI ĐƯA THIẾU LÂM THÁI LÝ PHẬT VÀO VIỆT NAM

TLCTTLP bao gồm: Thái Gia, Lý Gia và Phật Gia. Ông Trần Hưởng Công - cận vệ của Lâm Tác Từ - Tổng đốc Lưỡng Quảng (Quảng Đông - Quảng Tây, Trung Quốc), từng theo học võ với các nhà sư Thái Phúc, Lý Hữu Sơn và Ngũ Kinh Tăng (biệt danh Thanh Thảo thiền sư). Khi thụ đắc võ công, ông “xuống núi” bắt đầu truyền bá các tuyệt kỹ đã học được, gọi tên môn phái là TLCTTLP (hai ông họ Lý và họ Thái đã hoàn tục, riêng Thanh Thảo thiền sư về ẩn tu tại Bát Bài Sơn - Quảng Tây, Trung Quốc). Tuyệt kỹ của từng môn có thể thu gồm trong mấy chữ: Thái gia mã (bộ chân, tấn pháp), Lý gia quyền (thủ pháp), Phật gia chưởng (nội công, khí công, điểm huyệt), mỗi “nhà” đều có những tuyệt kỹ ảo diệu.

TLCTTLP do tổ sư Trần Nhất Minh đem từ Trung Quốc vào Việt Nam năm 1932. Sau một thời gian dạy tại các tư gia người Hoa ở Chợ Lớn, năm 1939 Trần võ sư chính thức mở lò võ truyền bá rộng rãi môn phái TLCTTLP tại đường Lý Thành Nguyên (nay là Đỗ Ngọc Thạch, P4Q11), đào tạo nhiều võ sĩ khét tiếng như Đường Chấn Quang, Trần Thế Vinh... Tổ sư Trần Nhất Minh quá vãng năm 1985, thọ 81 tuổi.

Năm 1933, một bậc cao thủ TLCTTLP là Đặng Văn Thành từ Quảng Châu - Trung Quốc qua Việt Nam truyền dạy môn võ công này tại khu chợ Thiếc (P6Q11). Võ sư Đặng Văn Thành, còn gọi là Đặng Tây (Tằng Sấy) sinh năm 1915 tại Đặng gia thôn, huyện Phan Ngư, tỉnh Quảng Đông - Trung Quốc. Giới võ lâm Chợ Lớn trìu mến gọi ông là Sấy Bạc (bác Tây). 5 tuổi, ông học Thiếu Lâm Hồng Gia với chú ruột là Đặng Tân, 8 tuổi thọ giáo võ thuật của sư phụ “Thần Thủ Đàm Tam” - biệt danh Bắc Thắng Thái Lý Phật, chưởng môn nhân đời thứ tư Thiếu Lâm Phật Gia quyền. Sau 9 năm miệt mài khổ luyện, Đặng Văn Thành tinh thông quyền cước, binh khí, trong đó có các tuyệt kỹ như Thiết chỉ (thủ pháp đánh bằng ngón trỏ), Cầm nã thủ... Năm 17 tuổi, do hạ đo ván võ sư Nhật Kanashi (vô địch karate và judo) tại Hội Tinh võ Quảng Châu, nên dẫn đến xung đột giữa người dân Quảng Châu và quân đội Nhật, một đêm tháng 12-1932, Đặng Tây cùng người cô ruột xuống thuyền vượt biển trốn chạy đến Vũng Tàu rồi Chợ Lớn, trở thành một trong hai sứ giả đầu tiên đưa TLCTTLP vào Việt Nam. Ông sống bằng nghề đan giỏ ở đường Trần Quý, P6Q11, sau đó mở võ đường tại nhà riêng ở khu Nhị Tì Quảng Đông (nay là đường Lãnh Binh Thăng, Q11), trong các bài võ mà ông truyền dạy, đặc sắc nhất là các bài Thập tam gia tỏa (13 thế mở khóa) mà nhân vật Võ Tòng trong truyện Thủy Hử từng áp dụng, Phụng hoàng tiêu (đánh bằng cây tiêu, sáo), Kim long phiến (đánh bằng quạt không mở), Hồ điệp phiến (mở quạt ra đánh), Bàng long phất tử (đánh bằng cây phất trần)... Năm 1978, ông thành lập đội lân sư rồng Thắng Nghĩa Đường (Nghĩa bất hậu nhân tức làm việc nghĩa phải trước mọi người) gồm 70 thành viên tinh thông quyền cước và binh khí. Trong số học trò ruột của võ sư Đặng Văn Thành, ngoài “Thắng Nghĩa Huỳnh gia mãnh hổ” - 10 anh em nhà họ Huỳnh còn có hai anh em Dương Cẩm An, Dương Cẩm Nguyên, Huỳnh Gia Bá, Lương Khải Bình, Liêu Quốc Hoa... Tổ sư Đặng Văn Thành qua đời năm 2004, thọ 90 tuổi.

Võ đường TLCTTLP và đoàn lân sư rồng Thắng Nghĩa Đường “đóng căn cứ” tại CLB Lệ Chí (7 Hải Thượng Lãn Ông, P13Q5) suốt 30 năm qua, do ba anh em võ sư Huỳnh Chí Lợi, Huỳnh Chí Dân, Huỳnh Chí Phước và Huỳnh Chí Mãng trực tiếp đào tạo, huấn luyện võ thuật cho môn sinh (từ cơ bản đến nâng cao), dạy các đòn thế tự vệ chiến đấu, luyện binh khí, nội công, khí công) từ 20 đến 21 giờ 30 các ngày trong tuần (trừ chủ nhật), thu hút hàng trăm thanh thiếu niên theo học. Hai người con của chưởng môn Huỳnh Chí Dân là Huỳnh Gia Bửu, Huỳnh Gia Lương cùng các con cháu của đại gia đình họ Huỳnh đều theo nghiệp võ.


VLky11.jpg

Hai anh em võ sư Huỳnh Chí Dân (trái) và Huỳnh Chí Mãng

CÁC BÀI QUYỀN DANH BẤT HƯ TRUYỀN


Võ đường TLCTTLP không có đai cấp, trình độ môn sinh được khẳng định do công phu, khổ luyện từ thấp lên cao dần, càng lên cao đòn thế càng phức tạp đòi hỏi tốn nhiều thời gian công sức. TLCTTLP đặc trưng ở tập mã bộ (tức là tập sức đôi chân như tấn pháp, cước pháp), thủ pháp (các đòn tay gồm Thập đại thủ pháp) với “Xuyên náo cầm nã thủ”, “Trường kiều đại mã” ra đòn nhanh chuẩn xác và có lực. Ngay từ sơ cấp, môn sinh TLCTTLP đã được tập đấm đá bao cát, đấm đá có gắn tạ ở tay, chân do đó thủ, cước pháp cực kỳ mãnh liệt khi tung đòn. Một số bài quyền tiêu biểu khi nhập môn là Bạch mao quyền, Thiết tiễn quyền, Mai hoa quyền, trình độ trung cấp (từ 2 - 4 năm) có Tứ bình quyền, Thập tự quyền, cao cấp có Ngũ hình quyền, Thập hình quyền, La Hán phục hổ quyền, Túy tửu Bát tiên, Hạc hình quyền, Xà hình quyền... thập bát ban binh khí có diễn tiên, cây quải (song long quải), song kim giản, trong đó có một số bài “độc” của môn phái như Phục ma côn, Phong ma trượng, Phong lôi tán (đánh bằng cây dù), Kim long phiến (đánh bằng cây quạt), Phi long kiếm, Phi phụng kiếm, Cổn đường đao, Truy hồn đao, Thanh long đao...

TLCTTLP thuộc Thiếu Lâm Nam phái, sở trường đòn tay với các pha nhập nội thần tốc, đây là môn võ cương nhu tương tế. Ngoài việc dạy võ thuật, chưởng môn TLCTTLP Huỳnh Chí Dân còn chữa trị các bệnh phong thấp, trặc gân, gãy xương bằng phương pháp y học cổ truyền tại số 844/1 Trần Hưng Đạo, P7Q5, TPHCM (vào hẻm 842 trường Kim Đồng, đối diện khách sạn Hạnh Long 1).

(Còn tiếp)
 
Độc giả mê truyện chưởng Kim Dung đa phần đều cho rằng: nhân vật giáo chủ Bạch Mi Ưng Vương trong bộ truyện kiếm hiệp Cô gái Đồ Long là vị sư tổ môn phái Bạch Mi. Thật ra, đó chỉ là sự ngộ nhận từ một nhân vật hư cấu qua trí tưởng tượng của nhà văn Kim Dung mà thôi.


VL_ky12_%281%29.jpg

Sư tổ Bạch Mi đạo nhân

BỐN CAO THỦ ĐƯA THIẾU LÂM BẠCH MI VÀO CHỢ LỚN

Theo lịch sử Thiếu Lâm tự, vào năm 1736, khi binh lính Mãn Thanh tấn công và hỏa thiêu chùa Thiếu Lâm, Bạch Mi hòa thượng đã trốn thoát lên núi Nga Mi (tỉnh Tứ Xuyên) - một trong năm ngọn núi thiêng của đất nước Trung Hoa. Sau tám năm diện bích trong hang động, thiền định theo lối đạo sĩ, Bạch Mi đạo nhân đã chế tác một môn võ công thượng thừa gọi là Thiếu Lâm Bạch Mi, ngoài ra còn có Ngũ Mai Lão Ni (núi Bạch Hạc), Phùng Đạo Đức (núi Võ Đang), Miêu Hiển chân nhân, Chí Thiện thiền sư. Năm huynh đệ này (được người đời gọi là Thiếu Lâm ngũ tổ) lần lượt xuất sơn, mỗi người đi mỗi ngả...

Đến nay, môn phái Bạch Mi đã ra đời ngót 300 năm, được xem là một trong “Võ lâm ngũ đại phái” gồm Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi, Bạch Mi, Bạch Hạc. Ngoài Bạch Mi đạo nhân sáng lập môn phái Thiếu Lâm Bạch Mi còn có Ngũ Mai Lão Ni truyền dạy Bạch Hạc quyền cho một nữ đồ đệ tên Vịnh Xuân - sư tổ môn phái Thiếu Lâm Vịnh Xuân sau này; Phùng Đạo Đức chân nhân sáng lập Bạch Hổ phái với tuyệt kỹ Thiết Sa chưởng; Chí Thiện thiền sư cùng học trò Hồng Hy Quan lênh đênh trên thuyền của một đoàn hát, để giữ thăng bằng trước những đợt sóng to đập vào mạn thuyền, Hồng Hy Quan đã chế tác môn võ công Hồng Gia quyền nổi tiếng về sau với nhân vật Hoàng Phi Hồng; con gái Miêu Hiển là Miêu Thiếu Hoa sanh được một nhân vật võ công tuyệt luân là Phương Thế Ngọc.


VL_ky12_%282%29.jpg

Võ sư Phùng Thiện Lương (trái) thị phạm cho môn sinh thế đá đoạt binh khí tại Công viên văn hóa Tao Đàn

Theo lệ, môn phái Bạch Mi chỉ truyền thụ cho người xuất gia. Tổ sư Bạch Mi truyền cho Quảng Huệ thiền sư, ông này trước khi viên tịch truyền lại cho Trúc Pháp Vân đại sư. Tuy nhiên, Trúc Pháp Vân đại sư đã phá lệ môn phái truyền cho một đồ đệ “ngoại đạo” là Trương Lễ Tuyền. Ông này sau đó dạy Thiếu Lâm Bạch Mi ở Hồng Kông, trong số các đồ đệ của Trương Lễ Tuyền có ba người rất giỏi là Huỳnh Thiệu Long, Lại Quý Đình và Tăng Huệ Bác. Võ sư Huỳnh Thiệu Long có hai đại đệ tử là Huỳnh Hớn (Huỳnh Thiếu Hùng) và Huỳnh Tân Tựu (bà con và cũng là sư huynh đệ với Huỳnh Thiếu Hùng). Sau khi thầy mất, hai đệ tử họ Huỳnh học thêm với sư phụ Tăng Huệ Bác.

Thiếu Lâm Bạch Mi du nhập vào Việt Nam khoảng năm 1920 từ bốn võ sư Khưu Nhơn Hòa, Huỳnh Thiệu Long, Lại Quý Đình và Tăng Huệ Bác, nhưng không được truyền bá rộng rãi do chính quyền thực dân Pháp cấm đoán, đại sư Tăng Huệ Bác (người Quảng Đông) vào Chợ Lớn tổ chức dạy kín cho một số người thân, bạn bè ở đường Phùng Hưng, Q5. Tại đây, Tăng đại sư đào tạo nhiều học trò giỏi, nổi bật là Diệp Quốc Lương (đoàn lân Liên Thắng đường, trụ sở trên đường Hà Tôn Quyền, Q11), Huỳnh Thiếu Hùng (đội lân Quần Anh đường, đường Võ Trường Toản, Q5) và Trần Lâm - nổi tiếng với bài quyền Thập bát ma kiều - tuyệt kỹ công phu của Bạch Mi phái, võ sư Trần Lâm tạ thế năm 2007 tại căn hộ trên đường Dương Bá Trạc (Q8), hưởng thọ 84 tuổi.
Trước 1975, môn đồ võ phái Thiếu Lâm Bạch Mi nổi tiếng không chỉ về quyền, cước, binh khí mà còn có tài biểu diễn lân sư rồng, ngoài Liên Thắng đường, Quần Anh đường còn có Quần Thắng đường (của võ sư Huỳnh Quý Nam), Việt Thắng đường (do võ sư Lại Quý Đình phụ trách, sau ông truyền lại cho đại đệ tử là Huỳnh Hương Hoa), Kiến Anh đường (võ sư Từ Kiếm Minh), sau 1975 có thêm Hiệp Anh đường (võ sư Nguyễn Huệ Giai - học trò võ sư Diệp Quốc Lương phụ trách), Nam Cường đường (do võ sư Tăng Bỉ Đức - con trai sư ông Tăng Huệ Bác phụ trách), Việt Anh đường (võ sư Lý Dung Sanh), Lãnh Anh đường (võ sư Tăng Phật Linh), Toàn Thắng đường (võ sư Huỳnh An), Quốc Nghĩa đường (võ sư Nhậm Tường, Châu Chí Cường). Võ sư Diệp Quốc Lương qua đời năm 1978, nối nghiệp có bốn đại đệ tử là Trần Thiên Luân (đã mất), Khổng Thọ, Nhâm Phước Đường và Diêu Phước Dũng.


VL_ky12_%283%29.jpg

Cố võ sư Huỳnh Tân Tửu tại võ đường Thiếu Lâm Bạch Mi (Võ Trường Toản, Q5)

MÔN CÔNG PHU SỬ DỤNG “KÌNH”


Xuất phát từ “võ Phật” là Thiếu Lâm, võ phái Bạch Mi cũng giống như Côn Luân và Võ Đang (của đạo sĩ Trương Tam Phong) có cách thu nhận đệ tử rất nghiêm ngặt và hạn chế, hai trong 10 điều luật của Thiếu Lâm Bạch Mi là: “Hữu thân vô nghĩa bất khả giáo / Vô thân hữu nghĩa tắc khả truyền” tức là “Không truyền dạy cho bà con thân thuộc nếu họ kém đạo đức nhưng sẽ truyền dạy hết lòng cho người ngoài nếu họ có đạo nghĩa”.

Thiếu Lâm Bạch Mi là môn võ công nội gia quyền (thân thố phù trầm), đòn ngắn, thích hợp lối đánh nhập nội, đặc điểm sử dụng “kình” (nội lực phát ra từ trong cơ thể) vì thế rất ít nữ giới theo học. Vậy “kình” là gì? Theo võ sư Phùng Thiện Lương: “Môn sinh học Thiếu Lâm Bạch Mi cần phân biệt giữa Kình và Lực. Lực là hữu hình, khởi từ xương, truyền qua sống lưng vào vai mà phát ra. Kình là vô hình, khởi từ gân, truyền qua tứ chi mà phát ra. Lực vốn sẵn có và hiển lộ nên mang tính trực và hư vì vậy mới gọi chân lực là Trực lực hoặc Hư lực. Kình là một dạng lực thông qua rèn tập mà đạt tới nên ẩn tàng, mang tính hoành và thực, vì vậy Kình còn gọi là Hoành lực hoặc Thực lực”.


VL_ky12.jpg

Ông Khổng Thọ - một trong bốn đại đệ tử của cố võ sư Diệp Quốc Lương

Võ phái Bạch Mi thuộc Thiếu Lâm Nam phái, chuyên sử dụng đòn tay, xuất chiêu thần tốc, chớp nhoáng, nhắm vào yếu huyệt đối phương, dựa trên nền tảng đặc trưng là “mã hậu” và “kình lực”, lừng lẫy chốn võ lâm Sài Gòn - Chợ Lớn qua các bài quyền, cước và binh khí như Tứ mã liên hoàn, Cửu bộ thôi, Thập tự quyền, Mãnh hổ xuất lâm, Đại tam môn, Thập tự ưng trảo khấu đả quyền, Đinh cước, Xuyên tâm cước, Bão cước, Tứ môn thương, Thập tự côn, Bạch Mi thanh phong kiếm (20 thế), Thanh long đao, Hoàng đầu, Thập bát ma kiều...

(Còn tiếp)

 
Kỳ 13: SCANDAL CHẤN ĐỘNG LÀNG VÕ

Sau khi Báo CATP số ra ngày 20-3 đăng ký sự Võ lâm Sài Gòn - Chợ Lớn, bài Thiếu Lâm Bạch Mi, được biết hiện có một người trẻ tuổi tự xưng là chưởng môn phái Thiếu Lâm Bạch Mi. Nhằm xác minh danh xưng trên, PV đã gặp võ sư Huỳnh Chí Dân (chưởng môn phái Thiếu Lâm Chánh Tông Thái Lý Phật) - từng nhiều năm học Thiếu Lâm Bạch Mi và lão võ sư Khổng Thọ để làm rõ vấn đề.


vl_ky13_6.jpg

Đại lão võ sư Trương Lễ Tuyền (ngồi), chưởng môn đời thứ ba môn phái Thiếu Lâm Bạch Mi, được mệnh danh là “Đông Giang chi hổ”

KỲ NHÂN TRƯƠNG LỄ TUYỀN

Sư tổ Trương Lễ Tuyền (huyện Huệ Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc) là “võ thuật thế gia”, ông tổ là Trương Ngọc Đường làm phó tướng triều đình nhà Thanh. Từ nhỏ, Trương Lễ Tuyền đã ham mê võ thuật, từng theo thọ giáo các vị danh sư Lâm Thạch, Lý Tùng (Lý gia quyền), Lâm Hiệp (Lâm gia quyền) và Linh Hư đạo sĩ. Sau đó, ông bái Trúc Pháp Vân thiền sư làm thầy (sư phụ Trúc Pháp Vân thiền sư là Quảng Huệ đại sư. Quảng Huệ đại sư là đệ tử chân truyền của Bạch Mi đạo trưởng).

Được Trúc Pháp Vân thiền sư tận tâm truyền dạy những sở đắc bí truyền công phu nội gia Bạch Mi cộng thêm sự khổ luyện và tiếp thu nhanh, tổ sư Trương Lễ Tuyền đã đạt đến trình độ “cảnh giới siêu việt” của võ thuật. Sau nhiều năm tu học, tổ sư Trương Lễ Tuyền từ giã sư phụ trở về Quảng Đông, thâu nhận môn đồ giảng dạy và phát dương quảng đại môn phái Bạch Mi, được giới võ lâm tôn kính tặng danh hiệu “Đông Giang chi hổ” (con hổ xứ Giang Đông), người đời sau tôn ông là “vị tổ Bạch Mi của tục gia đệ tử”. Các đồ đệ nổi bật gồm ba người con là Trương Bình Lâm, Trương Bình Phát, Trương Bình Sâm, Lại Quý Đình, Huỳnh Thiệu Long, Tăng Huệ Bác, Khưu Nhơn Hòa...

Bốn vị sư huynh đệ đưa môn phái Bạch Mi sang Việt Nam gồm Lại Quý Đình, Huỳnh Thiệu Long, Tăng Huệ Bác, Khưu Nhơn Hòa (võ sư Khưu Nhơn Hòa không thâu đệ tử). Gồm ba chi nhánh: 1) Lại Quý Đình thâu các đệ tử là Huỳnh Hưng Hoa, Tất Diễn, Trần Lâm, Lê Dung Huy, Trần Khai, Thủy Dung. 2) Huỳnh Thiệu Long có các đệ tử là Huỳnh Hớn, Huỳnh Quý Nam, Huỳnh Quan Lâm, Chu Kim. 3) Tăng Huệ Bác có các đệ tử là Tăng Bỉ Đức (con trai), Diệp Quốc Lương, Lăng Doanh, Lý Cẩm Tường, Huỳnh Quốc Huy, Huỳnh Tô, Quan Hùng.


vl_ky13_7.jpg

Cố võ sư Diệp Quốc Lương (Trưởng đội lân Liên Thắng Đường) là đại đệ tử của sư ông Tăng Huệ Bác

SCANDAL CHẤN ĐỘNG LÀNG VÕ SÀI GÒN - CHỢ LỚN

Năm 1958, võ lâm trong cộng đồng người Hoa nói chung và vùng Chợ Lớn nói riêng bỗng đâu xuất hiện tin qua báo chí: “Võ sư Trần Tử Long thuộc phái Ưng Trảo công sẽ từ Hồng Kông qua Việt Nam khiêu chiến với võ sư Diệp Quốc Lương - môn phái Thiếu Lâm Bạch Mi, vùng Chợ Lớn”, còn có tin võ sư Trần Tử Long được mệnh danh là “con thần long thấy đầu mà không thấy đuôi”, nổi tiếng với tuyệt kỹ Ưng Trảo (môn công phu dùng 5 ngón tay xỉa vào tường làm vỡ gạch), tại Hồng Kông khi đấu với võ sĩ Ấn Độ, ông này đã dùng độc chiêu Ngũ chỉ long trảo bóp nát hộp sọ đối phương!

Đại sư Tăng Huệ Bác cấp tốc gọi điện xác minh về thân thế Trần Tử Long qua võ sư Quan Đức Hưng (diễn viên chuyên đóng vai Hoàng Phi Hồng) và ông Lưu Tram (đệ tử võ sư Lâm Thế Vinh), thì được trả lời: Ông Trần Tử Long là cao thủ Ưng Trảo công, sau khi đấu đài dẫn đến chết người đã rời Hồng Kông không rõ đi đâu, có người nói ông đi Nam Dương (Indonesia) hoặc đã sang Việt Nam.

Để đối phó, đại sư Tăng Huệ Bác cấp tốc ngày đêm truyền dạy những tuyệt kỹ, kinh nghiệm cho đệ tử Diệp Quốc Lương, đồng thời dặn dò: “Con phải ráng luyện tập để đấu trận này, con phải thắng vì danh dự môn phái và thầy trò mình!”. Võ sư Diệp Quốc Lương không phụ lòng thầy, nỗ lực rèn luyện không ngừng. Ngày thượng đài đã đến, võ đài lập tại sân Tao Đàn, thầy trò Tăng Huệ Bác - Diệp Quốc Lương đến điểm đấu từ rất sớm, tại đây đã có hàng ngàn khán giả háo hức chờ đợi cuộc thư hùng, rốt cuộc, chẳng thấy Trần võ sư xuất hiện, khán giả lỡ mua vé phản đối rần trời, buộc cảnh sát phải ra tay giải tán. Sau này mới biết cuộc thách đấu trên là do báo chí Sài Gòn dựng chuyện để bán báo, Trần Tử Long thứ thiệt thì biền biệt tăm hơi, báo chí Sài Gòn dựa vào ông Trần Tử Long - một người Hoa bán trái cây ngâm ở đường Bùi Hữu Nghĩa, Q5 (sau hành nghề Đông y cạnh sân Tinh Võ, Q5) nhằm tạo scandal để bán báo! Sau vụ việc này, Trần Tử Long “dỏm” bị đệ tử của Diệp Quốc Lương xử một trận no đòn vì dám cả gan thách thức môn phái. Võ sư Diệp Quốc Lương đào tạo các đệ tử nổi tiếng gồm Nhâm Phước Đường (Đậu Sị), Trần Thiên Luân (Hồ Tiêu), Diêu Phước Dũng, Khổng Thọ (Bánh Súc)...

Theo hệ phả, Thiếu Lâm Bạch Mi ở Việt Nam hiện nay chưa có danh xưng chưởng môn, chỉ có các vị trưởng lão, hiện một võ sư trẻ tên H.L.N.K tự xưng là chưởng môn Thiếu Lâm Bạch Mi là hoàn toàn bịa đặt, Bạch Mi truyền sang Việt Nam do công bốn vị sư huynh đệ tiền bối Lại Quý Đình, Huỳnh Thiệu Long, Tăng Huệ Bác, Khưu Nhơn Hòa, vì là đồng môn nên các vị đã nhất trí không dùng danh xưng chưởng môn mà lập ra một hội đồng trưởng lão, do các chi nhánh tiền bối hợp lại (chỉ có đại sư huynh hoặc thầy chỉ định) do đó từ trước đến nay môn phái Thiếu Lâm Bạch Mi không có danh xưng chưởng môn ở Việt Nam, nếu có chỉ là sự bịa đặt.
 
Ngày xưa đọc 5 Sài Gòn, cũng có nhiều những nhân vật, võ lâm như thế này.

Những người quan tâm sẽ thấy, nền võ học Việt Nam cũng rất bao la
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top