Về một xu hướng mới của từ điển giải thích

  • Thread starter Thread starter Butchi
  • Ngày gửi Ngày gửi

Butchi

VPP Sơn Ca
Xu
92
Về một xu hướng mới của từ điển giải thích (trên tư liệu từ điển giải thích tiếng Việt và một số từ điển tiếng Anh)

1. Giới thiệu

Từ điển học Việt Nam có một truyền thống dày dặn. Ðã có những công trình tổng kết khá đầy đủ cả về lí thuyết và thực hành [xin xem 5]. Trong bài viết này chúng tôi xin không thuật lại những vấn đề đã được nêu trong các công trình đã có mà chỉ muốn đi tiếp thêm một bước nhỏ: rút ra đôi điều chưa được đề cập đến trong các công trình có trước. Tuy nhiên, để dễ theo dõi, cũng không tránh khỏi phải nhắc lại một số điều đã nói.

Từ năm 1996, một số người tham gia biên soạn Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên) đã tổng kết một số vấn đề lí luận về từ điển trong tập "Một số vấn đề từ điển học"[xem 15]. Ở cuốn sách này, các tác giả tổng kết một số vấn đề về chuẩn ngôn ngữ trong Từ điển tiếng Việt, về cấu trúc vĩ mô của từ điển giải thích: các đơn vị trong bảng từ của từ điển giải thích, đặc biệt là việc xử lí các từ vay mượn gốc Âu – Mĩ, các thuật ngữ khoa học; về cấu trúc vi mô (gồm một mô hình cấu trúc vi mô tối đa cho từ điển một thứ tiếng với các yếu tố và cách tổ chức, cách liên kết các yếu tố), về các kiểu chú như phong cách, phạm vi sử dụng, chú từ loại; về lớp từ ngữ văn chương. Ðây là những vấn đề muôn thuở của từ điển, nhưng các tác giả đã nhìn nhận nó dưới ánh sáng của lí thuyết từ điển học và ngữ nghĩa học hiện đại.

Một số luận điểm chính được các tác giả rút ra là:

a) Nghĩa từ được giải thích trên cơ sở phân tích ngữ nghĩa, mà "... một sự phân tích ngữ nghĩa toàn diện không thể dừng lại ở bình diện hệ thống-cấu trúc, bình diện ngôn ngữ (hiểu theo nghĩa hẹp, đối lập với lời nói), tuy rằng sự phân tích này là một bước cực kì quan trọng, mà phải được tiến hành cả ở bình diện chức năng, bình diện sử dụng, lời nói" [x.10]. Trên cấp độ lời nói, cấu trúc ngữ nghĩa của lời là một cấu trúc nhiều tầng, gồm có tiền giả định, hiển ngôn, hàm ngôn; trong hàm ngôn có hàm ý và ngụ ý. Một cuốn từ điển tích cực phải giúp người dùng không những hiểu được từ ngữ mà còn vận dụng được chúng trong giao tiếp, thông báo, nhất là đối với người học tiếng Việt như một ngoại ngữ. Vì vậy, một cuốn từ điển tiếng Việt tốt cần phản ánh được những cấu trúc nhiều tầng của ngữ lưu trong bản thân các từ ngữ, như khả năng tổ hợp từ vựng, tiền giả định, hàm ý... Từ đó đi đến một cách miêu tả các đơn vị từ vựng theo kiểu động hơn. Từ điển học truyền thống coi các đơn vị từ điển là các đơn vị tách rời khỏi ngữ cảnh và "khô cứng", miêu tả nghĩa từ dưới dạng tĩnh và tách biệt. Vì vậy người dùng có thể đọc và hiểu được từng từ một cách thụ động. Ðiều này thể hiện ở chỗ các từ điển biên soạn theo lối cũ chỉ ra nghĩa từ nhưng không chỉ dẫn được cách sử dụng chúng trong ngữ lưu. Ngữ nghĩa học hiện đại miêu tả nghĩa từ ở trạng thái hành chức, tức là chú ý đến hoạt động của từ trong ngữ lưu. Vì vậy, khi miêu tả nghĩa từ, ngoài ý nghĩa, họ còn chú ý đến từ loại (phản ánh chức năng của từ trong câu), đến phạm vi sử dụng, sắc thái lịch sử, phong cách,... (phản ánh chức năng giao tiếp trong xã hội của từ ngữ),... Tức là từ điển giải thích không chỉ giải thích ý nghĩa từ vựng của từ mà còn phải tích hợp được các thông tin đa dạng về đơn vị đó. Có lẽ đây là một sự khác nhau về bản chất giữa cách giải nghĩa theo kinh nghiệm và cách giải nghĩa một cách khoa học và khách quan.

b) Phương pháp biên soạn từ điển mới thông qua việc giải thích nghĩa và cách dùng của từng từ ngữ để miêu tả được toàn bộ tính hệ thống của một ngôn ngữ. Nghĩa từ vựng được phân tích thành một cấu trúc bao gồm những nét nghĩa có quan hệ cấp bậc với nhau, và có khả năng hiện thực hoá trong những ngữ cảnh cụ thể. Từ đó có thể rút ra những mô hình khái quát về các loại cấu trúc nghĩa từ vựng trong tiếng Việt. Và các từ ngữ có cùng cấu trúc ngữ nghĩa được định nghĩa theo cùng một kiểu. Theo phương pháp này, người biên soạn từ điển làm việc trên cơ sở áp dụng các phương pháp ngôn ngữ học kết hợp với kiến thức chung về từ ngữ và hệ thống từ vựng của ngôn ngữ. Ðiều này đòi hỏi người biên soạn từ điển, ngoài tri thức bách khoa còn phải có tri thức ngôn ngữ học lí thuyết và thực hành về ngôn ngữ mà mình định miêu tả. Thực chất đây là cách tiếp cận các đơn vị từ vựng theo quan điểm hệ thống - một cách tiếp cận cơ bản của từ điển học hệ thống [x.15].

Theo Juri Apresjan, tức theo quan điểm của Từ điển học hệ thống, th× chỉ có thể có được cuốn từ điển tốt khi nó được biên soạn trên cơ sở một lí thuyết ngôn ngữ học tốt. Thực tế cho thấy, những phát triển về mặt lí thuyết gần đây đóng vai trò quan träng trong việc biên soạn từ điển. Theo ông, cho đến nay có bốn khuynh hướng trong lí thuyết ngôn ngữ học hiện đại có liên quan trực tiếp tới từ điển học hệ thống. Đó là:

  1. Việc tìm kiếm bức tranh (ngôn ngữ) ngây thơ về thế giới, hay là các khuôn khái niệm hoá nằm trong nghĩa từ vựng và ngữ pháp của từng ngôn ngữ nhất định.
  2. Bước đột phá vào đại phức hệ ngôn ngữ (linguistic macrocosm) được phản ánh vào việc chuyển hướng từ nghiên cứu các từ rời sang việc nghiên cứu các kiểu loại trong từ điển học cơ bản, chẳng hạn, một nhóm các từ vị có chung một hay nhiều thuộc tính, không nhất thiết là thuộc tính ngữ nghĩa, cùng chịu sự chi phối của các quy tắc ngôn ngữ nào đó thì chúng phải được miêu tả một cách nhất quán trong từ điển.
  3. Bước đột phá vào đại phức hệ ngôn ngữ được phản ánh vào việc chuyển sang 'chân dung từ điển học' - những nghiên cứu tỉ mỉ về tất cả các khía cạnh ngôn ngữ học có liên quan tới nghĩa của từ rời.
  4. Sự đồng quy (convergence) trong các nghiên cứu ngữ pháp học và từ vựng học đã dẫn tới lí thuyết miêu tả ngôn ngữ theo hướng thống nhất và tích hợp [x.17].
Những kết quả nghiên cứu trên được áp dụng một phần vào việc biên soạn cuốn Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên). Có thể cuốn từ điển được biên soạn theo phương pháp phân tích ngữ nghĩa có thể chưa phản ánh hết những ý đồ lí thuyết của các tác giả, nhưng nó đã mở đầu cho một giai đoạn mới, nó đã là nhịp cầu nối lí thuyết về từ điển với việc thực hành biên soạn từ điển ở nước ta.

Những vấn đề này, đến nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam chưa có lí thuyết nào phủ nhận và thay thế. Tuy nhiên sau gần hai thập kỉ, về lí thuyết và thực tiễn từ điển học ở Việt Nam đã có những thay đổi, những bước tiến đáng kể.

Ở thời điểm trước năm 2000(1), chúng tôi đã nêu mấy đặc điểm cơ bản của sự phát triển của từ điển học qua từ điển giải thích trong thế kỉ XX là:

Theo thời gian, tri thức ngôn ngữ học ngày càng được phản ánh vào từ điển. Nói cách khác, từ điển giải thích phản ánh sự phát triển của ngành ngôn ngữ học, các từ điển đã được biên soạn theo phương pháp ngôn ngữ học:

a) Từ điển đã vận dụng những vấn đề của lí thuyết ngôn ngữ học nói chung và từ điển học hiện đại nói riêng vào việc biên soạn từ điển. Ðó là cách phân tích nghĩa từ dưới góc độ dụng học, văn hoá học, là cách lập bảng từ và định nghĩa phản ánh được tính hệ thống của từ vựng, là việc ghi chú từ loại, các kiểu chú phong cách, phạm vi sử dụng cũng như sự phát triển của nghĩa từ, là cách xử lí từ đa nghĩa, cách phân biệt từ đồng âm và từ đa nghĩa. Và nhờ vậy, cấu trúc vi mô của từ điển giải thích ngày càng phong phú, đa dạng hơn.

b) Ngôn ngữ dùng để giải nghĩa trong các TÐ giải thích ngày càng khắc phục được những nhược điểm trước đây như: chưa được chuẩn hoá, còn dùng quá nhiều từ ngữ địa phương, từ ngữ khẩu ngữ, từ ngữ Hán,... Xu hướng ngày càng coi trọng vai trò của tư liệu thực tế trong việc lựa chọn, giải thích từ ngữ, đưa ví dụ [x. Lời nói đầu của 17]. Chẳng hạn, Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) được biên soạn trên khoảng 3 triệu phiếu tư liệu lựa chọn trích dẫn từ sách báo của các thời kì lịch sử khác nhau, được thu thập trong hơn 20 năm; việc sửa chữa và bổ sung (năm 2000) được tiến hành trên cơ sở hơn 32 nghìn phiếu trích dẫn từ sách báo trong khoảng mươi năm trở lại đây. Cuốn từ điển từ mới tiếng Việt [x.13] được biên soạn dựa trên khoảng hơn 40.000 ngữ cảnh phản ánh sự xuất hiện và hoạt dộng của các từ ngữ được coi là mới trong giai đoạn 1986–2000. Bởi vì càng có số lượng dữ liệu lớn, đa dạng, phong phú, từ điển càng khắc phục được nhược điểm "kinh niên" của mình là thường lạc hậu hơn đời sống thực có của vốn từ vựng của một ngôn ngữ.
Dù do cá nhân hay tập thể tác giả biên soạn, được xuất bản ở vùng phương ngữ nào, các từ điển giải thích tiếng Việt giai đoạn những năm cuối thế kỉ XX đều phản ánh được vốn từ ngữ văn hoá chung, cơ bản của tiếng Việt. Sự chênh lệch vốn từ của các từ điển giải thích cùng cỡ là tất yếu, nhưng vốn từ chung vẫn chiếm số lượng lớn.

Có thể thấy qua bảng so sánh số lượng mục từ chung (không tính đến các từ đồng âm):


Hoàng Phê (2000)|Ðại Từ điển tiếng Việt(1997, Miền Bắc)|Nguyễn Lân|(2002, Miền Bắc)|Lê Văn Ðức|Từ điển Viện Ngôn ngữ học|(2003, Miền Bắc) (1970, Miền Nam)
---|32.324|29.538|22.739|31.072
Qua những đặc điểm này có thể thấy, từ điển học Việt Nam đã phát triển đúng hướng và theo kịp những trào lưu lí thuyết hiện đại trong lĩnh vực này.
Ðến nay, những đặc điểm nói trên vẫn đúng nhưng chưa đủ.
_______________
(1) Thời điểm mà chúng tôi thu thập và xử lí tư liệu cho bài viết Giới thiệu sơ lược về lịch sử từ điển và từ điển học Việt Nam [x.4].
 
2. Những điểm mới của từ điển học tiếng Việt hiện nay

2.1.Một trong những đặc điểm nổi bật của từ điển học của thế kỉ XXI mà Zgusta nêu ra là vai trò đặc biệt của máy tính [x.3]. Quả thực, ngay từ những năm đầu của thế kỉ XXI, do sự phát triển vượt bậc của kĩ thuật máy tính nên việc làm từ điển được hỗ trợ rất nhiều. Chúng tôi nói "hỗ trợ" bởi không phải có máy tính là có tất cả. Thực ra, công sức mà con người phải bỏ ra để có được những sự hỗ trợ trên máy tính cũng không nhỏ, nhưng đây là công việc có thể mở rộng cho nhiều người cùng làm. Và lợi ích của máy tính trong công tác từ điển thì không ai nghĩ đến chuyện phủ nhận. Một nhận xét có tính phổ biến là "Từ điển giải thích, phần lớn là do các viện Hàn lâm quốc gia và các hội nghiên cứu ngữ văn có tính chất quốc gia biên soạn" [2; tr.258]. Với ba đặc điểm trên thì nhận xét này là hệ quả tất yếu. Xu hướng này sẽ ngày càng được khẳng định. Ðược biết, Viện Ngôn ngữ học thuộc Viện khoa học xã hội Việt Nam đã hoàn thành một chương trình lớn nhằm xây dựng luận cứ khoa học cho việc biên soạn một bộ từ điển giải thích tiếng Việt cỡ lớn. Việc đầu tiên là xây dựng luận cứ khoa học cho nó. Ðó là đưa ra những định hướng về cấu trúc vĩ mô, cấu trúc vi mô và xây dựng thử nghiệm một Ngân hàng dữ liệu tiếng Việt bằng phương tiện hiện đại. Ðiều này cũng đồng thời khẳng định phương pháp của xu hướng TÐ học đã hình thành ở nước ta giai đoạn vừa qua là phù hợp với những khuynh hướng chung của từ điển học hiện đại. Ðó là việc nhấn mạnh phương pháp làm từ điển, nhấn mạnh vai trò quyết định của tư liệu đối với từ điển và coi việc làm từ điển là công việc mang tính "sản xuất công nghiệp".
Theo các tác giả cuốn Corpus Linguistics [x. 8] thì những điều thuận lợi mà máy tính có thể giúp cho việc biên soạn từ điển là: Một kho ngữ liệu lớn, tính đại diện cao và một công cụ phân tích hoàn chỉnh. Trong đó vai trò của kho ngữ liệu đặc biệt quan trọng. Cũng theo tác giả trên [tr. F17-18], một kho ngữ liệu có thể giúp người làm từ điển giải quyết 6 vấn đề lớn là:

  1. Quyết định nghĩa của từ dựa vào tình hình sử dụng trong đa số các ngữ cảnh tự nhiên của nó.
  2. Lập bảng từ thông dụng và ít dùng dựa vào tần suất của nó.
  3. Tìm hiểu các đặc trưng ngữ dụng trong các loại hình ngôn ngữ dựa vào các liên kết phi ngôn ngữ của chúng (như ngữ vực, giai đoạn lịch sử, phương ngữ,...).
  4. Quyết định sự kết hợp của mục từ và sự phân bố của chúng trong các ngữ vực.
  5. Quyết định các nghĩa của một mục từ nhất định và sự phân bố cách dùng của nó.
  6. Quyết định cách dùng và sự phân bố của từ đồng nghĩa, qua đó tìm hiểu ngữ cảnh của sự lựa chọn nghĩa từ và mối liên hệ của kết hợp từ với ngữ vực. [x.7, tr.F17-18]
Những tiện ích này của kho ngữ liệu là tiền đề cho việc phân tích nghĩa từ và xử lí chúng trong từ điển giải thích. Và chất lượng từ điển nhờ thế mà được nâng lên rõ rệt.
2.2. Có một thực tế là các TÐ ngày càng có cấu trúc vi mô phong phú hơn. Không chỉ dừng ở đó, những năm cuối thế kỉ XX, một loạt các từ điển đa thông tin ra đời, đến đầu thế kỉ XXI xu hướng này ngày càng mạnh và càng rõ rệt.
Chẳng hạn, chỉ nói về các từ điển tiếng Việt, từ năm 1977, ở Pháp đã xuất bản cuốn Từ điển tiếng Việt (Dictionnaire Vietnamien Frasncais), Lasiathèque, Pari 1977, 1669 tr., một cuốn từ điển giải thích tiếng Việt, nhưng lại có chú tiếng Pháp ở cuối mục từ [theo Vũ Quang Hào, 5, tr.632], nhằm đến đối tượng là người Việt ở Pháp hoặc người Pháp gốc Việt.
Tương tự, năm 1995,Nhà xuất bản Giáo dục in cuốn Từ điển tiếng Việt thông dụng [Nguyễn Như Ý (chủ biên), Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành], mỗi mục từ đều chua tiếng Anh.
Ở hai cuốn này, cấu trúc vi mô có phần giải thích là cơ bản, phần đối dịch là thứ yếu vì nó rất đơn giản, chỉ đưa ở nghĩa cơ bản (của từ đa nghĩa).
Từ điển trái nghĩa - đồng nghĩa tiếng Việt của Dương Kỳ Ðức và Vũ Quang Hào (Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1992)trên cơ sở từ điển trái nghĩa cũng của Nhà xuất bản (1986), do vậy phần trái nghĩa là chính, chỉ đưa các dãy từ đồng nghĩa mà không phân biệt sự khác nhau giữa các từ trong dãy.
Ðáng chú ý hơn cả là Từ điển Anh - Việt, 1996 (của nhóm Hồ Hải Thuỵ, Chu Khắc Thuật và Cao Xuân Phổ, Nxb Tp. Hồ Chí Minh) được soạn bằng cách "...sử dụng một cuốn từ điển Anh - Anh đáng tin cậy để dịch các định nghĩa sang tiếng Việt" [7; trang bìa]. Trong cuốn từ điển này, ngoài những thông tin thông thường của một cuốn từ điển song ngữ, còn có thông tin về các sắc thái ý nghĩa theo các phong cách khác nhau của từ trong tiếng Anh và tiếng Việt, ngoài những từ ngữ tương đương còn có phần giải thích nghĩa bằng tiếng Việt. Có thể nói đây là một cuốn từ điển hỗn hợp đối dịch - giải thích. Trong đó, phần đối dịch được chú trọng hơn phần giải thích.
Năm 1997, Ðại từ điển Tiếng Việt, một cuốn từ điển giải thích tiếng Việt đã chú nguyên dạng gốc các từ vay mượn (mà không phải là gốc Hán) [x.9]. Tuy cách xử lí còn rất nhiều sai sót, thiếu nhất quán, nhưng việc đưa thêm thông tin về nguồn gốc vẫn được coi là một điểm mới, tích cực.
Từ điển tường giải và liên tưởng tiếng Việt của Nguyễn Văn Ðạm [Nxb Văn hoá thông tin, 1999 (lời nói đầu viết năm 1993)] đưa đồng và trái nghĩa cùng với những nghĩa phái sinh của từ đầu mục. Các mối liên tưởng về từ ngữ không được tập trung vào cuối mục từ mà phân tán vào những ví dụ hoặc vào một số định nghĩa. Từ điển mang tính chất tường giải và liên tưởng, giúp người tra cứu: khi biết từ tìm ra nghĩa và từ nghĩa phái sinh tìm ra từ [Vũ Quang Hào, 655].
Ví dụ:
sít2 pht. Sát ngay bên cạnh; rất gần nhau. Kê tủ sít bàn (đngh. Giáp). Cấy sít (đngh. Dày, Mau; trngh. Thưa).
so1 tt. Nói lượt đẻ đầu tiên. Con so (đối với [con] rạ). Trứng gà so.
son1 dt. 1 Thứ đá đỏ. 2 Chất lỏng màu đỏ dùng để sơn gỗ. Sơn son thếp vàng. 3 Sáp màu đỏ dùng để bôi môi. Ðánh môi son. son phấn: đồ trang điểm mặt của phụ nữ. (Sau đó không có mục từ son phấnđứng riêng).
Năm 2002, Từ điển tiếng Việt phổ thông [x.12], đưa đồng, trái nghĩa sau mỗi nghĩa từ; đưa ví dụ nguyên văn là ca dao, tục ngữ, Kiều. Ðây là cuốn từ điển giải thích tiếng Việt cỡ nhỏ (khoảng 24.000 mục từ), nhưng là cuốn từ điển đầu tiên đưa các từ đồng trái nghĩa cho từng nghĩa. Ðồng nghĩa và trái nghĩa là vấn đề của nghĩa trong các từ đa nghĩa chứ không phải của cả từ, vì vậy việc đưa các từ đồng nghĩa và trái nghĩa cho từng nghĩa của từ không chỉ giúp người dùng định hướng các mối liên hệ ngữ nghĩa trong hệ thống mà còn giúp làm rõ từng nghĩa trong từ đa nghĩa. Ví dụ:
lành tt. 1. Ở trạng thái còn nguyên không bị sứt mẻ, rách hoặc thương tổn. Bát lành. Lá lành đùm lá rách (tng.). Lợn lành chữa thành lợn què (tng.). Mặc lành (quần áo lành). "Bây giờ gương vỡ lại lành..." Nguyễn Du. /tn: rách, mẻ, sứt 2. Không có khả năng làm hại đến người, vật khác, không có tác dụng mang lại tai hoạ. Lành như cục đất. Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa. ở hiền gặp lành (tng.). /đn: hiền /tn: dữ 3. Không có khả năng làm hại đến sức khoẻ. Khí hậu lành. Thức ăn lành. /tn: độc 4. Có khả năng mau khỏi khi bị bệnh. Da lành nên vết thương chóng khỏi. Máu lành. /tn: dữ, độc Từ điển từ mới tiếng Việt [x.13] chỉ với dung lượng khoảng 2.500 mục từ được coi là mới trong giai đoạn 1985-2000 cũng chú nguyên dạng gốc các từ vay mượn Âu – Mĩ.
Năm 2004:
Từ điển từ và ý tiếng Việt (Hồ Ðắc Quang, Nxb Từ điển Bách khoa, 1045 tr.) [Vũ Quang Hào, 654].
Từ điển tiếng Việt (Bùi Ðức Tịnh, Nxb Văn hoá Thông tin, H., 2004, 10x16, 1366 tr.), sau mỗi mục từ đều chua Nôm hay Hán Việt, chú nguồn gốc và từ loại, cách phát âm khác [Vũ Quang Hào, 631].
Từ điển từ và ngữ của Nguyễn Lân là từ điển giải thích, có đưa các gốc Hán Việt, không chỉ đơn giản chú nguồn gốc mà còn đưa lời giải nghĩa các gốc Hán Việt. Dù còn nhiều sai sót nhưng đây là một việc làm rất có ích cho người dùng.
Từ điển Việt Nga cỡ lớn đã chú nguyên dạng các từ ngữ gốc Âu – Mĩ, dự định chú gốc Hán Việt, hiện nay đã đưa một số ở các vần đầu (bản thảo ABC).
Từ điển tiếng Việt cỡ vừa của Viện Ngôn ngữ học, 2003 (chưa xuất bản) đưa nguồn gốc từ của các từ Hán Việt và từ gốc Âu – Mĩ, cung cấp từ đồng nghĩa trái nghĩa đến các nghĩa từ, đưa ví dụ ca dao, Kiều.
Thực tế, có thể một số cuốn thực hiện việc tích hợp thông tin chưa tốt, nhưng ý đồ của các tác giả thì đã rõ.
Ngoài ra, có một cuốn từ điển mạnh bạo hơn: Từ điển tiếng Huế với phụ đề tiếng Huế, người Huế, văn hoá Huế [x. 11].
Ngoài giải nghĩa từ còn chua thêm những chi tiết về lịch sử, văn học, kĩ thuật và dân tộc, những sự biến âm....
TÐ tiếng Huế phá vỡ tính truyền thống về loại của từ điển theo cách phân loại thông thường:

  • Bảng từ gồm cả tên riêng: cồn hến, cồn dã viên, đường bộ tham bộ thị, hậu hồ;
  • Các thông tin được tổ chức vừa theo kiểu ngữ văn, vừa theo kiểu bách khoa (công sứ, công quán, chả tôm Huế, làm dâu) lại như từ nguyên (chả bông bí, chả nghêu), lò sát sinh (hỗn hợp cả bách khoa, cả lịch sử);
  • Các đơn vị từ điển không bị đánh dấu bằng bất cứ tri thức ngôn ngữ học nào. Hay như Hồ Hải Thuỵ là sự xoá bỏ ranh giới đồng âm - đa nghĩa, vì sự tiện lợi (hình thức hoá triệt để) của người dùng [x. 6, tr.73]. Các mục từ không chú từ loại, phong cách.
Ví dụ, từ dẹp 1. bỏ qua một bên, đừng nói đến nữa (Lời nói tức khí) (Chuyện đó dẹp!) 2.tức cái dẹp, là dụng cụ bằng tre như cái chuồng để chĩa xuống để đơm cá 3. bẹp, lép (Lúa dẹp).
Tuy đã được xử lí như một nghĩa trong từ dẹp như trên, nhưng tiếp đó vẫn có mục từ nữa: dẹp (cái dẹp) là cái đó, cái đơm, cái lờ.
Ngôn ngữ miêu tả là ngôn ngữ tự nhiên nhất, thậm chí trong nhiều mục từ nó còn mang phong cách khẩu ngữ. Và đặc biệt nó mang đậm phong cách phương ngữ, phong cách cá nhân. Ví dụ mục từ chưởi theo lối Huế: người Huế thường chưởi dông chưởi dài, có câu có kéo, nói giọng bình thản như kể chuyện nhưng rất đau điếng, thấm thía cho người nghe vì không những chính mình bị làm nhục với lời lẽ hàm hồ, hỗn xược, tục tĩu mà ông bà còn bị người ta lôi ra để lên đặt xuống, coi không ra gì, thật là bất hiếu [những chỗ in đậm là chúng tôi nhấn mạnh]. Ðây thực sự là một cách xử lí không chuyên nghiệp. Nhưng Từ điển tiếng Huế vẫn được đánh giá cao vì mục đích, vì tính tiện dùng, vì nó có một mục tiêu rõ ràng và một đối tượng xác định: những người Việt xa quê hương. Giá trị nhân văn làm nên giá trị chính của cuốn này. Bất chấp các nguyên tắc từ điển học, Từ điển tiếng Huế của Bùi Ðức Minh đã tạo được chỗ đứng riêng, vì nó khắc phục được nhược điểm muôn thuở của từ điển là cái cần tìm thì không có. Trong Từ điển tiếng Huế, người xa xứ có thể tìm được tất cả những gì liên quan đến quê hương, dưới dạng dân dã và gần gũi nhất.
Vì vậy, một cuốn từ điển từ ngữ địa phương vùng Huế ra sau, rất nghiêm túc với cấu trúc chặt chẽ và khoa học thì lại chưa tìm được lối ra.
Qua các từ điển được nêu trên, có thể thấy ở Việt Nam, xu hướng tích hợp thông tin trong các từ điển giải thích đã tạo nên một loại các từ điển đa thông tin.
Tích hợp thông tin tức là đưa các thông tin một cách có chủ ý, có tổ chức để làm thành một cuốn từ điển có cấu trúc rõ ràng và nhất quán. Việc làm này khác hẳn với việc cóp nhặt, xào xáo và pha trộn các cuốn từ điển giải thích và từ điển chuyên ngành để cho ra một cuốn từ điển kém chất lượng. Những cuốn từ điển loại này thường hoặc không có gì mới, vô thưởng vô phạt, hoặc được tập hợp một cách thô thiển từ những cuốn từ điển tiếng Việt đã có.
Ví dụ, Từ điển tiếng Việt của nhóm NEW ERA [Nxb Văn hoá Thông tin, 2005]. Một cuốn từ điển có quy mô lớn: gần 2.200 trang khổ 16x24 cm, nhưng không có thể lệ, nguyên tắc biên soạn, lời nói đầu chỉ có 01 trang và kèm theo 01 trang các kí hiệu viết tắt. Mở ngay trang đầu đã thấy sự chắp nhặt, ví dụ, từ a đầu tiên trong 8 từ a đồng âm đưa ra 8 nghĩa:

  1. Từ đầu câu ...a! mai được nghỉ học.
  2. Tiếng Việt đặt cuối câu ...đông dữ a!
  3. Từ đặt cuối câu để hỏi ... thế a?
  4. Dụng cụ dân quê dùng để cắt rạ.
  5. Gom lại vun thành đống.
  6. Sấn vào, xông vào.
  7. Nói kéo dài giọng. a hết cả ngày mà không thuộc bài.
  8. Nói không nghe rõ ý. Nói ấm a ấm ớ.
Các từ đồng âm tiếp theo là:

  1. Theo hùa, theo bè cánh.
  2. 1 người đàn bà lớn tuổi. 2 Cái gò.
  3. Tiếng dùng để phiên âm các từ ngoại ngữ đồng âm.
  4. Ði đại tiện.
  5. 1 Dụng cụ làm bằng một cái gậy ... 2 Người hầu gái có tóc kết...
  6. ... Con quạ.
  7. (Pháp Are) đơn vị chỉ 100 mét vuông.
Cuốn từ điển này nhặt nhạnh, gom góp tất cả những gì có trong các cuốn từ điển tiếng Việt khác nhau và đổ chúng vào một chỗ một cách thô thiển, không cần biết nó là gì, chỗ của nó ở đâu.
Có lẽ chỉ qua một từ và một dãy từ đồng âm trên, chúng ta cũng không cần nói gì thêm.
 
3. Từ điển học tiếng Anh

Trong phần này chúng tôi sẽ khảo sát một số cuốn từ điển giải thích tiếng Anh để thấy được các khuynh hướng của từ điển học hệ thống đã được phản ánh vào trong việc biên soạn từ điển thế nào. Cụ thể là chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát chủ yếu trên hai cuốn từ điển đại diện cho hai kiểu loại từ điển hiện nay: từ điển giải thích đơn ngữ dành cho người bản ngữ được đánh giá cao là cuốn Oxford English Dictionary(1) (OED) và từ điển đơn ngữ dành cho người học tiếng Anh như một ngoại ngữ là cuốn Oxford Advanced Learner's Dictionary of Current English (OALD). Tuy nhiên, trong khi trình bày về từng cuốn từ điển chúng tôi cũng đưa thêm dẫn chứng trong một số từ điển cùng loại khác(2).

Tư liệu dùng để viết phần này chủ yếu được chúng tôi tham khảo qua bản OED3 trực tuyến. Bản OED trực tuyến là phiên bản hợp nhất giữa OED2 và OED3. Cấu trúc vi mô và cấu trúc vĩ mô (vốn do A. H. Murray, chủ biên OED1, thiết kế) của OED3 trực tuyến cũng giống như trong các ấn phẩm từ điển ít nhiều được giữ lại theo hình thức của từ điển học truyền thống, nhưng cấu trúc vi mô rất phong phú. Lợi dụng ưu thế của công nghệ thông tin,người dùng nếu muốn vẫn có thể cho ẩn hoặc cho hiện các chức năng phát âm, đánh vần, từ nguyên,trích dẫn để màn hình thoáng hơn. Một chức năng tuỳ chọn bổ sung là biểu đồ thời gian (datechart) biểu diễn sự phân bố ngữ cảnh trích dẫn dưới dạng biểu đồ để độc giả có thể nhận ra ngay thời gian tư liệu được trích dẫn.

OED bao chứa đầy đủ từ ngữ của tất cả các nước nói tiếng Anh, từ Bắc Mĩ tới Nam Phi, từ Australia và New Zealand tới vùng Caribbe. Từ điển cũng trình bày rõ ràng sự phân tích từ nguyên học cũng như các biến thể phát âm được ghi theo bảng phiên âm quốc tế (IPA). Các từ điển tiếng Anh hiện hành chỉ có các nghĩa hiện tại được trình bày, và trong hầu hết các từ điển đó các nghĩa thông dụng được miêu tả đầu tiên. Trong khi đó, do là một cuốn từ điển mang tính tích hợp, OED trình bày nhóm nghĩa được ghi nhËntheo trật tự thời gian dựa vào ngữ liệu dẫn chứng. Chẳng hạn nghĩa của các dẫn liệu sớm hơn sẽ được trình bày trước, và các nghĩa mới xuất hiện sau này sẽ được trình bày ở phía sau của mục từ. Đối với mục từ phức tạp thì quá trình phát triển được trình bày theo cấu trúc có nhiều nhánh khác nhau.

Thông tin cho mỗi mục từ ở OED được xử lí rất kĩ càng. Ngoài các thông tin thường gặp trong cấu trúc vi mô của các cuốn từ điển thông thường, chúng tôi thấy OED3 còn có một số thông tin đặc biệt như từ nguyên, thời gian xuất hiện, ngữ cảnh trích dẫn, phần phụ chú,… Do lượng thông tin lớn như vậy nên phần giải thích của mỗi mục từ thường có dung lượng từ vài trang A4 đến vài chục trang A4. Dưới đây chúng tôi trích dẫn phần từ nguyên(3) của mục từ water:[Com. Teut.: OE. wæter neut. corresponds to OFris. watar, watir, weter, etc., OS. watar (MLG., LG., Du. water) (...)[1]Trong các từ điển khác, thông tin từ nguyên cũng được quan tâm thích đáng, mặc dù, về mặt qui mô, chúng không được lớn như OED. Dưới đây là một vài ví dụ cho thông tin từ nguyên được tích hợp trong từ điển giải thích thông dụng.
lavish late Middle English (as a noun denoting profusion): from Old French lavasse 'deluge rain', from laver 'to wash', from Latin lavare. (trong NODE)
fatigue mid 17th cent. (in the sense 'task or duty that causes weariness'): from French fatigue (noun), fatiguer (verb), from Latin fatigare 'tire out', from ad fatim, affatim 'to satiety or surfeit, to bursing'. (trong NODE)plankton C19: via German from Greek planktos wandering, from plazesthai to roam (trong CED) (...)[2]Một trong những nét làm cho OED khác hẳn so với các cuốn từ điển giải thích khác, và cũng chính là đặc trưng người ta gọi nó là từ điển mang tính lịch sử, là thông tin thời gian của văn liệu dùng làm ngữ cảnh trích dẫn. Trong phần định nghĩa (cả phần thông tin giải thích phổ thông lẫn phần thông tin bách khoa) thường có biểu đồ thời gian đi kèm. Có thể thấy rõ đặc điểm này qua một vài nghĩa giải thích trích trong mục từ water trong OED.I. The liquid of which seas, lakes, and rivers are composed, and which falls as rain and issues from springs. When pure, it is transparent, colourless (except as seen in large quantity, when it has a blue tint), tasteless, and inodorous.
Popular language recognizes kinds of 'water' that have not all these negative properties; but (even apart from any scientific knowledge) it has usually been more or less clearly understood that these are really mixtures of water with other substances (...)II. 15. The substance of which the liquid 'water' is one form among several; now known to be a chemical compound of two volumes of hydrogen and one of oxygen (formula H2O); in ancient speculation regarded as one of the four, and in pre-scientific chemistry as one of the five elements of which all bodies are composed. (...)[3]Trên đây chúng tôi đã khảo sát và trình bày những kết quả của lí thuyết từ điển học hiện đại phản ánh vào thực hành từ điển đơn ngữ dành cho người bản ngữ. Bên cạnh những cuốn từ điển như trên, chúng ta còn nên nhắc tới một loại từ điển khác là từ điển đơn ngữ dành cho người học tiếng. Đây là "một nhánh lí thú và cách tân nhất của từ điển học Anh trong vòng một phần tư thế kỉ qua và hơn nữa nó đã khởi động cho sự phát triển của từ điển đơn ngữ dành cho người học tiếng, đồng thời, tạo ra sự nở rộ của ngành công nghiệp dạy tiếng Anh như một ngoại ngữ" (Jackson, 2002: 69). Có thể coi "cuộc cách mạng" này bắt đầu từ khi cuốn Advanced Learner's Dictionary của A. S. Hornby xuất bản năm 1948(4).

OALD đã đáp ứng được nhu cầu tạo mã và giải mã của phần đông người học tiếng Anh trình độ từ trung đến cao cấp. Thông tin trong cấu trúc vi mô của mục từ ngoài những thành phần thường gặp trong các từ điển đơn ngữ khác như đầu mục từ, phiên âm (có thể có cả phiên âm cách đọc tiếng Anh Mĩ, nếu có), chú từ loại, … chúng ta còn thấy khá nhiều thông tin ngôn ngữ học như nguyên tắc kết hợp (dựa theo ngữ trị của từ đầu mục), thông tin giúp độc giả tăng vốn từ và khả năng tạo sản ngôn ngữ.

Về nguyên tắc kết hợp, ví dụ như động từ give, ở trước lời giải thích nghĩa có các khuôn kết hợp có thể như ~ sth to sb / ~ sb sth (đưa cái gì cho ai/ đưa cho ai cái gì), và hàng loạt các khuôn kết cấu được đưa vào như những tiểu mục từ của từ mục give, ví dụ give off sth (toả ra hương thơm/ ánh sáng/ hơi ấm, bốc lên mùi khó chịu),...

Các thông tin đa dạng giúp độc giả tăng vốn từ và khả năng tạo sản ngôn ngữ được tích hợp dưới dạng nhóm từ (word family). Chẳng hạn trong mục từ stable (vững chắc, ổn định, bền), ngoài các phần đồng nghĩa và trái nghĩa, phần nhóm từ còn đưa ra các từ có liên quan tới từ đầu mục như stable adj (≠ unstable), stability n. (≠ unstability), stabilize v.v. Hay trong mục từ statement (tuyên bố) có giải thích sự khác nhau và giống nhau giữa các từ đồng nghĩa comment (bình luận), announcement (thông cáo), remark (bình luận, nhận xét), declaration (tuyên ngôn), observation (lời bình phẩm). Trong mục từ each (mỗi) có phần điểm ngữ pháp (grammar point) cung cấp thông tin kết cấu cú pháp của hai từ eachevery.

Có thể minh hoạ thêm cho xu hướng tích hợp thông tin trong từ điển đơn ngữ dành cho người học tiếng bằng động từ involve (gồm, bao hàm, để hết tâm trí vào (việc gì)), tính từ involved (rắc rối, phức tạp) và danh từ involvement (sự bao gồm, dự dính dáng) trong OALD7.in•volve(...) verb 1 if a situation, an event or an activity involves sth, that thing is an important or necessary part or result of it (...)[4]Như đã thấy trong hai mục từ trên, thông tin về khuôn ngữ pháp, cả dạng biểu thức involve sb (in sth / in doing sth) cũng như dạng mã hoá (VP = 'khuôn động từ', U = 'không đếm được', C = đếm được); việc minh hoạ bằng nhiều ví dụ cho cách sử dụng khuôn ngữ pháp và các kiểu kết hợp từ vựng đặc trưng, chẳng hạn như involvement (in / with sth) , minh hoạ cho cụm từ cố định (như He's a very involved father (= he spends a lot of time with his children)); các định nghĩa tương đối ngắn gọn nhưng lại có nhiều ví dụ minh hoạ khi cần (chẳng hạn He spoke openly about his involvement with the actress).

Nhờ có các thông tin ngữ pháp đồng bộ và toàn diện trong OALD, người học có thể tạo lập câu tiếng Anh đúng ngữ pháp và tự nhiên. Đối với danh từ, thông tin cần thiết là sự phân biệt giữa cách sử dụng của danh từ 'tính đếm được' và 'không đếm được'. Các hạn chế về mặt vị trí cú pháp của tính từ cũng được chú thích rõ ràng, chẳng hạn 'không sử dụng trước danh từ' của tính từ involved. Thông tin ngữ pháp quan trọng nhất cho việc tạo lập văn bản của người học tiếng là thông tin liên quan tới động từ. Bởi vì chúng là thành phần quan trọng trong kết hợp cú pháp. Đây chính là địa hạt được Hornby và các cộng sự của ông tập trung nhiều công sức ngay từ khi bắt đầu biên soạn từ điển dành cho người học tiếng. Vấn đề quan trọng được đặt ra là sẽ phải trình bày thông tin này thế nào. Cách trình bày thông tin này trong OALD trong các lần tái bản thực tế đã có cải tiến hơn. Chẳng hạn, so sánh mục từ propose trong OALD2 và OALD3, chúng ta sẽ thấy rằng, trong OALD2 dùng giải pháp mã hoá và minh hoạ bằng thí dụ thì trong OALD3 chúng được hỗ trợ thêm bằng công thức.

Ngoài các thông tin trình bày trên đây, một số thông tin phụ trợ khác cũng đã được một số từ điển cho người học tiếng đưa vào như: thông tin về đặc trưng văn hoá, đặt từ trong các ngữ vực khác nhau để giúp người học nắm bắt và ứng dụng nhanh hơn, các trang tranh ảnh theo chủ đề giúp người học nắm bắt từ theo nhóm hay trường nghĩa, trang trợ giúp học tập giải quyết các vấn đề về từ vựng và ngữ pháp trong viết thư tín hay lí lịch cá nhân, hoặc thậm chí là thông tin tần số xuất hiện của từ hay nghĩa (nhờ có sự trợ giúp của ngữ liệu máy tính), …Trong OALD7 còn có khoảng 7 nghìn từ đồng nghĩa, trái nghĩa, thí dụ: collapse (sụp đổ) SYN(5) fold up (gập lại), pack (đóng gói) SYN cram in (nhồi, nhét), coldness (sự lạnh lẽo) OPP(6) wamth (sự ấm áp), pale (nhợt nhạt) OPP dark, deep (sẫm, thắm).

Bên cạnh đó OALD7 còn cung cấp cho người dùng xấp xỉ 2600 từ đầu mục có ý nghĩa văn hoá với những lời giải thích ngắn gọn và dễ hiểu, chẳng hạn:

  • Wall Street: trung tâm thương mại và giao dịch chứng khoán ở thành phố New York.
  • Walter Mitty: người tưởng tượng cuộc sống của họ đầy những kích động và mạo hiểm trong khi thực tế nó rất bình thường.
  • Big Muddy: 1 sông Mississippi. 2. cách gọi tên Việt Nam của một số lính Mĩ bị bắt lính tới đây.
  • Capricorn: 1. kí hiệu thứ 10 trong cung hoàng đạo, con Dê. 2. người sinh ra bị ảnh hưởng bởi cung này, đó là vào khoảng giữa 21 tháng 12 và 20 tháng 1.
Tóm lại, qua khảo sát một số cuốn từ điển tiếng Anh, chúng ta thấy rằng các từ điển này đã áp dụng được các thành tựu nghiên cứu của ngôn ngữ học hiện đại nói chung và từ điển học hiện đại nói riêng vào trong cấu trúc vĩ mô và vi mô của chúng. Điều đó phản ánh trong xu hướng tích hợp các thông tin liên quan đến mục từ vào cấu trúc vi mô của từ điển. Các thông tin về thuộc tính cú pháp của mục từ là đặc biệt quan trọng đối với người học tiếng. Trong các từ điển dành cho người học tiếng, các thông tin tích hợp này đã giúp người học nắm bắt, giải mã và lập mã văn bản nhanh hơn và tốt hơn.

Bên cạnh đó, không thể không kể tới vai trò quan trọng của việc thu thập tư liệu (hay cụ thể hơn là ngữ cảnh) phục vụ việc biên soạn. Phía sau mỗi cuốn từ điển nổi tiếng mà chúng tôi đã khảo sát đều hàm ẩn một (hay nhiều) cơ sở dữ liệu. Chẳng hạn, cuốn OED1, từ tập đầu tiên xuất bản năm 1884 đến tập cuối xuất bản năm 1928, bao gồm 240000 từ đầu mục và 400000 mục từ trình bày trên 15487 trang in khổ lớn được biên soạn dựa trên 5 triệu phiếu ngữ cảnh. Còn cuốn OALD được biên soạn dựa trên kho ngữ liệu British National Corpus (BNC) bao gồm hơn 100 triệu từ, cả văn nói và văn viết, của tiếng Anh hiện đại.
______________
(1) https://www.oed.com/
(2) Oxford English Dictionary (OED): được nhà từ điển học nổi tiếng James Murray biên soạn lần đầu tiên. Mục đích của ông là thiết lập được lịch sử của từ ngữ tiếng Anh bằng cách sắp xếp các đoạn trích ngữ cảnh theo trật tự thời gian. Ông đã làm việc nỗ lực và cẩn trọng để đến năm 1884 tập từ điển đầu tiên đã được xuất bản. Để có thể đẩy nhanh tiến độ công việc, ba chủ biên nữa đã lần lượt được đưa vào nhưng tập cuối cùng mãi tới năm 1928 mới được ra đời. OED2 (2nd edition) được xuất bản năm 1989 là một quyển từ điển hợp nhất giữa OED1 (mà phần lớn do Murray biên tập và xuất bản) với bốn tập Bổ sung của Burchfield (được xuất bản trong các năm từ 1972 đến 1986). OED 2 bao gồm 20 tập với tổng số 21728 trang in trên khổ 305mm x 225mm. Như vậy một số văn liệu trong OED2 có từ những năm 1884, trong khi các văn liệu khác lại mới được đưa vào khoảng những năm 1986. Năm 1993, cuốn The new shorter Oxford English Dictionary on Historical Principles (SOED), một bản rút gọn của OED, được xuất bản lần đầu tiên. Cả hai cuốn OED và SOED đều có chung một mục đích là phản ánh quá trình xuất hiện, phát triển và mất đi của hình thái và ngữ nghĩa của từ ngữ trong kho từ vựng tiếng Anh (OED tập trung vào giai đoạn từ 1150; SOED tập trung vào giai đoạn từ 1700). OED3 được biên soạn lại toàn bộ từ OED2. Nhưng vì công việc này chỉ có thể làm từ từ nên tính cho đến tháng 12 năm 2005 người ta mới chỉ làm được trong quãng vần từ m đến philandering. Cho nên nếu ta dùng OEDtrực tuyến để tra các từ nằm ngoài những vần trên thì kết quả sẽ là cách xử lí của OED2.

(3) Trong đó có tên các ngôn ngữ được viết tắt như: OE (Old English), OHG (Old High German), MDu (Middle Dutch), ON (Old Norse), ..

(4) Hiện nay, sau bảy lần tái bản, quyển từ điển này vẫn đang giữ danh hiệu quán quân trong dòng từ điển dành cho người học tiếng, tuy rằng nó đang phải chia sẻ thị phần với 3 cuốn từ điển khác là: (1) Longman dictionary of contemporary English. (3rd ed. ed.)(1995.). Harlow: Longman. (2) Sinclair, J. (2001.). Collins COBUILD English dictionary for advanced learners (3rd ed. ed.). London: Collins. (3) Cambridge international dictionary of English. (1995.). Cambridge ; New York: Cambridge University Press. Oxford Advance Learners's Dictionary (OALD) đến nay đã qua 7 lần tái bản với 294 lần in.
(5) SYN: đồng nghĩa.
(6) OPP: trái nghĩa.
[1], [2], [3], [4] Vì lí do bản quyền, ngonngu.net đã lược bớt một phần nội dung các trích dẫn.
 
4. Kết luận

Từ những nhận xét trên, có thể rút ra mấy kết luận sau:

1 - Đến nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, chưa có một lí thuyết từ điển học nào phủ nhận và thay thế cho Từ điển học hệ thống. Nhưng Từ điển học hệ thống đã được hoàn thiện thêm một bước dài. Nói cách khác, cùng với sự phát triển của xã hội, từ điển học cũng phát triển theo quy luật cung cầu của thị trường. Tức là theo xu hướng đa dạng hoátích hợp thông tin nhằm phục vụ tốt nhất cho người dùng. Xu hướng này là tất yếu và biện chứng, nó chi phối không chỉ ngành từ điển học thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.

2 - Xu hướng tích hợp thông tin trong từ điển học, hay xu hướng hoà trộn thể loại từ điển nhằm đáp ứng nhu cầu của người sử dụng, tiết kiệm tiền của và thời gian trong thời đại thông tin. Đây là một xu hướng của từ điển học thế giới cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI.

3 - Trong quá trình phát triển của ngành ngôn ngữ học nói chung, ngành từ điển học Việt Nam phát triển đúng hướng và cập nhật được những vấn đề mới nhất về lí luận cũng như thực tiễn [xem thêm 4,14]. Vấn đề là tích hợp thông tin đến đâu là đủ và hợp lí trong những cuốn từ điển cụ thể, và các thông tin phải đáp ứng được yêu cầu tối đa cho người dùng, cung cấp cần tìm, khắc phục tình trạng "cái có thì không cần, cái cần tìm lại không có" như người ta vẫn nói về từ điển.
Chắc chắn những tư liệu mà chúng tôi có được để khảo sát còn rất hạn chế, đặc biệt là các từ điển mới nhất hiện nay. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của bạn đọc./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


  1. Rey - Debove J. Etude linguistique et semiotique des dictionnaires francais contemporains. La Hay-P., 1971. (bản dịch của Viện Ngôn ngữ học).
  2. Zgusta L. Mannual of Lexicography. The Hague-Pragua, 1971. (Bản dịch của Viện Ngôn ngữ học).
  3. Zgusta L. Từ điển học của thế kỉ XXI, trong tập "The Fist Asia International Lexicography Conference", Philippines 1992, tr.3-12 (bản dịch của Phòng Từ điển học).
  4. Chu Bích Thu, Giới thiệu sơ lược về từ điển và từ điển học Việt Nam, Ngôn ngữ, 2001, số 14, tr. 12 - 26.
  5. Vũ Quang Hào, Kiểm kê từ điển học Việt Nam, NXB ÐHQG, H. 2005.
  6. Hồ Hải Thuỵ, Suy nghĩ lại về nghề làm từ điển, Ngôn ngữ và đời sống, số 4-2004, tr.36-39; và số 1+2 (111+112)- 2005, tr.73-78.
  7. Hồ Hải Thuỵ, Chu Khắc Thuật và Cao Xuân Phổ, Từ điển Anh-Việt, Nxb Tp.HCM, 1996.
  8. Douglas Biber, Susan Conrad và Randi Reppen, Corpus Linguistics Ngữ liệu khố ngữ ngôn học, Ngoại ngữ dạy học và nghiên cứu xuất bản xã - Thanh Kiều (Cambridge) đại học xuất bản xã, Bắc Kinh, 2000.
  9. Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nguyễn Như Ý (chủ biên), Nguyễn Văn Khang, Vũ Quang Hào, Phan Xuân Thành, NXB VHTT, 1999.
  10. Hoàng Phê, Phân tích ngữ nghĩa, Ngôn ngữ, 1975, s.2, tr. 10-26.
  11. Bùi Minh Ðức, Từ điển tiếng Huế, Trung tâm nghiên cứu Quốc học NXB VH, 2005.
  12. Viện Ngôn ngữ học, TÐ tiếng Việt phổ thông, NXB TP HCM, 2002.
  13. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển từ mới tiếng Việt (Chu Bích Thu chủ biên), NXB TP.HCM, 2002.
  14. Chu Bích Thu, Báo cáo kết quả chuyến khảo sát, học tập kinh nghiệm tại Cộng hoà Pháp (về mặt chuyên môn), 2001, trong công trình Xây dựng luận cứ khoa học cho việc biên soạn bộ Từ điển tiếng Việt cỡ lớn.
  15. Một số vấn đề từ điển học, nhiều tác giả, KHXH, H.1996.
  16. Văn Tân, Từ điển tiếng Việt, 1967, tái bản có sửa chữa bổ sung 1977.
  17. Apresjan, J. (2000). Systematic Lexicography, Oxford; New York: OUP.
  18. Béjoint, H. (2000). Modern Lexicography - An Introduction, Oxford; New York: OUP.
  19. Jackson, H. (2002). Lexicography - An Introduction, London; New York: Routledge.
TỪ ĐIỂN NƯỚC NGOÀI DÙNG ĐỂ THAM KHẢO


  1. Longman dictionary of contemporary English. (3rd ed. ed.)(1995.). Harlow: Longman.
  2. Cambridge international dictionary of English. (1995.). Cambridge; New York: Cambridge University Press.
  3. Concise Oxford Dictionary. (1999). (ed. by Diana Treffry) (COD).
  4. Collins English Dictionary. (1998). (ed. by Diana Treffry) (CED).
  5. New Oxford Dictionary of English, (1998). (ed. by Judy Pearsall). (NODE).
  6. Oxford English dictionary on CD-ROM. (2nd ed., version 3.0 ed.)(2002.). Oxford: Oxford University Press.
  7. Merriam-Webster Online Dictionary. (2006). https://www.m-w.com/cgi-bin/dictionary: Merriam. (MWOD).
  8. The new shorter Oxford English Dictionary on Historical Principles, (1993) (ed. by Lesley Brown).
  9. Gove, P. B. (1971). Webster's third new international dictionary of the English language unabridge. London: Bell.
  10. Hornby, A. S., Ashby, M., & Wehmeier, S. (2005). Oxford advanced learner's dictionary of current English (7th ed.). Oxford, [U.K.]: Oxford University Press. (OALD).
  11. Simpson, J. A., & Weiner, E. S. C. (1989). The Oxford English dictionary. (2nd ed. / prepared by J.A. Simpson and E.S.C. Weiner. ed.). Oxford: Clarendon Press ; New York : Oxford University Press. (OED).
  12. Sinclair, J. (1995.). Collins COBUILD English dictionary. London: HarperCollins.
  13. Sinclair, J. (2001.). Collins COBUILD English dictionary for advanced learners (3rd ed. ed.). London: Collins.
  14. Summers, D. (1993.). Longman language activator : the world's first production dictionary. Harlow, Essex, England: Longman.
Chu Bích Thu – Phạm Hiển (Ngonngu.net)
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top