Hide Nguyễn
Du mục số
- Xu
- 1,943
Ngôn ngữ học hiện đại và Việt ngữ học
Bài trình bày khái quát sự phát triển của Việt ngữ học, với những đường hướng chính trước những ảnh hưởng của các lý thuyết ngôn ngữ học hiện đại qua các thời kỳ cấu trúc luận (khoảng trước 1990) và hậu cấu trúc luận (khoảng từ 1990 đến nay) trong hơn nửa thế kỷ vừa qua ở Việt Nam.
Nhìn một cách khái quát, Việt ngữ học phát triển trên cơ sở tiếp thu các lý thuyết ngôn ngữ học đại cương, với một hệ thống các quan điểm và khái niệm chủ yếu của các trường phái, khuynh hướng của ngôn ngữ học hiện đại một cách có chọn lọc, từ đó làm sáng tỏ và có những bổ sung nhất định cho các lý thuyết ngôn ngữ học đại cương trên cơ sở nghiên cứu những đặc thù của loại hình đơn lập của tiếng Việt và văn hóa Việt.
Như vậy, cùng với sự nhận thức lại đối tượng nghiên cứu, xem xét lại quan điểm phân biệt ngôn ngữ/ lời nói của F. de Saussure và sự chuyển hướng từ mục tiêu "miêu tả" đến mục tiêu "giải thích", ngôn ngữ học hiện đại đã có những bước tiến dài trên chặng đường lịch sử của mình.
Khái quát Việt ngữ học
Chúng tôi cho đó là một trong những lý do quan trọng đã làm thay đổi căn bản bộ mặt của ngôn ngữ học hiện đại, trong đó có Việt ngữ học trong những thập niên cuối của thế kỷ XX, thời kỳ hậu cấu trúc.
Có thể cho rằng đặc trưng của thời kỳ chủ nghĩa cấu trúc là việc mô hình hóa một cách "tĩnh" hệ thống các yếu tố ngôn ngữ thuộc các cấp độ ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp.
Thời kỳ này (khoảng những năm 60-80 thế kỷ trước), các nhà Việt ngữ học đã xây dựng (thông qua mô tả) các mô hình cấu trúc ngữ âm, từ vựng - ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Việt và cố gắng làm cho các mô hình này tương thích với thực tế tiếng Việt.
Ở thời kỳ hậu cấu trúc (khoảng những năm 90 thế kỷ XX đến nay), thì việc quan tâm đến bản thân cấu trúc - hệ thống "tĩnh" của các yếu tố ngôn ngữ lại xuống hàng thứ yếu, các nhà ngôn ngữ học thuộc các khuynh hướng ngôn ngữ học xã hội, ngôn ngữ học tâm lý, ngôn ngữ học tri nhận, ngôn ngữ học chức năng, ngữ dụng học... đã xem xét ngôn ngữ với tư cách là một cấu trúc - hệ thống "động".
Từ "tĩnh" sang "động"
Tức là, gần như họ coi những gì thuộc bản thân cấu trúc nội tại của ngôn ngữ khi hành chức có thể được xem xét từ các yếu tố bên ngoài của hệ thống, như các yếu tố thuộc về tâm lý - nhận thức, xã hội, văn hóa, các yếu tố thuộc về chủ thể sử dụng ngôn ngữ và bối cảnh giao tiếp.
Nhìn chung, các quan điểm và phương pháp ngôn ngữ học hiện đại đều được các nhà Việt ngữ học vận dụng vào nghiên cứu tiếng Việt.
Nhưng dường như Việt ngữ học không có xu hướng tiếp thu một cách triệt để một phương pháp, theo đuổi một hệ thống của một trường phái đến tận cùng.
Tình hình này được chúng tôi gọi là xu hướng 'triết chung" trong lý luận và phương pháp nghiên cứu của Việt ngữ học.
Điều đó thể hiện rõ ở phạm vi nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt.
Cả qui nạp lẫn suy diễn
Tình hình triết chung trong Việt ngữ học thể hiện rõ nhất ở cách tiếp cận đối tượng và phương pháp nghiên cứu, như việc kết hợp hướng nghiên cứu phương diện kết cấu và phương diện chức năng của các đơn vị ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, và cả trong việc sử dụng đồng thời phương pháp qui nạp và phương pháp suy diễn.
Điều đó đã dẫn đến một tình hình mới đối với sự phát triển trong nội tại của Việt ngữ học và một kết quả tất yếu là cần phải xem xét lại một cách hệ thống các lý thuyết thoát khỏi "cách nhìn châu Âu".
Vì vậy sẽ không ngạc nhiên khi Cao Xuân Hạo (mà Phan Ngọc gọi là "nhà ngôn ngữ học bẩm sinh") cùng với lý thuyết ngữ pháp chức năng và lý thuyết âm vị học phi tuyến tính, xuất hiện vào cuối thời kỳ của chủ nghĩa cấu trúc thịnh hành ờ Việt Nam, đầu những năm 90 của thế kỷ trước.
Mặc dù lý thuyết của Cao Xuân Hạo còn gây nhiều tranh luận bởi tính cực đoan của nó, nhưng suy cho cùng các trường phái ngôn ngữ học trên thế giới thường mang tính "cực đoan", bởi họ kế thừa nhau thì ít mà "đối lập" nhau thì nhiều.
Như nhận xét hiếm hoi của Ju. Apresan, "Thật hiếm hoi khi tìm kiếm một sự tương đồng của trường phái ngôn ngữ học hiện đại".
Vấn đề cấp thiết
Tình hình chung trong nghiên cứu Việt ngữ học từ khoảng những năm 50-60 của thế kỷ XX trở lại đây đặt ra khá nhiều vấn đề cần giải quyết, nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu Việt ngữ học phục vụ cho sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Dựa vào tình hình phát triển chung của ngôn ngữ học hiện đại trên thế giới và Việt ngữ học, tham khảo một số ý kiến, nhận xét đáng chú ý của các tác giả khác; bước đầu chúng tôi đưa ra một số vấn đề có tính cấp thiết trong việc nghiên cứu Việt ngữ học ở Việt Nam hiện nay.
a. Thời gian qua chúng ta bị chậm trễ trong việc tiếp cận lý thuyết mới của ngôn ngữ học hiện đại trên thế giới khoảng hai thập niên.
Khi ngôn ngữ học thế giới đã chuyển hướng sang việc nghiên cứu hoạt động lời nói, tức là xem xét lại quan điểm của F. de Saussure phân biệt rạch ròi ngôn ngữ / lời nói (khoảng những năm 70 của thế kỷ XX) thì Việt ngữ học ở Việt Nam vẫn đang "say mê" với cấu trúc luận.
Sắp tới, để nhanh chóng hòa nhập vào những xu hướng nghiên cứu mới, chúng ta cần chú ý đến khoa học nhận thức, về tâm lý học, đặc biệt là những lý thuyết giao tiếp cũng như việc ứng dụng công nghệ thông tin.
b. Cần chú ý đẩy mạnh hơn nữa việc nghiên cứu nhân chủng - ngôn ngữ học. Trong đó cần mở rộng hướng tìm kiếm tư liệu cũng như các phương tiện kỹ thuật hiện đại để nghiên cứu lịch sử tiếng Việt.
c. Một số ngành ngôn ngữ học ứng dụng như ngôn ngữ học xã hội - bệnh học, nhận dạng ký tự quang học, giao tiếp người - máy chưa được phát triển ở Việt Nam.
Toàn văn báo cáo khoa học "Ảnh hưởng và hiệu lực của các lý thuyết ngôn ngữ học hiện đại đến Việt ngữ học" đã được TS Nguyễn Huy Cẩn trình bày tại Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần 3, tổ chức trong các ngày 5-7.12.2008 tại Hà Nội.
Nguồn : BBC
Bài trình bày khái quát sự phát triển của Việt ngữ học, với những đường hướng chính trước những ảnh hưởng của các lý thuyết ngôn ngữ học hiện đại qua các thời kỳ cấu trúc luận (khoảng trước 1990) và hậu cấu trúc luận (khoảng từ 1990 đến nay) trong hơn nửa thế kỷ vừa qua ở Việt Nam.
Nhìn một cách khái quát, Việt ngữ học phát triển trên cơ sở tiếp thu các lý thuyết ngôn ngữ học đại cương, với một hệ thống các quan điểm và khái niệm chủ yếu của các trường phái, khuynh hướng của ngôn ngữ học hiện đại một cách có chọn lọc, từ đó làm sáng tỏ và có những bổ sung nhất định cho các lý thuyết ngôn ngữ học đại cương trên cơ sở nghiên cứu những đặc thù của loại hình đơn lập của tiếng Việt và văn hóa Việt.
Như vậy, cùng với sự nhận thức lại đối tượng nghiên cứu, xem xét lại quan điểm phân biệt ngôn ngữ/ lời nói của F. de Saussure và sự chuyển hướng từ mục tiêu "miêu tả" đến mục tiêu "giải thích", ngôn ngữ học hiện đại đã có những bước tiến dài trên chặng đường lịch sử của mình.
Khái quát Việt ngữ học
Chúng tôi cho đó là một trong những lý do quan trọng đã làm thay đổi căn bản bộ mặt của ngôn ngữ học hiện đại, trong đó có Việt ngữ học trong những thập niên cuối của thế kỷ XX, thời kỳ hậu cấu trúc.
Có thể cho rằng đặc trưng của thời kỳ chủ nghĩa cấu trúc là việc mô hình hóa một cách "tĩnh" hệ thống các yếu tố ngôn ngữ thuộc các cấp độ ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp.
Thời kỳ này (khoảng những năm 60-80 thế kỷ trước), các nhà Việt ngữ học đã xây dựng (thông qua mô tả) các mô hình cấu trúc ngữ âm, từ vựng - ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Việt và cố gắng làm cho các mô hình này tương thích với thực tế tiếng Việt.
Ở thời kỳ hậu cấu trúc (khoảng những năm 90 thế kỷ XX đến nay), thì việc quan tâm đến bản thân cấu trúc - hệ thống "tĩnh" của các yếu tố ngôn ngữ lại xuống hàng thứ yếu, các nhà ngôn ngữ học thuộc các khuynh hướng ngôn ngữ học xã hội, ngôn ngữ học tâm lý, ngôn ngữ học tri nhận, ngôn ngữ học chức năng, ngữ dụng học... đã xem xét ngôn ngữ với tư cách là một cấu trúc - hệ thống "động".
Từ "tĩnh" sang "động"
Tức là, gần như họ coi những gì thuộc bản thân cấu trúc nội tại của ngôn ngữ khi hành chức có thể được xem xét từ các yếu tố bên ngoài của hệ thống, như các yếu tố thuộc về tâm lý - nhận thức, xã hội, văn hóa, các yếu tố thuộc về chủ thể sử dụng ngôn ngữ và bối cảnh giao tiếp.
Nhìn chung, các quan điểm và phương pháp ngôn ngữ học hiện đại đều được các nhà Việt ngữ học vận dụng vào nghiên cứu tiếng Việt.
Nhưng dường như Việt ngữ học không có xu hướng tiếp thu một cách triệt để một phương pháp, theo đuổi một hệ thống của một trường phái đến tận cùng.
Tình hình này được chúng tôi gọi là xu hướng 'triết chung" trong lý luận và phương pháp nghiên cứu của Việt ngữ học.
Điều đó thể hiện rõ ở phạm vi nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt.
Cả qui nạp lẫn suy diễn
Tình hình triết chung trong Việt ngữ học thể hiện rõ nhất ở cách tiếp cận đối tượng và phương pháp nghiên cứu, như việc kết hợp hướng nghiên cứu phương diện kết cấu và phương diện chức năng của các đơn vị ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, và cả trong việc sử dụng đồng thời phương pháp qui nạp và phương pháp suy diễn.
Điều đó đã dẫn đến một tình hình mới đối với sự phát triển trong nội tại của Việt ngữ học và một kết quả tất yếu là cần phải xem xét lại một cách hệ thống các lý thuyết thoát khỏi "cách nhìn châu Âu".
Vì vậy sẽ không ngạc nhiên khi Cao Xuân Hạo (mà Phan Ngọc gọi là "nhà ngôn ngữ học bẩm sinh") cùng với lý thuyết ngữ pháp chức năng và lý thuyết âm vị học phi tuyến tính, xuất hiện vào cuối thời kỳ của chủ nghĩa cấu trúc thịnh hành ờ Việt Nam, đầu những năm 90 của thế kỷ trước.
Mặc dù lý thuyết của Cao Xuân Hạo còn gây nhiều tranh luận bởi tính cực đoan của nó, nhưng suy cho cùng các trường phái ngôn ngữ học trên thế giới thường mang tính "cực đoan", bởi họ kế thừa nhau thì ít mà "đối lập" nhau thì nhiều.
Như nhận xét hiếm hoi của Ju. Apresan, "Thật hiếm hoi khi tìm kiếm một sự tương đồng của trường phái ngôn ngữ học hiện đại".
Vấn đề cấp thiết
Tình hình chung trong nghiên cứu Việt ngữ học từ khoảng những năm 50-60 của thế kỷ XX trở lại đây đặt ra khá nhiều vấn đề cần giải quyết, nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu Việt ngữ học phục vụ cho sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Dựa vào tình hình phát triển chung của ngôn ngữ học hiện đại trên thế giới và Việt ngữ học, tham khảo một số ý kiến, nhận xét đáng chú ý của các tác giả khác; bước đầu chúng tôi đưa ra một số vấn đề có tính cấp thiết trong việc nghiên cứu Việt ngữ học ở Việt Nam hiện nay.
a. Thời gian qua chúng ta bị chậm trễ trong việc tiếp cận lý thuyết mới của ngôn ngữ học hiện đại trên thế giới khoảng hai thập niên.
Khi ngôn ngữ học thế giới đã chuyển hướng sang việc nghiên cứu hoạt động lời nói, tức là xem xét lại quan điểm của F. de Saussure phân biệt rạch ròi ngôn ngữ / lời nói (khoảng những năm 70 của thế kỷ XX) thì Việt ngữ học ở Việt Nam vẫn đang "say mê" với cấu trúc luận.
Sắp tới, để nhanh chóng hòa nhập vào những xu hướng nghiên cứu mới, chúng ta cần chú ý đến khoa học nhận thức, về tâm lý học, đặc biệt là những lý thuyết giao tiếp cũng như việc ứng dụng công nghệ thông tin.
b. Cần chú ý đẩy mạnh hơn nữa việc nghiên cứu nhân chủng - ngôn ngữ học. Trong đó cần mở rộng hướng tìm kiếm tư liệu cũng như các phương tiện kỹ thuật hiện đại để nghiên cứu lịch sử tiếng Việt.
c. Một số ngành ngôn ngữ học ứng dụng như ngôn ngữ học xã hội - bệnh học, nhận dạng ký tự quang học, giao tiếp người - máy chưa được phát triển ở Việt Nam.
Toàn văn báo cáo khoa học "Ảnh hưởng và hiệu lực của các lý thuyết ngôn ngữ học hiện đại đến Việt ngữ học" đã được TS Nguyễn Huy Cẩn trình bày tại Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần 3, tổ chức trong các ngày 5-7.12.2008 tại Hà Nội.
Nguồn : BBC