Vẻ đẹp bài thơ"Đi thuyền trên sông Đáy"

Thapbut1005

New member
Xu
0
Tạp chí Văn nghệ Quân đội số 8, tháng 5 – 2008 (số cuối tháng) có bài Đọc thi hứng thêm nồng của Hồng Diệu. Cảm ơn nhà nghiên cứu và phê bình văn học Hồng Diệu đã đọc và viết bài phê bình, đánh giá cuốn sách này. Trong bài viết, anh Hồng Diệu có đưa ra vấn đề cần bàn lại bài thơ Đi thuyên trên sông Đáy.

Ý kiến của anh Hồng Diệu như sau: “Về bài thơ này có tư liệu rất đáng chú ý, lần đầu tiên được công bố trong quyển Hồ Chí Minh – Thơ, toàn tập của Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh và Trung tâm nghiên cứu Quốc học, in năm 2000 – mà mấy năm trước, chúng tôi đã có dịp bàn sơ qua và lưu ý bạn đọc (xem: Hồng Diệu: - Có gì mới trong “Hồ Chí Minh – Thơ, toàn tập”, Văn nghệ Quân đội số 5 – 2001, cũng in trong tập phê bình và tiểu luận Qua văn hiểu người, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, 2005). Theo nhà nghiên cứu Trần Đắc Thọ, người đã dịch nghĩa, chú thích và hiệu đính văn bản quyển sách này, thì trong lần gặp nhà thơ Tố Hữu vào ngày 25 - 2 - 1998, ông được nhà thơ Tố Hữu cho biết: “Bài thơ Đi thuyền trên sông Đáy không phải của Bác Hồ (có lẽ của đồng chí Xuân Thủy), Bác Hồ chưa một lần đi thuyền trên sông Đáy, làm sao có thơ được” (Hồ Chí Minh – Thơ, toàn tập; sách đã dẫn, tr.436) (…) Nếu có dịp, chúng tôi sẽ trình bày quan niệm của mình về tác giả bài thơ này” (tr66, 67)


Về ý kiến của cụ Trần Đắc Thọ và của anh Hồng Diệu, in trên báo và sách, tôi đã đọc kỹ, suy nghĩ và cân nhắc trước khi bình bài thơ Đi thuyền trên sông Đáy, cũng như khi dẫn một số câu thơ của bài thơ này trong một số bài viết của mình. Tôi vẫn thiên về, bài thơ Đi thuyền trên sông Đáy là của Bác Hồ nên không chú thích ở dạng tồn nghi với những lý do sau:


Một là, bài thơ Đi thuyền trên sông Đáy chứa đựng những ý tưởng lớn lao. Phải là người ở vị thế như thế nào mới có những ý tưởng lớn, nghĩ suy, lo toan, ý thức trách nhiệm, tấm lòng đối với dân tộc đến thế: Lòng riêng riêng những bàn hoàn/ Lo sao khôi phục giang san Tiên Rồng; và, một tinh thần lạc quan luôn hướng về phía trước, phía tương lai trên cơ sở thực tế cuộc kháng chiến đang chuyển giai đoạn, tất thắng nhất định đến; đêm sẽ qua, bình minh rực hồng sẽ tới Bao la nhuốm một màu hồng đẹp tươi. Những ý tưởng lớn lao và tình cảm sâu nặng, bao la gửi gắm trong những câu thơ trên chỉ có thể ở nhà cách mạng vĩ đại, vị lãnh đạo tối cao, người đứng đầu đất nước, không ai khác, đó là Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Cảnh rạng đông của đất trời, cũng là cảnh rạng đông của lòng người trong cái nhìn và cảm nhận của lãnh tụ.


Hai là, xét về thi pháp thấy rằng, bài thơ Đi thuyền trên sông Đáy mang những đặc trưng thi pháp Hồ Chí Minh và nằm trong hệ thống thi pháp Hồ Chí Minh.


Trước hết là thể thơ, khi làm thơ tiếng Việt, Bác sử dụng nhiều thể, nhưng thể thơ lục bát truyền thống chiếm một tỉ lệ đáng kể. Bài thơ lục bát Đi thuyền trên sông Đáy mang phong thái trầm tĩnh, trang nghiêm, nghĩ suy là một trong những nét đặc trưng phong cách thơ tiếng Việt của Bác. Với những bài thơ tức cảnh, cảm tác, thơ tặng thuộc loại thơ trữ tình hoặc có tính chất trữ tình, Bác thường sử dụng thể thơ lục bát, mang dáng dấp cấu tứ thơ Đường (4 câu, 8 câu), có thể coi đó như những bài thơ “lục bát – tứ tuyệt”, “lục bát – bát cú” được chăng, như Cám ơn người tặng cam, Tặng các cụ lão du kích, Đi thuyền trên sông Đáy…Đây là một cách biểu hiện khá độc đáo của thơ Bác.


Thứ nữa, về ngôn từ và hình ảnh thơ. Bài thơ Đi thuyền trên sông Đáy được thể hiện bằng một hệ thống ngôn ngữ giầu chất thơ, nhuần nhuyễn, cô đọng, dân tộc – hiện đại mang sắc thái biểu cảm của một hồn thơ mở, cao rộng, lan toả như nhiều bài thơ khác của Bác. Đi liền với ngôn từ ta bắt gặp những hình ảnh Bác quen dùng, để lại dấu ấn sâu đậm như những mô típ nghệ thuật đã được định hình, đó là những hình ảnh thuyền, trăng, sao, mầu hồng, giang san Tiên Rồng mà chúng tôi từng làm thống kê, đối chiếu, so sánh rút ra những kết luận ban đầu (xin xem những bài viết Con thuyền trong thơ Bác, Hình tượng trăng trong thơ Bác, ý nghĩa hình ảnh Tiên Rồng, Nước non Lạc Hồng trong thơ Bác… trong những cuốn sách của chúng tôi đã xuất bản).


Một điều đáng lưu ý nữa là, bài thơ Đi thuyền trên sông Đáy có những câu thơ: Dòng sông lặng ngắt như tờ, Bốn bề phong cảnh vắng teo, Lòng riêng riêng những bàn hoàn là những câu thơ tập Kiều và gợi nhớ đến câu thơ Đường (Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị) như vẫn thường thấy trong một số bài thơ tiếng Việt của Bác. Bác rất tinh thông văn học cổ nước nhà và văn học cổ Trung Hoa. Tập Kiều, tập ca dao, tập cổ thơ Đường, khi cả bài, khi là một vài câu thơ là việc Bác thường làm, nó đã trở thành một nét quen thuộc trong thơ Bác. Đi thuyền trên sông Đáy nằm trong dòng chảy chung của thơ Bác.


Và, nói đến thơ Bác không thể bỏ qua được cái gốc, cái cơ sở làm nên bài thơ là độ cảm xúc và tư duy thơ. Bác làm thơ khi có hứng thơ do tác động của cảnh vật, sự việc, con người nào đó liên quan đến vấn đề nhân sinh, vấn đề hệ trọng của đất nước cùng với sự thôi thúc từ bên trong con người Bác, đòi hỏi phải có thơ. Những bài thơ như thế thường ngẫu hứng trên đường đi, hoặc khi nghĩ ngợi sâu xa một vấn đề nào đó cần tỏ rõ, cần một tiếng nói bằng thơ, cho nên có thể nói được rằng, thơ đến với Bác và Bác làm thơ hết sức tự nhiên, vô tư, không bị một sự ràng buộc, câu nệ nào; nhiều bài thơ của Bác không có đầu đề là vậy và nếu có đầu đề thì rất giản dị, đúng như sự thật đang diễn ra, sự thật trong cảm xúc, tâm hồn Bác. Đầu đề Đi thuyền trên sông Đáy mộc mạc, nôm na là như thế. Cảm xúc thơ của Bác lại quyện thấm hài hoà với một tư duy thơ mạch lạc, sâu sắc, rộng mở có trước có sau, trình tự lớp lang, truyền thống cổ điển và hiện đại thời đại… đã sản sinh ra những bài thơ mang ý tưởng sâu sắc, giầu trí tuệ mà ân tình ân nghĩa vô cùng. Lô gích ấy cũng cho thấy, hệ quả bất ngờ xuất hiện những câu kết xuất thần, thăng hoa trong bài thơ như Phải chăng khổ tận đến ngày cam lai? (Cám ơn người tặng cam), Tiếng thơm Việt Bắc ngàn thu lẫy lừng (Tặng các cụ lão du kích), Bao la nhuốm một mầu hồng đẹp tươi (Đi thuyền trên sông Đáy)…


Ba là, một sự thực, hồi ở chiến khu Việt Bắc, Bác đã có lần đi mảng trên sông. Ông Vũ Kỳ đã kể về lần Bác đi mảng đến dự một cuộc họp quan trọng của Bộ chỉ huy cuộc kháng chiến vào đầu năm 1948, khi ra về Bác cảm hứng làm bài thơ Nguyên tiêu. Ông Triệu Hồng Thắng, người có trách nhiệm bảo vệ Bác, kể lại trong một hồi ký có tên là Đêm rằm trên sông Đáy, in trong tập Bác Hồ ở Việt Bắc, NXB Việt Bắc, ấn hành 1975: “… Đêm rằm tháng Tám năm 1949 ấy là lần đầu tiên và cũng chỉ có một lần ấy chúng tôi được cùng Bác bước chân xuống bè mảng. Đêm ấy mặt nước sông Đáy đã biết chiều lòng khách quý nên rất phẳng lặng và dịu hiền. Tôi nhìn dòng sông như một con đường cái, mặt nước như mặt thảm nhưng được trải giữa hai bờ… Mảng đang trôi (… ) đến một khúc sông rộng, có vực sâu hơn, lúc này, nhìn hai bờ sông xa xa… Trăng đã lên khá cao. Cả bề mặt của dòng sông như không còn bóng tối của núi rừng nữa, nhìn đôi bờ sông, núi soi mình dưới nước tạo thành hai bờ như núi nối liền với núi. Bè mảng lúc này trôi chậm hơn nhiều, gần như dừng lại. Nhìn lên trời, có trăng, có sao, nhìn xuống dưới chân cũng có sao có trăng.


Đến quãng này Bác nói đại ý như sau:
Đêm nay, các cháu khắp nơi đều vui Tết trung thu…
Bác nói nhiều và nhắc nhiều đến các cháu ở các nơi. Khi Bác nhắc đến các cháu đang sống trong vùng giặc kiểm soát, mọi người đều se lòng.


Bác nói xong lại đề nghị mỗi người ở đây góp vào làm một bài thơ. Bác đề xướng và đặt câu trước, rồi mỗi người góp vào một câu. Mọi người chúng tôi đều vui vẻ đồng ý. Tôi và một số đồng chí khác chưa biết làm thơ là thế nào nhưng thấy vui quá, cùng đồng ý. Nói là mỗi người góp vào, nhưng thực tế lại là ý kiến của Bác nhiều. Tôi rất tiếc hồi ấy chưa quan tâm đến thơ nên không biết ghi chép. Tôi chỉ còn mang máng nhớ một số ý không thành câu thơ như sau:

… Trên đầu có trăng soi
Dưới nước có trăng soi
Bồng bềnh giữa nước đoàn người ngắm trăng
Xa xa súng trận vang ầm
Ngày mai thắng giặc trăng rằm sáng hơn


Bài thơ còn dài nhưng tôi không nhớ nữa. Làm xong bài thơ, Bác đọc lại mọi người vui vẻ…” (T113-116). Như vậy là Bác đã có lần đi thuyền trên sông Đáy, trời đầy trăng sao, núi rừng lặng vắng và Bác đã cùng những người đi trên thuyền làm thơ (chứ không phải chưa một lần đi thuyền trên sông Đáy, làm sao có thơ được). Còn bài thơ Đi thuyền trên sông Đáy, Bác có làm bài thơ vào đêm rằm tháng Tám năm 1949, hay sau đó, chúng ta tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu.


Đó là những ý kiến chúng tôi muốn được trao đổi với anh Hồng Diệu cùng bạn đọc yêu thơ Bác


Bác Cổ, tháng 6 – 2008
L.X.Đ
vannghequandoi.com.vn
 
Vẻ đẹp của bài thơ "Đi thuyền trên sông Đáy"


Hồ Chí Minh là nhà thơ lớn của dân tộc ta. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi và phong phú của Người, thơ luôn là người bạn đường thủy chung và thân thiết. Một trong những bài thơ hay được Hồ Chí Minh viết vào thời kỳ kháng chiến chống Pháp là bài “Đi thuyền trên sông Đáy”.

Bài thơ tiếng Việt được mở đầu bằng thể thơ lục bát dân tộc:

Dòng sông lặng ngắt như tờ

Trước mắt ta hiện lên dòng sông quê thân thuộc trong cảnh vắng lặng “như tờ”. Vẫn là “tỷ” của thơ xưa, có điều đây là lối so sánh rút từ cách nói thường ngày của người lao động Việt Nam, chân quê và hồn hậu. Dẫu thế nào thì cái vẻ im ắng của dòng sông trải dài phía trước trong đêm khuya khoắt kia vẫn dễ gợi ra một nỗi buồn trống trải và cô quạnh. Câu kế theo đã đẩy lùi được tâm trạng có phần u ám ấy:

Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng theo

Liên tiếp những hoạt động của sao, của trăng và của thuyền (nghĩa là của con người). Từng cặp, từng cặp sinh động và hài hòa: “Sao đưa thuyền chạy”, đồng thời “thuyền chờ trăng theo”. Đã nhiều lần ta bắt gặp ánh trăng trong thơ Bác, song trăng, sao lần này hiện lên có khác: sao tỏ và trăng sáng đến lạ lùng! Thêm nữa Bác không “đối nguyệt” mà Bác nhìn hình ảnh của trăng sao qua sự phản chiếu của mặt sông trong vắt. Sự sáng trong của sông nước, cảnh vật chính là sự phản chiếu cái vẻ sáng trong của tâm hồn và cảm xúc đấy thôi! Ngoại cảnh và tâm tư chan hòa đến độ không thể tách rời. Khi phân tích bài thơ “Cảm tưởng đọc Thiên gia thi” có người cho rằng Bác phê phán việc biểu hiện cảnh đẹp thiên nhiên trong thơ cổ. Quả câu dịch không sát góp phần tạo ra cách hiểu lệch lạc này:

Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp

Nguyên văn chữ Hán là: “Cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ”. Bác chỉ không tán thành cái sự “thiên ái” ấy mà thôi. Còn cảnh đẹp nói chung của thiên nhiên thì quý lắm chứ, chúng xứng đáng trở thành nguồn cảm hứng vô tận của nghệ thuật nhất là của thi ca (kể cả nghệ thuật và thi ca cách mạng). Cái quan trọng là nhìn cảnh trí thiên nhiên ra sao kia! Ở đấy, quả có điều gì thật sự mới mẻ. Trong mắt Bác cảnh vật luôn vận động. Lại luôn biến đổi nữa, biến đổi theo quy luật khách quan: “Hết mưa là nắng hửng lên thôi”. Nắng sẽ đến thay mưa, ngày sẽ đến thay đêm, vậy có gì là đáng buồn, đáng bi quan đâu! Hơn thế sự tuần hoàn của tự nhiên đi đôi với những hoạt động, những hành động có chủ đích, có ý thức của con người. Trong câu thơ có trăng, có sao nhưng trên hết và trước hết là có thuyền, thuyền được đặt ở vị trí trung tâm, mọi cái đều hoạt động xoay quanh nó, nhờ sự vận hành của nó. Cấu trúc câu thơ thật rõ: sao – thuyền, thuyền – trăng. Cái nhìn nhân bản của người viết thấm tự bên trong, sâu xa và thấm thía.

Ý thơ được tiếp nối, mở rộng và nâng cao:

Bốn bề phong cảnh vắng teo

Không hiểu sao đọc đến đây, tôi tự nhiên nghe văng vẳng cái vần “eo” trong câu thơ nổi tiếng của Nguyễn Khuyến:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Đó là sự kế thừa hay gặp gỡ, có ý thức hay tình cờ? Thật khó đoán định rạch ròi. Câu đầu: “Dòng sông lặng ngắt như tờ” và đến đây: “Bốn bề phong cảnh vắng teo”. Có cảm giác như ý thơ có phần lặp lại. Nghĩ kỹ thì không phải thế. Từ cái “lặng ngắt” của dòng sông đã chuyển sang sự “vắng teo” của bốn bề chung quanh. Nhưng cái then chốt có lẽ lại không nằm ở đó. Hình như đang có sự chuyển biến tự bên trong, tự sâu thẳm suy tư và cảm xúc. Cảm xúc này đặc biệt rõ khi đọc tiếp câu sau:

Chỉ nghe cót két tiếng chèo thuyền nan

“Chỉ nghe”! Nổi lên trong sự im ắng của đêm khuya của dòng sông duy nhất là tiếng chèo “cót két” của thuyền nan. Câu thơ như lắng lại ẩn chứa nhiều tâm sự. Rất tự nhiên, không chút đường đột, bài thơ chuyển từ “hướng ngoại” sang “hướng nội”:

Lòng riêng riêng những bàn hoàn

Vâng, Bác đã lẩy Kiều như bao người con yêu quý của đất Việt khác. Tôi nói vậy vì có người Việt Nam nào lại không thuộc, không thấm dù chỉ một đôi câu Kiều. Câu 771 “Truyện Kiều”:

Nỗi riêng riêng những bàn hoàn

Gần như nguyên văn. Tuy nhiên trong nghệ thuật cái đó không mấy quan trọng. Cũng như trong những trường hợp tương tự, làm nên thành công không phải ở chỗ “lẩy” Kiều mà ở chỗ biết “lẩy” Kiều. Câu Kiều được Bác rút ra thật đúng lúc, đúng chỗ. Thử hỏi có câu nào lại đắc địa hơn câu ấy! Đây là “nỗi riêng” là “lòng riêng”. Từ “riêng” được láy lại để luyến, để nhấn: vâng, chỉ là nỗi ưu tư rất riêng của một người. Có điều, con người ấy ngay từ buổi thiếu thời đã nguyện hiến cả đời mình cho dân tộc này, không hề do dự đắn đo, nên cái riêng ấy thực sự đã hòa quyện vào cái chung, hơn thế đã thực sự hóa thành cái chung tự bao giờ. Không lấy làm ngạc nhiên khi Bác viết tiếp:

Lo sao khôi phục giang san Tiên Rồng

Hai câu thơ gắn bó làm một, không thể tách rời, để nói về một sự thật mà chính sự thật này đã biến cuộc đời của một con người trở thành bất tử.

Tố Hữu viết về Bác rất đúng rằng:

Bác sống như trời đất của ta

Đó là bởi:

Chỉ biết quên mình cho hết thảy

Đúng vậy, chỉ có hòa vào đại dương giọt nước mới hóa thành vĩnh cửu. Chân lý thật giản dị! Vậy mà chỉ khi tôi đặt chân lên ngôi nhà sàn của Người, dừng thật lâu trước chiếc giường đơn, chiếc chăn đơn, tấm gối đơn của Người tôi mới có điều kiện cảm nhận đến tận củng chân lý ấy! Vì biết quên mình đi nên Bác đã hóa thành tất cả: sông núi này, sự nghiệp này, quá khứ, hiện tại và tương lai của dân tộc này. Nhắc đến con Rồng cháu Tiên câu thơ đã gợi nên những tình cảm thiêng liêng mà bền chặt nhất từng gắn bó con người Việt Nam lại với nhau vì một mục đích duy nhất: Độa lập và Tự do.

Triển khai cảm nghĩ như vậy là đủ, bài thơ đi đến kết thúc:

Thuyền về trời đã rạng đông

Bao la nhuốm một màu hồng đẹp tươi


“Thuyền” đã “về”, đã cập bến, đã tới đích trong một ngày mới với bao dự cảm tốt đẹp. Đây không phải là con thuyền trôi nổi vô định. Nó đã vượt qua đêm để tới ngày – một ngày rực rỡ ánh bình minh; nó đã vượt qua bóng tối để đi ra ánh sáng – một thứ ánh sáng rạng ngời hy vọng. Cái lô gich tự nhiên dễ dàng được chấp nhận vì nó gắn liền với lô gich lòng người – nỗi ưu tư trăn trở trước nỗi lo chung của dân tộc. Mà người ấy lại là Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị Tổng chỉ huy Hồ Chí Minh thì rạng đông ắt sẽ đến với cuộc đời của mỗi người và cuộc sống của cả dân tộc. Lịch sử đã không đợi chờ lâu. Chỉ 4 năm sau, chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy đã chấm dứt ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân cũ, và 25 năm sau với chiến dịch Đại thắng mang tên Người, ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân mới cũng bị đập tan, đưa dân tộc ta bước sang một thời kỳ mới với bao thời cơ và vận hội tốt đẹp.

“Đi thuyền trên sông Đáy” có vẻ đẹp thật giản dị trong sáng mà giàu ý tứ, giàu ý nghĩa. Đó vốn là một trong những biểu hiện nổi bật của phong cách thơ Hồ Chí Minh. Bài thơ cho ta thêm một lần thấm thía tư tưởng và tấm lòng lớn lao như trời bể của Bác. Càng hiểu Bác, càng yêu thương, tự hào về Bác, lòng mỗi người chúng ta càng được thanh lọc để trở nên trong sạch, cao đẹp hẳn lên.

Ngoài ý nghĩa nội tại, bài thơ còn mang những giá trị khách quan khác nhưng không phải không đáng lưu tâm. Hãy nhớ lại thời điểm ra đời của bài thơ. Bác viết vào mùa thu năm 1949. Nhiệm vũ giữ nước được đưa lên hàng đầu, song nhiệm vụ xây dựng đất nước cũng được đặt ra không cấp thiết bằng nhưng lại là cơ bản và lâu dài. Một trong những yêu cầu trọng yếu là phải xây dựng cơ sở cho nền văn hóa mới của dân tộc trong tương lai. Hai vấn đề có trực tiếp liên quan đến văn nghệ và văn nghệ sĩ là sử dụng tiếng Việt ra sao? Và tiếp thu vốn cổ như thế nào? Bác đã nói và Bác cũng đã làm. Giữa lời nói và việc làm của Bác không hề có khoảng cách. Bài thơ hầu như dùng toàn từ thuần Việt, đôi khi thật dân dã. Bác chỉ sử dụng có hai từ Hán Việt trong bài thơ, một thì rút từ Kiều (bàn hoàn), một thì không thể thay thế (giang san). Chẳng phải Bác đã từng căn dặn là nếu tiếng ta không có thì có thể vay mượn từ tiếng nước ngoài đó sao! Đâu cố chấp, hẹp hòi. Bài thơ còn là mẫu mực của sự tiếp thu và sáng tạo truyền thống văn chương tốt đẹp của dân tộc. Rõ ràng, quá khứ vẻ vang của ông cha được khơi dậy, tiếp sức cho chúng ta không chỉ trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm mà còn trong công cuộc xây dựng đất nước phồn vinh và hạnh phúc. Những bài học lịch sử đó luôn sống động trong thực tiễn hôm nay và sẽ còn có ý nghĩa lâu dài mai sau.

“Đi thuyền trên sông Đáy” xứng đáng đi vào lịch sử văn chương dân tộc như một bằng chứng của một nhân cách lớn lao – nhân cách Hồ Chí Minh, của một tâm hồn cao đẹp – tâm hồn Hồ Chí Minh. Bài thơ cùng với tên tuổi, sự nghiệp của Người sẽ trường tồn mãi với thời gian.

B’ Lao, 10-1994

Nguồn :Sưu tầm.
 
Mình thi thoảng nhầm bài này với bài "Rằm tháng giêng " của Người.


"Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lại nguyệt mãn thuyền "

Dịch thơ:

"Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền "



Đọc lại bài thơ Bác viết về mùa Xuân Mậu Tý

Đất nước lại vào xuân với rạng ngời hạnh phúc, một mùa xuân căng đầy nhựa sống, chắp cánh cho ước mơ trước thiên niên kỷ mới. Đã lâu rồi, chúng ta không được nghe tiếng nói ấm áp của Bác Hồ vang lên qua lời thơ chúc Tết. Vậy mà, mỗi khi xuân về, gõ cửa cuộc đời, chúng ta không khỏi bồi hồi nhớ lại những bài thơ xuân mà Bác đã để lại.


Cách đây 60 năm, mùa xuân Mậu Tý năm 1948, Bác "xuất hành" công tác trên chiến khu Việt Bắc, Bác viết bài thơ xuân : "Rằm tháng Giêng" - một bài thơ đầy vẻ đẹp lung linh huyền ảo, trong trẻo và tuyệt mỹ. Cho đến hôm nay, tình yêu mùa xuân bao la đất trời, xuân mênh mang lòng người, rộn rã thấm đẫm hương xuân dịu ngọt trong những vần thơ của Bác mãi mãi đọng lại trong lòng người hôm nay về những vần thơ vẫn lấp lánh vẻ xuân, sắc xuân, khí xuân lộng lẫy, vô cùng kỳ thú. Bài thơ "Nguyên tiêu" ra đời trong khoảnh khắc ngắn ngủi khi Hồ Chủ tịch đi trên thuyền giữa đêm rằm tháng Giêng, nhưng qua những vần thơ ấy ta nhìn thấy chân dung cao đẹp của một nhà cách mạng, một nhà văn hóa với bản lĩnh nghệ thuật và bản lĩnh sống cao đẹp. Bài thơ đẹp như một bức tranh lụa mềm, nhưng cũng đầy chất thép, ngời nghĩa khí và tự tin :

"Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lại nguyệt mãn thuyền "

Trăng rừng Việt Bắc ánh lên niềm vui, soi tỏ một sức sống rạo rực trong tâm hồn người làm thơ đang cùng những người đồng chí bàn quân cơ quốc kế. Nhà thơ Xuân Thủy có mặt trên thuyền xúc động vì bài thơ Bác vừa ứng khẩu, lập tức dịch sang tiếng Việt. Bản dịch giờ đây vẫn nóng hổi cảm xúc, nhạc xuân còn ngân trong lòng người :

"Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền "

Đây là Việt Bắc những ngày kháng chiến, nơi đại ngàn xanh thẫm, lọc ánh trăng thêm xanh, tiếng thầm thì của lá hoa thêm huyền ảo, bức tranh thiên nhiên vào thơ thêm gợi cảm. Trăng-trời-nước cùng bao la, trăng ngự giữa đỉnh trời, vằng vặc sáng, dưới bầu trời là sông mênh mang phản chiếu vẻ đẹp trước một tâm hồn rộng mở, hào phóng, tràn ngập ánh xuân tươi kết tinh trong câu thơ "Rằm xuân lồng lộng trăng soi". Nhưng hai chữ "lồng lộng" ấy đã chuyển chức năng câu tự sự thể hiện sự mong chờ, hồi hộp thành câu thơ miêu tả. Trong thơ Bác "Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên" có nghĩa là "đêm nay rằm tháng giêng chính là lúc trăng tròn" là khi vầng trăng vào độ sáng nhất. Trăng thả đường tơ ánh sáng xuống trời xuân, sông xuân. Câu thơ như chứa đựng một bầu tâm sự, một nỗi niềm. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác, trăng như một người bạn tri kỷ, tri ân luôn song hành cùng với Người. Sau 30 năm bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, mới trở lại đất Cao Bằng, Bác đã trò chuyện cùng trăng, Bác hỏi và trăng trả lời :

Nước Việt bao giờ thì giải phóng
Nói cho nghe thử, hỡi cô Hằng
Trăng rằng "Tôi kính trả lời ông"

Khi Bác bị bắt giam trong nhà tù Tưởng Giới Thạch, vầng trăng lặng lẽ bên Người trong đêm lạnh :

" Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ "

Trăng gần gũi, thân mật đến độ bước thẳng vào cuộc sống sinh hoạt của con người, đẩy cửa sổ cất tiếng hỏi rằng thơ đã xong chưa ("Thi thành vị ?") "Rằm tháng Giêng", sức gợi của vầng trăng thật đặc biệt. Bởi rằm tháng Giêng là đêm trăng tròn đầu tiên, là vẻ đẹp tinh khôi, e ấp đáng được thưởng ngoạn. Câu thơ của Bác được khởi nguồn từ cảm hứng đặc biệt đó, dẫn ta lạc vào một đêm trăng rất đẹp. Hương vị mùa xuân bắt đầu từ dòng sông, tràn ra mặt nước, nhuộm cả mầu trời : "Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên". Sống động và sôi trào, sắc xuân phủ kín cả vũ trụ, sức xuân trỗi dậy với nội lực phi thường. Một mùa xuân căng tràn nhựa sống, thật khác xa với cảnh sắc thiên nhiên nẩy nở trong tư thế tĩnh tại, an nhàn của thơ xưa trong thơ ca cổ điển phương Đông.

Cái vui, cái đẹp trong câu thơ biểu thị một sức mạnh bình thản, tự tin trong tâm hồn Bác. Cảm hứng chủ đạo của câu thơ tả cảnh rất hài hoa kia khởi phát từ một tâm hồn thơ và một bản lĩnh thép trong nhà thơ - chiến sĩ Hồ Chí Minh. Cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc còn bao khó khăn, nhiệm vụ cách mạng còn rất nặng nề, vậy mà Bác vẫn thưởng ngoạn vẻ đẹp đêm xuân, vui với ánh trăng, say với mây trời sông nước. Tâm hồn Bác hòa hợp với thiên nhiên, nhưng không hòa tan, đắm chìm trong cảnh đẹp mà vươn cao hơn, rộng hơn, bao trùm tất cả. Phong thái của Bác thật ung dung, thanh tao và tự tin. Đối diện với vầng trăng, cảm xúc thi ca cũng dâng đầy lên trong Bác. Nhưng Bác còn phải lo cho an nguy của đất nước. Thế là không chỉ một lần, nhà thơ Hồ Chí Minh đành phải lỗi hẹn với vầng trăng tri kỷ để trở về với công việc, cái khung cảnh đẹp như trong mộng ảo, rộng mở và say đắm nước xuân và trời xuân, đó là "bàn bạc việc quân". Kỳ diệu là ở chỗ giữa dòng sông xuân ấy xuất hiện việc "đàm quân sự" trên một con thuyền náu mình sau khói sóng mà không hề lạc lõng chút nào. Hình tượng thơ chuyển hóa vừa táo bạo, bất ngờ, vừa linh hoạt và rất uyển chuyển ấy là nhờ những thi liệu đậm màu cổ điển, khiến đêm trăng Việt Bắc mang đầy phong vị Đường thi :

" Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền "

"Yên ba thâm xứ" là ở sâu giữa nơi "khói sóng" (sông nước) mở ra một không gian thơ mộng, khi tỏ khi mờ. Trong đêm trăng còn đầy hơi nước ấy con thuyền như lướt đi trong lan tỏa khói sương. Phảng phất đâu đây những câu thơ còn mang nỗi u hoài một thuở, bao bọc trong huyền bí mơ màng là bóng hình ẩn sĩ cô đơn :

" Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu".
(Thôi Hiệu)

" Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai ".

Hay câu thơ của Cao Bá Quát :

" Thế sự thăng trầm quân mạc vấn
Yên ba thâm sứ hữu ngư châu"
(Cuộc đời lên xuống anh đừng hỏi
Trong khói sóng có một con thuyền)

Con thuyền bồng bềnh trong sương khói mông lung là dấu hiệu của thơ cổ điển, nhưng câu thơ của Bác được sáng tạo với nét tạo hình đặc sắc, rất tài tình. Cái giá lạnh u uẩn của khói sóng bỗng tan đi khi chốn thâm nghiêm tĩnh mịch ấy được Bác chọn làm địa điểm lý tưởng cho việc "đàm quân sự". Câu thơ tạo nên một bước ngoặt, một từ trường cảm xúc mạnh và sâu, một bầu không khí vừa rất hiện thực, vừa như chốn tiên cảnh bồng lai. Đó là vẻ đẹp đặc biệt toát lên từ tâm hồn Bác, một tâm hồn tràn đầylạc quan, tự tin, cốt cách phong lưu, vô cùng bình dị mà cũng cao cả đến vô cùng.

Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh lộng lẫy: "Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền". Trăng và người quả là có sự hòa đồng, tương cảm tuyệt đối. Trăng thấu hiểu Người bận việc quân, nên lui lại phía sau, lặng lẽ tỏa ánh sáng huyền diệu xuống dòng sông, mặt nước, con thuyền. Giờ việc quân đã xong, Người chợt nhận ra trăng vẫn quấn quýt, đợi chờ. Việc nước và trăng xuân hòa đồng tạo lên một ý nghĩa sâu xa : sắc xuân, ý xuân, sức xuân trên dòng sông xuân đêm Nguyên tiêu chính là màu sắc, âm thanh náo nức của mùa xuân tiến quân lịch sử toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến với niềm tin mãnh liệt :

" Trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi
Thống nhất độc lập, nhất định thành công !"

Sự lạc quan phơi phới chính là vẻ đẹp của bài thơ đầy chất thép trong hồn thơ xuân của Bác. Khi công việc đã xong, con thuyền chở những chiến sĩ cách mạng trở về, cùng với họ là "Bát ngát trăng ngân đầy thuyền". Một hình ảnh thật nên thơ, nên họa, vừa gợi con thuyền chở đầy dải trăng lóng lánh như bạc, vừa có ý nghĩa trăng ngân nga khúc hát mê say. Hiểu cách nào cũng đẹp, và chấp chới giữa dòng sông xuân, con thuyền chở đầy trăng càng đẹp hơn. Bác đã biến cái ảo thành cái thực, vật thể hóa luồng ánh sáng thành những thoi bạc chất đầy vào lòng thuyền. Người làm thơ đã thu cả vũ trụ vào ngọn bút tài hoa của mình, hiển hiện lên một cốt cách, một tâm hồn cao cả. Vằng trăng là nguồn cảm hứng cho nhà thơ ngây ngất đắm say nhưng việc quân mới là thi hứng đích thực cho ngôn từ phát sáng. Con thuyền chở Bác đi giữa đêm xuân "đàm quân sự" trên sông trăng cũng thơ mộng như thuyền thơ chở thi nhân đi tìm thi hứng. Tư tưởng lớn, tình cảm lớn thấm đượm trong từng câu, từng chữ, trong từ trường cảm xúc đằm thắm, trong trẻo. Sức xuân trong trang thơ toát lên từ sự hội tụ, gặp gỡ của ánh trăng lộng lẫy đêm rằm. Sự hài hòa giữa thi hứng của thi nhân và trách nhiệm đối với đất nước, giữa hồn thơ và chất thép, giữa con người thi sĩ và con người chiến sĩ trong bài thơ "Nguyên tiêu" thực sự là một tuyệt tác.

Trong không khí rộn ràng của mùa xuân mới - xuân Mậu Tý 2008, chúng ta hãy ngược dòng thời gian để đọc lại bài thơ Bác viết về mùa xuân cách đây 60 năm nhưng vẫn còn nguyên giá trị thời sự cho hôm nay vẻ đẹp đầy chất thép trong hồn thơ xuân của Bác.

Theo : TS. Vũ Thị Kim Xuyến
(Học viện Chính trị Hành chính Khu vực 1)
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top