Vẻ đẹp của tiếng Việt

Hide Nguyễn

Du mục số
Có một nhà thơ tên là Trịnh Công Sơn


Người ta vẫn gọi Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ chứ chưa mấy ai gọi anh là nhà thơ, dù anh cũng đã in dăm ba bài thơ lẻ. Cũng có người gọi anh là "người thơ ca" hay "người hát thơ", nghĩa là, anh là người tác hợp giữa thơ và nhạc. Nhưng với tư cách là một nhà thơ, tôi đã khảo sát ca từ của Trịnh Công Sơn, và tôi dám khẳng định rằng, anh chính là một nhà thơ đích thực.


Cho dù khi sáng tác ca khúc, Trịnh Công Sơn có thể viết lời và nhạc cùng một lúc, hoặc có đoạn lời viết sau khi đã có nhạc, hay trước khi "phổ nhạc" thì mỗi lời ca của anh đều là những bài thơ hoàn chỉnh kể cả về ý, tứ, cấu trúc, ngôn từ và cảm xúc. Mà Trịnh Công Sơn không phải là một nhà thơ bình thường, anh là nhà thơ rất độc đáo ôm chứa tư tưởng nhân sinh và thời cuộc với một thi pháp khá riêng biệt trong thơ Việt.


Trịnh Công Sơn rất nhuần nhuyễn trong các thể thơ truyền thống như lục bát, đồng dao. Ngay từ lần nghe đầu tiên ca khúc Ở trọ, tôi đã phát hiện ra đấy là một bài thơ lục bát rất tài hoa. Từ cái chuyện ở trọ bình thường trong đời, anh đã đẩy liên tưởng tới cái "cõi tạm" chốn trần gian trong triết lý của Đạo Phật với một cách nói thoải mái, thông minh và hóm. Anh nhìn thấy con chim ở trọ trên cành cây, con cá ở trọ dưới nước, cơn gió ở trọ giữa đất trời, rồi đẩy tới một khái quát bất ngờ:


Trăm năm ở đậu ngàn năm

Đêm tối ở trọ chung quanh nỗi buồn


Có những liên tưởng còn bất ngờ hơn khi nói tới vẻ đẹp ở trọ trong thân thể, hay tâm hồn của người nữ:


Môi xinh ở đậu người xinh

Đi đứng ở trọ đôi chân Thúy Kiều



Vì thế mà có câu:


Xin cho về trọ gần nhau

Mai kia dù có ra sao cũng đành


Và khi con người đã ở trọ vào nhau bằng tình yêu thì dù có phải xa rời cõi tạm, vẫn mãi mãi khăng khít cùng nhau:


Tim em người trọ là tôi

Mai kia về chốn xa xôi cũng gần


Nhiều bài thơ phỏng theo nhịp đồng dao (bốn chữ) khá thành công nhờ cách lập tứ và chọn từ như Em đi qua chiều/ Cũng sẽ chìm trôi / Nhật Nguyệt trên cao - Ta ngồi dưới thấp, nhưng có lẽ Ngụ ngôn mùa đông mới là một bài thơ bốn chữ gây ấn tượng khó phai mờ trong lòng người đọc. Bài thơ nói về "Một người Việt Nam - Đi ra dòng sông - Nhớ về cội nguồn... Đi lên đồi non - Nhớ về cội nguồn" thật tươi đẹp, thật máu thịt, rồi bỗng:


Một ngày mùa đông

Trên con đường mòn

Một chiếc xe tang

Trái mìn nổ chậm

Người chết hai lần

Thịt da nát tan...


Người Việt ấy chết rồi lại còn phải chết thêm một lần nữa vì "trái mìn nổ chậm" của chiến tranh. Cái tứ thơ này không chỉ chia xẻ với cái chết đau thương tang tóc của con người mà còn có sức mạnh tố cáo chiến tranh thật sâu sắc:


Súng từ thị thành

Súng từ ruộng làng

Nổ xé da non

Phố chợ thật buồn

Cuộn giây gai chắn

Chắc mẹ hiền lành

Rồi cũng tủi thân



Nhịp thơ năm chữ trong thơ Trịnh Công Sơn cũng xuất hiện không ít, và lặng lẽ tuôn chảy trong veo buồn thương, ngơ ngác. Khi thì khao khát hồn nhiên: "Môi nào hãy còn thơm - Cho ta phơi cuộc tình - Tóc nào hãy còn xanh - Cho ta chút hồn nhiên", khi thì hoang vắng, lạnh câm: "Như đồng lúa gặt xong - Như rừng núi bỏ hoang - Người về soi bóng mình - Giữa tường trắng lặng câm", khi thì tuyệt vọng ngậm ngùi: "Không còn, không còn ai - Ta trôi trong cuộc đời - Không chờ, không chờ ai" (Ru ta ngậm ngùi), và có lúc đầy mộng mơ khao khát giữa ưu phiền: "Tôi con chim thanh bình - Mơ được sống hồn nhiên - Như hoa trên đồng xanh - Một sớm kia rất hồng" (Như chim ưu phiền). Nhịp thơ năm chữ vốn rất phổ biến trong đối đáp dân gian, nhưng với Trịnh Công Sơn, nó trở nên lồng lộng, thênh thang và quý phái:


Người ngỡ đã xa xăm

Bỗng về quá thênh thang

Ôi áo xưa lồng lộng

Đã xô dạt trời chiều


(Tình nhớ)


Cùng với những ý thơ bất ngờ đến từ trong vô thức:


Trăng muôn đời thiếu nợ

Mà sông không nhớ ra


Hoặc:


Cây trưa thu bóng dài

Và tôi thu bóng tôi

Tôi thu tôi bé lại

Làm mưa tan giữa trời...


(Biết đâu nguồn cội)


Ít thấy nhịp thơ sáu chữ ở Trịnh Công Sơn, nhưng không phải là không có. Câu thơ sáu chữ xuất hiện đan xen trong nhiều bài thơ của anh thường tạo được hiệu quả lạ, như một dấu nhấn của cảm xúc và ý tưởng. Ví dụ như trong bài Nhìn những mùa thu đi, sau mỗi câu năm chữ là câu sáu chữ khá hay: "... Em nghe sầu lên trong nắng... Nghe tên mình vào quên lãng... Tay trơn buồn ôm nuối tiếc".


Bài Ru em là một bài thơ lục ngôn từ đầu đến cuối:


Ru em ngủ những đêm khuya

Ru em ngủ những âm u

Ru em cùng những u mê

Ru em dù đã chia xa...



Nhân nói đến thơ lục ngôn; bỗng nhớ đến một bài thơ nhịp 3 hết sức đặc biệt của Trịnh Công Sơn. Đó là bài Mưa hồng:


Trời ươm nắng

Cho mây hồng

Mây qua mau

Em nghiêng sầu

Còn mưa xuống

Như hôm nào

Em đến thăm

Mây âm thầm

Mang gió lên...


Điều đó nói lên sự đa dạng và tài hoa của Trịnh Công Sơn khi sử dụng thi điệu, bởi thơ nhịp 3 thường tươi vui nhí nhảnh, mà ở đây lại tả cái tâm trạng thương nhớ xa xăm: "Người ngồi xuống/Xin mưa đầy/Trên hai tay/Cơn đau dài"...).


Nhịp thơ thất ngôn là một sở trường của Trịnh Công Sơn. Dường như anh thẩm thấu Đường thi, nhưng hơi thở thì đã khác. Những câu thơ bảy chữ vào bài hát của anh rất tự nhiên. Nhiều bài thơ (bài hát) đã mở đầu bằng câu thơ bảy chữ thật nhẹ nhàng như chẳng có một cố ý nào. Có thể dẫn ra nhiều những trường hợp như vậy: "Một đêm bước chân về gác nhỏ", "Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi", "Trên đời người trổ nhánh hoang vu", "Người đi quanh thân thế của người", "Vẫn thấy bên đời còn có em"...


Cũng là thơ thất ngôn, nhưng cách gieo nhiều vần bằng liên tiếp theo cảm hứng âm nhạc, đã khiến cho thơ anh không bị gò ép vào khuôn thước cổ thi, mà thoát ra, phong quang và mềm mại hẳn lên. Có những đoạn thơ chỉ gieo toàn vần bằng:


Màu nắng hay là màu mắt em

Mùa thu mưa bay cho tay mềm

Chiều nghiêng nghiêng bóng nắng qua thềm

Rồi có hôm nào mây bay lên

Lùa nắng cho buồn vào tóc em

Bàn tay xôn xao đón ưu phiền

Ngày xưa sao lá thu không vàng

Và nắng chưa vào trong mắt em


Cũng có khi, thơ thất ngôn của anh được gieo vần trắc:


Em đi biền biệt muôn trùng quá

Từng cơn gió và từng cơn gió

Em đi gió lạnh bến xa bờ

Từng nỗi nhớ trùng trùng nỗi nhớ


Lại có khi thơ thất ngôn được tổ chức theo từng khổ ba câu với những hình ảnh thật đẹp, thật lạ như: "lòng như khăn mới thêu", "lòng như nắng qua đèo", chỉ đọc một lần là bâng khuâng xao xuyến mãi:


Mười năm xưa đứng bên bờ dậu

Đường xanh hoa muối bay rì rào

Có người lòng như khăn mới thêu

Mười năm sau áo bay đường chiều

Bàn chân trong phố xa lạ nhiều

Có người lòng như nắng qua đèo


Các thi ảnh vừa tươi mới vừa lạ lùng cứ nối tiếp nhau hiện lên trong thơ Trịnh Công Sơn để đẩy tứ thơ đến tận cùng bất ngờ: "Có một dòng sông đã qua đời". Tại sao dòng sông lại qua đời? Phải chăng, đấy chính là dòng sông biểu tượng cho tình yêu đã cạn!


Trịnh Công Sơn thuộc thế hệ những người mê đắm Thơ Mới, và thể thơ tám chữ mà các thi sĩ của phong trào Thơ Mới đã có công cải hóa và Việt hóa từ thơ Pháp có một nhịp điệu dễ mê hoặc lòng người. Trịnh Công Sơn tiếp thu nhịp điệu này, và chính âm nhạc đã thêm một lần nữa làm thơ tám chữ:


Một lần chợt nghe quê quán tôi xưa

Giọng người gọi tôi nghe (tiếng) rất nhu mì

Lòng thật bình yên mà sao buồn thế

Giật mình nhìn tôi ngồi hát bao giờ

(Bên đời hiu quạnh)


Hoặc dùng lại đúng cái nhịp Thơ Mới vẫn thường dùng, nhưng tinh thần thì đã khác:


Đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng

Lá mùa thu rơi rụng giữa mùa đông

Đừng tuyệt vọng, em ơi đừng tuyệt vọng

Em là tôi và tôi cũng là em


(Tôi ơi đừng tuyệt vọng)


Nguồn :Internet.
 
Cái đẹp trong ngôn ngữ Trịnh Công Sơn


Có người gọi Trịnh Công Sơn là thi sĩ. Tôi không cho là như vậy. Ông có làm thơ, và trong những câu nhạc của ông ta nhặt được những ý thơ và cả những câu thơ thật là đẹp nữa, nhưng ông mãi mãi là nhạc sĩ, không phải là thi sĩ. (Cũng như ông có vẽ tranh, nhưng không phải họa sĩ).

Nếu ông chỉ làm thơ, tôi không chắc ông sẽ được bao nhiêu người biết tên. Không có ông, ta còn nhiều thi sĩ khác. Nhưng chỉ có một TCS thôi. Tôi có đọc ít bài thơ ông, có bài hay, nhưng vẫn không gây cho tôi ấn tượng nào rõ nét lắm, nghĩa là dưới mỗi bài thơ ông không để lại dấu ấn đậm nét nào có khắc tên ông. Thế nhưng nhạc của ông thì đúng là nhạc TCS. Dường như chỉ khi ông viết lời nhạc, cái thi hứng mới trào ra, những lời ấy như hóa thành thơ, và nhạc lẫn thơ bay lên. Người nghe đôi lúc khó phân biệt những câu dưới đây là nhạc hay thơ, là thơ hay nhạc, vì nhạc thơ, thơ nhạc quyện lẫn vào nhau:

Ta vẫn mong, ta chờ mãi trong từng ngày quạnh hiu

Ta vẫn mong em về đây cho đời bày cuộc vui...


(Rừng Xưa Đã Khép)

Vườn năm xưa em đã đến, nay trăng quá vô vi

Giọt sương khuya rụng xuống lá, như chân ai lần về...


(Nguyệt Ca)

Ta nghe nghìn giọt lệ, rớt xuống thành hồ nước long lanh...

(Như Cánh Vạc Bay)

Những giọt mưa, những nụ hoa, hẹn hò gặp nhau trước sân nhà...

(Bốn Mùa Thay Lá)

Sau lưng ngày con gái. Môi son đừng biếng lười. Cho ta còn mãi mãi.

Chút mùi phấn hương bay...

(Yêu Dấu Tan Theo)



Lời TCS hay đến mức, ở một đôi bài, nhạc không bắt kịp lời. Gặp phải những bài như thế tôi vẫn cứ tiếc, và đôi lúc nghĩ rằng ông ghép nhạc vào lời hơn là ghép lời vào nhạc. Những Nắng Thủy Tinh, Như Cánh Vạc Bay, Ru Ta Ngậm Ngùi, Yêu Dấu Tan Theo, Nguyệt Ca, Đêm Thấy Ta Là Thác Đổ... là những bài thơ hơn là những bài nhạc. “Nắng Thủy Tinh” hoặc “Nhìn Những Mùa Thu Đi” chẳng hạn là những bài đẹp cả về lời thơ lẫn ý nhạc. Những nốt nhạc mềm mại rót xuống ở cuối câu “đưa em về nắng vương nhè nhẹ...”, nghe sao mà “nhè nhẹ”. Và tiếng hát Khánh Ly, Lệ Thu quấn quýt, đan quyện vào nhau đã luôn luôn là những tiếng hát của một mùa nào lãng mạn, ru tôi trong chiếc nôi đời êm ái, nhìn những cụm mây mùa thu bay đi, bay đi.

Trong nhạc TCS không phải chỉ có thơ mà còn có cả tranh vẽ nữa, và những bức tranh sinh động của ông cũng thể hiện qua những lời nhạc giàu hình ảnh, có khi chỉ là những nét ký họa, có khi là những bức tranh cảnh vật đầy mầu sắc, có khi là những bức chân dung của... “người về soi bóng mình, giữa tường trắng lặng câm”, hoặc những tranh tĩnh vật như “... thấy đời là những quán không, bàn im hơi bên ghế ngồi”, và còn có cả những bức vẽ trừu tượng nữa. Thử dạo qua một vòng phòng tranh TCS:

Hồ Tây chiều thu mặt nước vàng lay, bờ xa mời gọi. Mầu sương thương nhớ, bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời...
(Nhớ Mùa Thu Hà Nội)

Mây và tóc em bay trong chiều gió lộng, trời làm cơn mưa xanh dưới những hàng me... (Tuổi Đời Mênh Mông)

Trong lòng phố mưa đêm trói chân, dưới hiên nhìn nước dâng tràn, phố bỗng là dòng sông uốn quanh...
(Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên)

Một vài bức khác, đòi hỏi cần có chút tưởng tượng:

Ta thấy em trong tiền kiếp với cọng buồn cỏ khô. Ta thấy em đang ngồi khóc khi rừng chiều đổ mưa...
(Rừng Xưa Đã Khép)

Dòng nước mắt sẽ bay trong trời, làm cơn mưa rớt trên chăn gối, lời cỏ cây hát trên da người...
(Hãy Khóc Đi Em)

Có rất nhiều những bức vẽ giàu hình ảnh và màu sắc như vậy.


Cái đẹp, cái hay có khi chỉ nằm ở một chữ trong câu hát, như là chữ “suốt” trong những câu dưới đây chẳng hạn:

Ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì...
(Một Cõi Đi Về)

Gọi tên em mãi suốt cơn mê này...
(Hạ Trắng)

Đường đi suốt mùa nắng lên thắp đầy...
(Hạ Trắng)

Hãy nghiêng đời xuống, nhìn suốt một mối tình...
(Để Gió Cuốn Đi)

Lá hát như mưa suốt con đường đi...
(Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên)

Rọi suốt trăm năm một cõi đi về...
(Một Cõi Đi Về)

Chữ “suốt” ở câu trên hay đến vậy lại bị một số ca sĩ đổi thành “xuống” thì quả là “nỗi đau phiền muộn” cho những người yêu nhạc TCS. Tương tự, trong “Hướng Về Hà Nội” của Hoàng Dương, ở câu hát “thanh bình tiếng guốc reo vui...”, tiếng “guốc” bị một số ca sĩ đổi thành tiếng “hát” cũng là một “nỗi đau” khác, vừa vô nghĩa (tiếng hát làm sao mà reo được), vừa không nghe ra được những âm thanh rộn rã rất “thanh bình” trong tiếng guốc khua vang trên những vỉa hè, đường phố Hà nội, và hình ảnh thướt tha của những tà “áo mầu tung gió chơi vơi”. Hát sai một chữ làm hỏng một câu nhạc, có khi cả một bài nhạc.

Có những bài nhạc tôi chắc là TCS thích, vì vẫn nghe ông nhắc đến, nhưng lại ít có người hát, ít có người nghe. Có khi ông muốn nói nhiều quá, người nghe lại ít chịu nghe. Những bài hát được ông lồng vào những triết lý, những thiền vị chẳng hạn, dường như ít được thành công, hiểu theo nghĩa ít được phổ biến. Người nghe dễ đón nhận hơn nếu chỉ một vài nét chấm phá và một chút thi vị: “Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ...” (Ru Em), hoặc “Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ...” (Mưa Hồng).

Cái đẹp còn ở những lời tả tình tả cảnh về một quê hương, một nơi chốn thân quen trong mỗi trái tim người Việt:

Chiều trên quê hương tôi, có những chốn riêng cho mọi người, những con đường lứa đôi, những góc hè phố vui...
(Chiều Trên Quê Hương Tôi)

Hoặc: ... quê nhà đó năm xưa có em, có bóng dừa, có câu hò, có con đò chở nắng mưa đi.” (Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên)

Thật khó mà viết được những lời đẹp đến vậy nếu không có trái tim nặng trĩu tình yêu quê hương. “TCS đã hát về quê hương đất nước bằng cả tấm lòng của một đứa con biết vui tận cùng những niềm vui, và đau tận cùng những nỗi đau của tổ quốc mẹ hiền,” Văn Cao đã viết về ông như vậy.

Đời Gọi Em Biết Bao Lần”, “Vì Tôi Cần Thấy Em Yêu Đời”, và “Tuổi Đời Mênh Mông” nữa...., là những bài hát thể hiện cái đẹp của lòng nhân ái.

Tôi có nghe đâu đó nói rằng nhạc TCS được cả người Nhật yêu thích, hoặc được dịch ra thứ tiếng này tiếng nọ. Tôi không tin lắm. Phải đau cái đau của thân phận máu đỏ da vàng, của một đất nước chìm ngập trong khói lửa chiến tranh, phải mang trong tim mình một quê hương rách nát, phải nghe được những lời “đại bác ru đêm”, phải thấy được “từng vùng thịt xương có mẹ có em”, phải thấy được xác những người lính chết vội chết vàng, “nằm chết như mơ”, và còn phải sống phải yêu thiết tha, sôi nổi trong những máu xương lửa đạn ấy, nghĩa là phải có trái tim hòa cùng một nhịp đập với trái tim người Việt mới nghe ra được từng lời nhạc TCS thấm vào từng mạch máu, từng tế bào. Nếu họ có tìm đến TCS, nhiều lắm cũng chỉ để “khảo sát một hiện tượng” được nhiều người Việt nói đến. Còn nếu nói rằng họ chỉ yêu thích những tình khúc TCS, tôi cũng còn chút ngờ vực cho đến khi có ai đó nói rằng có thể chuyển dịch được những lời nhạc của ông sang thứ tiếng nào đó để người ngoại quốc có thể hiểu được thế nào là “tóc em từng sợi nhỏ, rớt xuống đời làm sóng lênh đênh”.



Ngôn ngữ TCS quả đã làm giàu và đẹp thêm cho kho tàng tiếng Việt, hoặc ít ra có thể nói mà không sợ lầm, ông là người viết lời đẹp nhất cho những ca khúc. Những lời đó trước đây và cả về sau nữa, tôi tin vậy, chưa từng có ai viết, và cũng không ai bắt chước, không ai làm giả được. (Nếu có hàng mạo hóa, người nghe sẽ nhận ra ngay những TCS “giả”). Như thế thì cái chết của ông, ít nhiều gì cũng gây nên những mất mát và thiệt thòi, ít ra là đối với những người có cái nhìn khách quan về những đóng góp của ông.

Tất nhiên không phải mọi ca khúc TCS đều hay cả. Có một số những bài hay, một số những bài trung bình, có bài chỉ nhặt ra được một hai câu, có bài không được kể là nhạc vì không bắt nguồn từ một cảm xúc nào, hoặc được làm theo đơn đặt hàng, như bài hát về công trình xây đắp thủy điện Trị an: “Dòng điện như dòng sông, cho đời một tấm lòng...” chẳng hạn. Cũng nói đến “dòng sông”, cũng nói về “tấm lòng”, nhưng người nghe thấy gượng ép, giả tạo. Những bài nhạc ấy không tồn tại được, không được ai hát. Chúng biến mất ngay khi vừa mới ra đời, và không được người đời nhắc tên. Những bài hát mang một số phận khác.

Nghe nhạc TCS giống như là nhấm nháp từng ngụm café hay từng ngụm trà nhỏ, từng ngụm nhỏ thôi, để nghe được cái hương vị đậm đà chầm chậm, từ từ thấm vào đầu lưỡi. Nghe nhạc TCS là phải nghe trong những lúc thư thả, không bận rộn, nghe “không cần vội vã”, nghe với “trái tim thật thà”, để nghe được từng câu, từng chữ, từng lời nhạc khe khẽ, nhẹ nhàng len lỏi, luồn lách vào mọi ngóc ngách trong cơ thể, thấm vào từng mạch máu, chạm khẽ đến trái tim.

------- Sưu tầm--------​
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top