Tớ nhớ cậu
New member
- Xu
- 0
[FONT=&]
[FONT=&] Nông dân – giai cấp đông đảo và cách mạng nhất đã và đang trở thành nguồn xung lực to lớn đối với công cuộc giành độc lập dân tộc, bảo vệ tổ quốc và sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa của dân tộc Việt Nam. Xuất phát từ vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông dân mà các nhà sử học ngay từ rất sớm, ngay từ những năm 50 của thế kỷ XX vấn đề nông dân đã được đề cập thời trên các tạp chí hay in ấn thành sách tham khảo, trong đó nổi lên là phong trào đấu tranh của nông dân trong lịch sử chế độ phong kiến. Trong rất nhiều nghiên cứu về phong trào nông dân, bài thảo luận dưới đây xin được đề cập tới một vấn đề quan trọng trong cuộc đấu tranh ấy: đó chính là vấn đề ruộng đất trong phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại.[/FONT]
Trong quá trình nghiên cứu về giai cấp nông dân, C.Mác từng kết luận rằng:“người nông dân không có điều kiện làm ăn sinh sống khi mà tô thuế ngày đêm thúc giục, hành hạ họ…ách tô thuế trở thành nguyên nhân trực tiếp đập vào mắt họ. Vì vậy yêu cầu trực tiếp là phải thoát ngay tình trạng đói nghèo để tiếp tục được sống, được đấu tranh”. Đó là nhận định của một trong những vị lãnh tụ sáng lập ra học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học khẳng định tầm quan trọng của vấn đề ruộng đất trong phong trào nông dân? Nhận định trên liệu có đúng với vấn đề ruộng đất trong phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại? Nghi vấn đó sẽ lần lượt được giải quyết bởi những luận điểm sau đây.
1. Vấn đề ruộng đất là nguyên nhân nhân sâu xa làm bùng nổ phong trào nông dân thời trung đại
Phong trào nông dân là một trong những nội dung quan trọng của lịch sử Việt Nam thời kì trung đại. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc nông dân nổi dậy đấu tranh nhưng nguyên nhân chủ yếu, cơ bản, sâu xa dẫn đến phong trào nông dân là do nhu cầu ruộng đất.
Nông dân là lực lượng sản xuất chủ yếu, ruộng đất là tư liệu sản xuất chính trong xã hội phong kiến. Giữa hai thành tố ấy có mối quan hệ hữu cơ gắn bó, vấn đề nông dân không tách rời khỏi vấn đề ruộng đất. Giữa phong trào đấu tranh của nông dân và chế độ phân phối ruộng đất có quan hệ với nhau. Sự thiếu thốn ruộng đất chính là nguyên nhân sâu xa, cơ bản tác động đến nhiều mặt trong đời sống của người nông dân dẫn đến việc bùng nổ các cuộc khởi nghĩa, nông dân nghèo cầm vũ khí đấu tranh quyết liệt đổ máu để giữ lấy mảnh đất nhỏ bé của mình, chống lại sự cướp đoạt của địa chủ, hoặc giành lại những ruộng đất đã mất vào tay địa chủ.
Thời kì trung đại, ruộng đất mà người nông dân cày cấy là ruộng đất công làng xã. Cùng với sự phát triển của chế độ phong kiến, chế độ sở hữu ruộng đất cũng có nhiều thay đổi. Chính sự suy sụp của ruộng đất công làng xã và sự phát triển mạnh mẽ của ruộng đất tư hữu cùng những tác động của các nhân tố khách quan và chủ quan khác đã đẩy bộ phận nông dân vào tình trạng phiêu tán, đời sống khó khăn, cực khổ và cuối cùng là buộc họ phải nổi dây chống lại nhà nước phong kiến.
Có nhiều nhân tố tác động làm cho chế độ sở hữu tư về ruộng đất ngày càng phát triển, nhưng trong đó có hai nhân tố cơ bản đó là chính sách của nhà nước đối với ruộng đất và hoạt động kiêm tính ruộng đất của địa chủ, cường hào.
1.1. Chính sách của Nhà nước
Các cuộc khởi nghĩa của nông dân là một hiện tượng lịch sử đặc biệt trong lịch sử, khởi nguồn của nó chủ yếu xuất phát từ chính sách ruộng đất do giai cấp cầm quyền thực hiện. Đối với người nông dân thời trung đại, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu của họ, sự nổi dậy của phong trào nông dân phần lớn do vấn đề ruộng đất. Và sự phát triển của phong trào nông dân trong một giai đoạn lịch sử như thế nào, tùy thuộc vào chính sách ruộng đất của Nhà nước và tình hình ruộng đất.
Trong xã hội phong kiến Việt Nam, chế độ sở hữu công về ruộng đất là cơ sở tồn tại của nhà nước phong kiến và tồn tại song song với chế độ sở hữu tư của xã hội đương thời. Bên cạnh ruộng công đến thời Trần, chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất đã phát triển bước cao hơn sơ với giai đoạn trước. Năm 1253 nhà Trần còn cho bán cả công điền cho nông dân làm ruộng tư nữa “Cứ mỗi diện rộng, cho phép dân được bỏ ra 5 quan tiền, mua làm ruộng tư”. Đặc biệt, nhà Trần khuyến khích công hầu, công chúa khai hoang lập điền trang cho nên chế độ điền trang, thái ấp phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển của điền trang đã đẩy mạnh sở hữu ruộng đất lớn của quý tộc Trần, tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ cho hình thái kinh tế phong kiến. Nhưng vào cuối thời Trần, đời sống của nông nô, nô tì trong điền trang bị bóc lột triệt để trở nên hết sức khổ cực, nông dân nghèo bị nông nô hóa đã dẫn đến mâu thuẫn xã hội gay gắt và phong trào nông dân khởi nghĩa cuối thời Trần.
Bước sang thế kỷ XV, là giai đoạn phồn thịnh của chế độ quân chủ phong kiến, là giai đoạn thái bình thịnh trị nhất của chế độ phong kiến. Sau khi Lê Lợi lên nắm chính quyền việc đầu tiên là giải quyết vấn đề ruộng đất. Có thể thấy nét tiêu biểu trong chính sách ruộng đất của nhà Lê là việc ban hành chế độ lộc điền – phép quân điền năm 1477, thời Hồng Đức. Chế độ lộc điền thời Lê thay thế chế độ thái ấp điền trang thời Lý – Trần, nó không tạo điều kiện cho yếu tố cát cứ phát triển. Một số ruộng thế nghiệp của lộc điền có xu hướng trở thành ruộng tư, người được cấp trở thành quan liêu – địa chủ. Lộc điền là chế độ ruộng ban cấp cho công thần, quan lại, quý tộc: ngoài tước hiệu, mỗi người được 500 mẫu. Đến thời Lê Thánh Tông ban hành chế độ lộc điền, quy định mỗi chức tước được cấp một số lượng nhất định.
Về chính sách ‘quân điền” được thực hiện dưới thời Lê Thái Tổ và hoàn thiện dưới thời vua Lê Thánh Tông. Đối tượng được chia ruộng kể từ các quan tam phẩm (nếu chưa có hoặc có ít ruộng lộc điền) được chia 11 phần tới các cô nghi, quả phụ được 3 phần. Người cày ruộng phải nộp tô cho Nhà nước. Đây là chính sách tiến bộ, tích cực của nhà Lê trong việc giải quyết vấn đề ruộng đất cho nhân dân sản xuất, ai nấy đều có ruộng cày cấy, cuộc sống yên ổn, không có lọan lạc chiến tranh.
Dưới thời trị vì của vị vua đầu nhà Lê, đã ban hành chính sách ruộng đất tiến bộ đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Đồng thời chăm lo, quản lý tích cực mọi mặt của đất nước đã tạo nên tình hình kinh tế - xã hội ổn định, đời sống nhân dân ấm no. Vì thế, thời kỳ đầu của nhà nước Lê sơ không có một cuộc nổi dậy nào của nhân dân đứng lên chống lại nhà nước. Qua đó thể hiện sự hài hòa, tương khích giữa chính sách ruộng đất và phong trào nông dân.
Bước sang thế kỷ XVI, nhà nước phong kiến của triều Lê không còn thịnh trị như trước, dấu hiệu phong trào nông dân xuất hiện, cho thấy chính sách ruộng đất thời kỳ này tỏ ra mâu thuẫn với nhân dân, nó xuất phát từ chính sách của nhà cầm quyền. Ruộng công lãng xã bị xâm lấn, chính sách quân điền bị phá sản. Năm 1510, Lê Tương Dực còn cho phép các công thần được tìm kiếm những ruộng đất ẩn lậu báo lên triều đình làm ruộng tư. Điều đó tạo điều kiện cho quan lại, cường hào cướp đoạt ruộng đất của dân, gây nên phản ứng mạnh mẽ trong thôn xóm. Sự suy thoái về chính trị, cùng với chính sách của nhà nước đối với nền nông nghiệp trong đó chế độ ruộng đất ngày càng đi vào bế tắc, thêm vào đó là tình trạng chấp chiếm, cướp đoạt ruộng đất của bọn quan lại, cường hào…làm cho nông dân không có ruộng đất để cày cấy, người dân nhiều nơi phải xiêu tán. Điều này dẫn đến sự bùng nổ các cuộc đấu tranh của nông dân chống lại triều đình phong kiến thối nát.
Từ nửa đầu thế kỷ XVIII, sự chiếm đoạt và tập trung ruộng đất của địa chủ trở thành hiện tượng phổ biến, ruộng tư ngày càng phát triển. Ruộng đất công làng xã phần lớn bị nhà nước cắt xén để ban cấp cho quan lại và quân lính, nên số ruộng đất chia cho nông dân còn lại ngày càng ít. Hàng loạt nông dân bị gạt ra khỏi ruộng đất, hoặc cố bám lấy mảnh ruộng “chết đói” để gắng gượng một cuộc sống hết sức cơ sực. Xuất phát từ lợi ích và sự tồn vong của nhà nước quân chủ, các chúa Trịnh nhiều lần ra lệnh nghiêm cấm việc kiêm tinh ruộng đất của giai cấp địa chủ, nhưng lệnh cấm của nhà nước cũng không mấy hiệu quả. Năm 1740, Trịnh Doanh phải đề ra biện pháp giải quyết vấn đề ruộng đất, có ý muốn phỏng theo chế độ “tỉnh điền” đời Chu (Trung Quốc) để “quân bình giàu nghèo”, “chia đều thuế dịch”…nhưng không thực tế và không thể thực hiện được, nó chứng tỏ tính chất nghiêm trọng của vấn đề ruộng đất và sự bế tắc, bất lực của nhà Lê – Trịnh trong việc giải quyết vấn đề. Ở thế kỷ XVIII, do chế độ bán quan mua tước phổ biến nên nhà nước có lệ người nào nộp tiền thì được làm quan. Do đó, giai cấp địa chủ giàu có đã bỏ tiền của để mua quan tham gia chính quyền. Với chức vụ mới và lợi dụng chức vụ, chúng càng ra sức bóc lột nhân dân, xâm chiếm ruộng đất và ức hiếp nhân dân. Nông dân mất ruộng đất càng bị địa chủ bóc lột nặng nề, nền kinh tế tiểu nông càng bị phá hoại.
Cùng với đó, nhà nước thực hiện chính sách thuế khóa nặng nề và những thủ đoạn bóc lột tàn bạo đối với nông dân. Năm 1741, “vì dụng binh phải tiêu tốn, bổ thêm thuế ruộng công ruộng tư mỗi mầu hai tiền quý”. Họ Trịnh còn đánh thuế cả những ruộng đất không sản xuất được như đồng chua, nước mặn…Thuế khóa nặng nề chồng chất đến nỗi người nông dân cùng khổ quanh năm bòn vét cũng không đủ nộp thuế, dân chúng ngày một cùng quẫn. Từ đó làm cho mâu thuẫn có tính đối kháng trong xã hội phong kiến Đàng Ngoài trở nên quyết liệt.
Cũng giống như ở Đàng Ngoài, từ nửa cuối thế kỷ XVIII, giai cấp thống trị từ vua, chúa, quan lại đua nhau ăn chơi xa xỉ, sa đọa, không quan tâm đến đời sống nhân dân. Từ thế kỷ XVII, tình hình chiếm đoạt ruộng đất và tập trung ruộng đất đã diễn ra phổ biến ở Đàng Trong và sang thế kỷ XVIII, có nhiều thôn xã ruộng công bị xâm chiếm hay cầm bán gần hết “đến nỗi nông dân không có ruộng làm nghề sinh sống”. Chính sách thuế khóa của chính quyền họ Nguyễn rất nặng nề, phức tạp. Những tệ nạn tham ô của quan lại càng làm cho đời sống của nhân dân thêm điêu đứng. Mâu thuẫn chất chứa trong xã hội Đàng Trong ngày càng gay gắt và bùng nổ thành cuộc khởi nghĩa, tiêu biểu khởi nghĩa Tây Sơn.
Bước sang nửa đầu thế kỷ XIX, ruộng đất công làng xã trong toàn quốc bị thu hẹp rất nhiều, sở hữu tư nhân về ruộng đất chiếm đại bộ phận. Trước thực trạng đó, vương triều Nguyễn đã ban hành và thực hiện nhiều chính sách về ruộng đất. Năm 1804, vua Gia Long cho ban hành “điền chế quân lệ”. Đến thời vua Minh Mạng, đã cho thực hiện phép quân điền ở Bình Định, bước đầu thu được kết quả, nhưng thực tế ruộng đất nằm trong tay giai cấp địa chủ, người nông dân chỉ được ruộng xấu, khô cằn. Trong khi ruộng đất công làng xã bị thu hẹp vì nạn kiêm tính ruộng đất, triều Nguyễn thi hành chế độ thuế khóa khắt khe nhằm bảo đảm nguồn bóc lột chủ yếu của nhà nước phong kiến. Riêng về ruộng đất, nhà Nguyễn chia cả nước thành những khu vực đánh thuế khác nhau. Thuế ruộng đất ở Đàng Ngoài nặng hơn Đàng Trong hai lần. Những năm mất mùa, người dân không đủ thóc đống thuế, nhà nước thực hiện chính sách “đại nạp”, triều đình có lệnh thu giảm thuế cho dân, thì lại rơi vào túi quan lại thu thuế.
Nhìn chung, nửa đầu thế kỷ XIX, bản thân nhà nước có ý thức kiểm soát sự phát triển của ruộng tư, ổn định xã hội. Qua hàng loạt chính sách như khai hoang, quân điền, kêu gọi địa chủ hiến ruộng đất thay đổi tỉ lệ ruộng đất của đại địa chủ nhưng chỉ chính sách khai hoang phát huy hiệu quả, còn lại không mang lại kết quả như mong muốn của triều Nguyễn. Cho nên, nạn kiêm tính ruộng đất phát triển mạnh mẽ, tham nhũng, chế độ thuế khóa nặng nề…đã dẫn đến nạn dân phiêu tán, ruộng đất bỏ hoang và nạn đói diễn ra. Chính điều này là nguyên nhân sâu xa làm bùng nổ cuộc đấu tranh của nông dân diễn ra sôi nổi ngay từ đầu thời Nguyễn, chi phối mức độ, cường độ khởi nghĩa nông dân nửa đầu thế kỷ XIX.
Tóm lại, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu và gắn liền với người nông dân nên những biến động về hình thái sở hữu ruộng đất và chính sách ruộng đất thường là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự bùng nổ của khởi nghĩa nông dân. Điều này được thể hiện rất rõ qua các triều đại phong kiến nước ta, khi nhà nước đảm bảo ruộng đất cho người nông dân sản xuất và chăm lo đời sống của họ thì không có cuộc nổi dậy nào của nông dân (thời kỳ đầu nhà Lê sơ) chống lại nhà nước nhưng khi nhà nước suy yếu, chính sách ruộng đất của nhà nước không đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, ngược lại còn ban hành chế độ hà khắc, quan lại cướp đoạt ruộng đất, hà hiếp nhân dân…làm cho đời sống người nông dân cực khổ. Mâu thuẫn trong xã hội phong kiến gay gắt tất yếu dẫn đến sự bùng nổ của phong trào nông dân.
1.2 Hoạt động kiêm tính ruộng đất của địa chủ, quan lại, cường hào
Trong lịch sử trung đại Việt Nam, chế độ sở hữu công về ruộng đất là cơ sở tồn tại của nhà nước phong kiến và tồn tại song song với chế độ sở hữu tư. Nhà nước phong kiến quân chủ chuyên chế tồn tại dựa trên việc thu tô thuế từ ruộng đất công làng xã. Sự phát triển của chế độ tư hữu ruộng đất đe dọa đến sự tồn tại của nhà nước phong kiến nhưng các triều đại phong kiến vẫn phải chấp nhận sự tồn tại của nó. Trong lịch sử, ruộng đất tư luôn luôn phát triển và có xu hướng lấn át ruộng công. Và một trong những nguyên nhân dẫn đến sự phát triển của ruộng tư là hoạt động kiêm tính của quan lại, địa chủ, cường hào.
Giai cấp địa chủ phong kiến là một giai cấp cơ bản trong xã hội phong kiến châu Á. Trong suốt thời kì trung đại, vì quyền lợi của mình, giai cấp này luôn tìm cách chiếm đoạt ruộng đất công, biến thành sở hữu tư. Khi ruộng đất tư của địa chủ chưa phát triển thì diện tích công làng xã vẫn còn đủ đảm bảo cho nông dân những khẩu phần thích đáng. Nhưng khi giai cấp địa chủ đã lấn chiếm nghiêm trọng vào ruộng đất công làng xã thì mảnh ruộng khẩu phần dành cho nông dân ngày càng bị thu hẹp, thậm chí, sau khi chia ruộng đất cho các loại quan lại thì không còn ruộng đất chia cho nông dân nữa, tình trạng kiêm tính ruộng đất diễn ra ở mỗi triều đại.
Đặc biệt vào cuối mỗi triều đại, khi chính quyền trung ương suy yếu, các thế lực cát cứ lại nổi dậy, địa chủ lại lợi dụng thế lực của mình thôn tính ruộng đất.
Cuối thế kỉ XIV, địa chủ lợi dụng mất mùa đói kém xâm chiếm ruộng đất của nông dân, mua rẻ ruộng đất, mở rộng điền trang, tăng số người làm, nhiều nhà chùa cũng trở thành chủ đất lớn với nhiều điền nô.
Thế kỉ XV, chế độ phong kiến Việt Nam hoàn toàn được xác lập. Chính sách quân điền được ban hành. Trong bối cảnh ruộng đất công còn nhiều thì chế độ quân điền phát huy tác dụng. Thế nhưng đến cuối thời Lê, thế kỉ XVI, đất nước rơi vào khủng hoảng. Đại Việt sử kí toàn thư chép: “ Từ thời Đoan Khánh ,(tức Lê Uy Mục) nội triều can chính, ngoại thích chuyên quyền, pháp lệnh phiền hà, kỉ cương rối loạn, nông tang thất nghiệp, phong tục suy đồi, bọn quan lại địa chủ xâm chiếm ruộng đất của dân, cướp đoạt tài sản của dân”. Ruộng đất công làng xã bị lấn chiếm làm cho chính sách quân điền bị phá sản. Năm 1510, Lê Tương Dực còn cho phép các công thần được tìm kiếm những ruộng đất ẩn lậu báo lên triều đình làm ruộng tư. “Chỉ dụ đó khác nào nối giáo cho giặc, tạo điều kiện cho quan lại, hào cường cướp đoạt ruộng đất của dân”. Điều đó làm cho số lượng không nhỏ nông dân bị mất đất phải xiêu tán.
Sang thế kỉ XVII- XVIII, nền kinh tế hàng hóa xuất hiện ở nước ta cùng với sự nảy sinh của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Mặc dù nó chưa đủ điều kiện để tạo ra quan hệ sản xuất mới, làm tan rã quan hệ sản xuất phong kiến nhưng lại thể hiện khả năng và xu thế phát triển của nước ta lúc bấy giờ. Nhưng từ nửa đầu thế kỉ XVIII, cùng vơi sự sa đọa thối nát của chính quyền thống trị, sự bóc lột tàn bạo của địa chủ làm cho nền kinh tế tiểu nông bị phá sản, xô đẩy hàng loạt nông dân ra khỏi làng xã và đồng ruộng.
Thế kỉ XVIII, sự chiếm đoạt và tập trung ruộng đất của giai cấp địa chủ trở thành hiện tượng phổ biến và hết sức nghiêm trọng. Đây là thời kì mà xã hội Đàng Ngoài chứng kiến một sự phát triển mạnh mẽ của chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất, phần lớn ruộng đất đã nằm trong tay giai cấp địa chủ phong kiến. Bằng nhiều hình thức và thủ đoạn, bọn địa chủ, quan lại, hào cường khắp mọi nơi chấp chiếm ruộng đất tư của nông dân, xâm chiếm ruộng đất công. Trước tình trạng địa chủ chiếm ruộng đất công, năm 1711, chúa Trịnh Cương đã ban hành chững chỉ dụ nhằm hạn chế sự tập trung ruộng đất vào tay địa chủ. Tuy nhiên, bất chấp chỉ lệnh của phủ chúa, giai cấp địa chủ vẫn ra sức chiếm đoạt ruộng đất của nông dân. Đến năm 1728, “ruộng đất rơi hết vào tay hào phú, còn dân nghèo thì không một miếng đất cắm dùi”.
Sang thế kỉ XIX, nạn kiêm tính ruộng đất lại diễn ra nghiêm trọng hơn. Chỉ tới đầu thế kỉ XIX, sở hữu tư nhân về ruộng đất đã chiếm vị trí bao trùm (83% diện tích ruộng đất của cả nước). Trong lịch sử chế độ ruộng đất Việt Nam, chế độ sở hữu tư về ruộng đất luôn bị nhà nước kiểm soát ở mức độ nhất định (chính sách hạn điền của Hồ Quý Ly thế kỉ XV). Vì vậy, vì lợi ích của mình, giai cấp địa chủ đã bằng mọi cách thao túng tổ chức làng xã. Bằng cách này, địa chủ vừa nhân danh làng xã trong mối quan hệ với nhà nước lại vừa nhân danh nhà nước trong mối quan hệ với người nông dân, mà ở mặt nào họ cũng vì lợi ích của mình, lũng đoạn bộ máy quản lí làng xã. Địa chủ biến thành cường hào, hạch sách người nông dân, cậy quyền thế chiếm đoạt ruộng đất tốt.
Về nạn cường hào thế kỉ XIX, Nguyễn Công Trứ viết: “chỗ nào chúng cũng cùng nhau anh chị, chuyên lợi làm giàu, dối cả quan trên để thỏa lòng riêng. Có công điền công thổ thì chúng bày việc thuê mướn làm béo mình, những dân nghèo khổ thì kêu vào đâu được…Thậm chí còn ẩn lậu dinh điền, ruộng đất nghìn mẫu không nộp thuế, chỉ đầy túi bọn hào cường, đinh đến trăm suất không đăng kí, chỉ phục dịch riêng cho bọn hào cường”.
Trong lịch sử trung đại Việt Nam, nạn kiêm tính ruộng đất của địa chủ cường hào đã có tác động mạnh mẽ đến chế độ sở hữu ruộng đất, làm cho ruộng đất công làng xã dần bị thu hẹp, chế độ sở hữu của nhà nước bị đe dọa nghiêm trọng. Chế độ sở hữu tư ngày càng phát triển, ruộng đất công bị thu hẹp dần. Đến đầu thế kỉ XIX, ruộng đất tư đã chiếm một phần đáng kể. Do vậy mà một nguồn thu đáng kể của ngân sách nhà nước từ tô thuế đã bị suy giảm nghiêm trọng, để bù vào ngân sách, triều đình đã thực hiện biện pháp tăng thuế. Về phía người nông dân, do thiếu ruộng phải cày thuê ruộng đất của địa chủ, do đó càng bị lệ thuộc vào địa chủ và bị bóc lột nặng nề hơn. Chính sách quân điền bị phá sản, ruộng đất công làng xã không còn là chỗ dựa kinh tế của người nông dân, cũng không còn là nguồn lợi gắn bó chặt chẽ với cuộc sống của họ với làng xã một cách bền vững. Cộng thêm chế độ tô thuế vô cùng nặng nề đã làm cho người nông dân bị bần cùng hóa, người nông dân buộc phải rời bỏ làng xã đi phiêu tán khắp nơi. Đời sống của họ vô cùng cực khổ. Mâu thuẫn trong xã hội phong kiến ngày càng gay gắt, phong trào nông dân bùng nổ là điều tất yếu.
Ngoài những yếu tố nêu trên, nhân tố tự nhiên cũng có tác động nhất định đến tình hình ruộng đất. Thiên tai lũ lụt, hạn hán làm cho người nông dân không thể canh tác được ruộng đất, diện tích đất bỏ hoang, diện tích đất không thể trồng cấy được tăng lên rất nhiều.
2. Tác động của tình hình ruộng đất tới đặc điểm của phong trào nông dân qua các thế kỷ nông dân khởi nghĩa
Nguyên nhân sâu sa của tất cả các cuộc khởi nghĩa của nông dân thời trung đại đều bắt nguồn từ vấn đề ruộng đất, mà biểu hiện của nó là tình cảnh người nông dân mất đất, buộc phải lưu tán, bị đẩy vào con đường bần cùng hóa dẫn đến các cuộc đấu tranh vì ruộng đất. Có thể khẳng định rằng tất cả các cuộc khởi nghĩa trong sự xuyên suốt của lịch sử trung đại đều xuất phát từ nguyên do trên. Nhưng ở các thời kỳ khác nhau, trên những khu vực khác nhau lại diễn ra các cuộc khởi nghĩa với những mức độ và đặc điểm khác nhau. Có sự khác nhau đó là do mức độ khác nhau của quá mất ruộng đất của người nông dân qua các thời kỳ. Vậy điều gì tác động đến sự phát triển khác nhau trong tình hình ruộng đất đó?
Tìm hiểu rõ ngọn nghành của vấn đề này sẽ giúp chúng ta có thể khai thác một khía cạnh mới trong khi nghiên cứu vấn đề ruộng đất trong phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại, đó là : tình hình ruộng đất với đặc điểm của phong trào nông dân qua các thế kỷ nông dân khởi nghĩa. Tình hình ruộng đất trên được nghiên cứu trên hai khía cạnh tác động đến nó là sự vận động của chế độ phong kiến Việt Nam thời trung đại và sự vận động ở những vùng đất khác nhau qua các thời kỳ đó. Còn đặc điểm của phong trào nông dân được thể hiện trên các khía cạnh như quy mô, số lượng, thành phần tham gia…để cuối cùng đi tới kết luận: tình hình ruộng đất có tác động như thế nào đến đặc điểm của phong trào nông dân qua các thế kỷ khởi nghĩa.
2.1 Trong các thế kỷ XIV và XVI-XVII
Thứ nhất: Nghiên cứu tác động tình hình ruộng đất trong sự vận động của chế độ phong kiến đến đặc điểm của phong trào nông dân.
Một đặc điểm nổi bật của phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại là các cuộc khởi nghĩa thường nổ ra ở cuối mỗi triều đại khi mà các triều đại phong kiến lâm vào cuộc khủng hoảng, suy yếu. Chúng ta có thể kể tới các trường hợp điển hình như các cuộc khởi nghĩa của Thân Duy Mạc, Ngô Văn Tổng (1511), khởi nghĩa của Trân Cảo (1516) diễn ra vào cuối triều Lê; khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu (1735-1751), khởi nghĩa Danh Phương (1740-1751) ở Đàng Ngoài và tiêu biểu nhất là phong trào nông dân Tây Sơn (1771-1792)…
Tuy nhiên đến triều đại nhà Nguyễn cầm quyền vào đầu thế kỷ XIX thì rõ ràng các phong trào nổ ra ngay từ thời trị vì của vua Gia Long và Minh Mạng, những vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn. Như vậy kết luận rằng các cuộc khởi nghĩa chỉ nổ ra theo chu kỳ khủng hoảng của các triều đại là chưa thỏa đáng.
Đặc điểm của phong trào nông dân cần thiết phải đặt trong sự phát triển của cả chế độ phong kiến Việt Nam thời trung đại, tức đặt nó trong sự pháttriển thịnh - suy của chế độ phong kiến với tư cách là một phương thức sản xuất . Để từ đó thấy được mỗi thời kỳ vận động của chế độ phong kiến thì mức độ về sự bần cùng hóa của người nông dân vì ruộng đất diễn ra như thế nào? Từ đó có ảnh hưởng như thế nào tới đặc điểm của phong trào nông dân.
Trong thế kỷ XIV: tình hình ruộng đất trong thời kỳ hình thành của chế độ phong kiến và ảnh hưởng của nó tới đặc điểm của phong trào nông dân trung đại.
Nhà nước phong kiến Việt Nam được hình thành từ thế kỷ thứ X nhưng gần 4 thế kỷ sau đó mới có cuộc khởi nghĩa đầu tiên của nông dân nổ ra vào năm 1344. Các cuộc khởi nghĩa nổ ra do sự phát triển của điền trang – thái ấp với hoạt động kiêm tình ruộng đất ngày càng tăng của các vương công, quý tộc… Đầu thế kỷ XIV, nhân những năm đói kém, nông dân bỏ làng đi lưu tán, thiếu đói phải chạy vào các điền trang “làm nô cho các thế gia”. Nhân lực lượng đó, bọn quý tộc Trần càng ra sức khai hoang cướp đất, mở rộng phần sở hữu của mình, người nông dân mất đất, quá trình nông nô hóa của người nông dân ngày càng tăng.Các cuộc khởi nghĩa lần lượt nổ ra.
Song Trương Hữu Quýnh trong cuốn sách “ chế độ ruộng đất phong kiến từ thế kỷ XIII – XV” đã nhận xét rằng: “mặc dù có sự khác nhau về mức độ, từ đầu thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XV, chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất luôn giữ địa vị thống trị. Đương thời nó là cơ sở kinh tế chủ yếu, nguồn bóc lột chủ yếu của nhà nước trung ương và cũng là cái gốc tạo nên sức mạnh và sự bền vững của chính trị nhà nước . Cùng với chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất công ở các thế kỷ này, việc duy trì chế độ chiếm hữu làng xã về ruộng đất công có ý nghĩa đặc biệt quan trọng”. Qua nhận xét trên của tác giả có thì có thể nhận thấy rằng, việc phát triển của các điền trang - thái ấp dẫn tới quá trình nông nô hóa người nông dân, tạo ra “mâu thuẫn chủ yếu trong giai đoạn đầu của chế độ phong kiến Việt Nam là mâu thuẫn giữa chế độ chiếm hữu của quí tộc, công thần và chế độ sở hữu của nông dân” chứ chưa phải là mâu thuẫn của quan hệ giữa toàn thể nông dân với địa chủ phong kiến. Vì trên thực tế lúc này ruộng đất công vẫn chiếm địa vị chủ đạo. Nhà nước trong thời kỳ hình thành vẫn có dư sức mạnh để có thể quản lý ruộng đất công, hay nói cách khác là vẫn đủ sức duy trì quyền sở hữu ruộng đất của làng xã, quyền lợi của người nông dân công xã vẫn được đảm bảo. Ruộng đất tư hữu phát triển nhưng chưa thực sự giữ vài trò quan trọng.Về sau, nhà nước mà tiêu biểu là cải cách của Hồ Quý Ly với các chính sách hạn nô, hạn điền đã ra sức xóa bỏ các điền trang phong kiến, nhằm bảo vệ ruộng đất công làng xã cho người nông dân.
· Chính những đặc điểm trên của tình hình ruộng đất thế kỷ XIV đã quy định đặc điểm trong phong trào nông dân thời kỳ này, trong đó:
Vấn đề ruộng đất đặt ra trong thời kỳ này là thủ tiêu chế độ chiếm hữu của lãnh chúa, thủ tiêu các đại điền trang phong kiến. Phong trào nông dân trong thời kỳ này là thủ tiêu căn bản chế độ đại điền trang, chế độ bóc lột điền nô và nô tì.
Thành phần tham gia chủ yếu là nông dân nghèo, nông nô và nô tì. Trong đó nông nô và nô tì là động lực chủ yếu của phong trào thời kỳ này chứ chưa phải là nông dân công xã, vì mâu thuẫn trên chưa ảnh hưởng đến đại bộ phận nông dân trong các lãng xã (như đã lý giải ở trên vì lúc này yêu cầu của đại bộ phận nông dân công xã về ruộng đất vẫn được đảm bảo).
Số lượng của phong trào cũng bị chi phối bởi đặc điểm trên. Đó là việc trong trong gần 50 năm (1344-1399) mới có 6 cuộc khởi nghĩa nổ ra. Quy mô của phong trào cũng chỉ nổ ra lẻ tẻ ở các địa phương như Thanh Hóa, Hải Dương, Nghệ An.
Như vậy có thể kết luận trong thời kỳ này các cuộc khởi nghĩa của nông dân không nhiều, lẻ tẻ ở các địa phương. Chỉ có thể lý giải được điều này bằng cách thấy được tình hình ruộng đất trong bối cảnh chế độ phong kiến vẫn đang trong thời kỳ hình thành : ở đó nhà nước vẫn còn nắm giữ đại bộ phận ruộng đất công, lấn át ruộng tư, yêu cầu về ruộng đất của người nông dân
vẫn được đảm bảo.
Mặt khác thời kỳ này, các chính sách khai hoang của nhà nước thời kỳ này vẫn phát huy được hiệu quả đối với người nông dân. Trương Hữu Quýnh đã chỉ ra 3 lần khai hoang và tác động của nó đến vấn đề ruộng đất của người nông dân.
Công cuộc khai hoang lần thứ nhất, chế độ sở hữu điền trang được thiết lập, vấn đề lưu vong được giải quyết. Diện tích trồng trọt tăng lên, thu nhập quốc dân nhiều. Đất nước có sức để chống lại các cuộc xâm lược từu bên ngoài.
Công cuộc khai hoang lần thứ hai, đất nước dần được phục hồi. Nhà nước có điều kiện ban hành chính sách quân điền, giải quyết yêu cầu ruộng đất của dân cày và nô tỳ.
Với công cuộc khẩn hoang lần thứ ba, diện tích trồng trọt được mở rộng thêm, số lượng nông dân tự do, tư hữu tăng nhanh, giải quyết được tình trạng thiếu ruộng đất bắt đầu đe dọa.
Trong thế kỷ XVI-XVII: tình hình ruộng đất trong thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến.
Đến cuối thời Lê nhà nước phong kiến ngày càng suy yếu, bất lực, không đủ sức bảo vê sản xuất, chống lại thiên tai. Vai trò tích cực của nhà nước trong nông nghiệp đã chuyển sang giai đoạn ăn bám, trụy lạc. Từ thời Túc Tông trở đi, triều đình không , chăm lo đến công việc đê điều thủy lợi, phó mặc ruộng đất cho thiên tai hoành hành.
Tất cả thuế khóa, lực dịch ấy cùng với nạn cướp bóc, tham nhũng của bọn thống trị đè nặng lên đầu nhân dân mà chủ yếu là nông dân. Nông dân bị mất ruộng đất lại bị bóc lột nặng nề, lâm vào tình trạng đói khổ, bần cùng. Nạn hạn, lụt, đói kém... lại xảy ra liên tiếp, càng đẩy mạnh thêm tình trạn thống khổ của người nông dân. Lòng bất bình, oán hận của người nông dân dâng cao. Mâu thuẫn cơ bản giữa nông dân với địa chủ phong kiến, giữa toàn dân với bọn thống trị ngày càng lên cao gay gắt bộc lột thành những cuộc bạo động nông dân khắp nơi.
· Điều đó đã tác động tới đặc điểm của các cuộc khởi nghĩa thời kỳ này:
Lực lượng tham gia phong trào thời kỳ này đã mở rộng hơn thời kỳ trước: nông dân công xã chủ yếu là dân nghèo, một bộ phận lực lượng vũ trang là dân binh … trong đó lực lượng đóng vai trò quan trọng, động lực của cuộc khởi nghĩa nông dân là nông dân công xã ( không phải là lượng lực nông nô và nô tì thời kỳ trước vì tới thời kỳ này quyền lợi về ruộng đất của nông dân công xã đã trực tiếp bị ảnh hưởng.
Các cuộc khởi nghĩa nổ ra và lan tỏa ở nhiều địa phương ở Bắc bộ và Bắc trung Bộ như Sơn Tây, Hưng Hóa, Nghệ An, Thanh Hóa, Hải Phòng, Hải Dương…các cuộc khởi nghĩa không còn bó hẹp trong một vùng mà lan rộng ra nhiều địa phương, mang tính rộng lớn hơn phong trào nông dân thế kỷ XIV.
Song cần nhận thấy rằng các cuộc khởi nghĩa của nông dân nổ ra trong thế kỷ XVI- XVII nhưng chủ yếu trong thế kỷ XVI. Ngay trong thế kỷ XVI thì phong trào nông dân cũng nổ ra mạnh mẽ ở thời điểm đầu và thời điểm cuối. Các cuộc khởi nghĩa nổ ra từ 1511 đến 1522 nhưng phải tới gần 50 năm sau đó, tức năm 1571 thì phong trào nông dân mới nổ ra. Tại sao như vậy? Tại sao khi mà quan hệ địa chủ- tá điền đã được xác lập ở thế kỷ XV và tới thời kỳ này đã phát triển thành mâu tuẫn kinh tế cơ bản của chủ nghĩa phong kiến – mâu thuẫn giữa chế độ sở hữu ruộng b đất phong kiến và kinh tế cá thể của nông dân ngày càng gay gắt thì phong trào đấu tranh của nông dân vẫn chỉ dừng lại ở mức độ nhất định.
Phải chăng đó là sự độc đáo của thời kỳ này, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế hàng hóa liệu có liên quan gì tới vấn đề ruộng đất của người nông dân. Thời kỳ này cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa thì cũng là lúc phong trào nông dân nổ ra ít nhất.
Mặt khác sự khủng hoảng của nhà Lê dẫn tới sự bất lực của triều đình trong việc cân bằng ruộng công và ruộng tư chủ yếu xuất phát từ sự yếu kém của các vị vua cuối triều đại chứ chưa phải là sự khủng hoảng của cả một chế độ chính trị. Trên thực tế chính sách quân điền của nhà nước vẫn phát huy tác dụng. Thêm vào đó với những nỗ lực của nhà Mạc, nông nghiệp có sự phục hổi, sản xuất phát triển. Do đó đến thế kỷ XVII, nhu cầu về ruộng đất của người dân vẫn được đảm bảo.
Một điểm đáng lưu ý để giải thích tại sao trong thời kỳ hình thành và phát triển của chế độ phong kiến thì như cầu về ruộng đất của nông dân vẫn được đảm bảo. Đó chính là sự tồn tại của chế độ tư hữu nhỏ của nông dân. Tục chia đều gia tài cho con cái, công cuộc khai hoang thường xuyên và được nhà nước khuyến khích và thực hiện có hiệu quả đã góp phần quan trọng vào việc duy trì hình thức trên. Hình thức sở hữu nhỏ về ruộng đất, do đó đứng vững ngay cả ở giai đoạn phát triển của chế độ sở hữu lớn. Quá trình đó làm chậm quá trình biến đối của người nông dân thành người phụ thuộc phong kiến. Do đó các cuộc khởi nghĩa của nông thời kỳ này vẫn chưa quyết liệt và số lượng chưa thực sự lớn.
Như vậy cần khẳng định rằng chế độ phong kiến trong thời kỳ hình thành, xác lập và phát triển thì quá trình bần cùng hóa của người nông dân về ruộng đât diễn ra chậm chạm hơn, mẫu thuẫn xã hội cũng chưa phát triển đến độ gay gắt, chỉ dừng lại những mâu thuẫn trong một bộ phận người nông dân chứ chưa phải là toàn bộ nông công xã.
Thứ hai: Nghiên cứu vấn đề ruộng đất theo không gian địa lý với đặc điểm của phong trào nông dân
Vấn đề trên được đề cập tới ở đây là việc xem xét trong mối quan hệ đối lập giữa tình hình ruộng đất giữa vùng đất mới khai phá với vùng đất đã được khai phá lâu đời có ảnh hưởng như thế nào tới đặc điểm của phong trào đấu tranh của nông dân thời kỳ này.
Giữa thế kỷ XVI ( năm 1558) , Nguyễn Hoàng xin vào trấn thủ Thuận Hóa, mở đầu cho quá trình “ Nam tiến” của nước Đại Việt. Sau chiến tranh Trịnh – Nguyễn đã hình thành nên sự phân chia Đàng Trong, Đàng Ngoài, trong đó: vùng đất từ song Gianh trở ra Bắc ( Bắc Hà) gọi là vùng đất Đàng Ngoài còn vùng đất từ sông Gianh trở vào (Nam Hà) được gọi là vùng đất Đàng Trong.
Vùng đất Đàng Trong là vùng đất mới được hoang hóa, quá trình mở rộng dện tích đất đai sản xuất ngày càn được đẩy mạnh, do đó tình hình ruộng đất có nhiều điêm khác so với Đàng Ngoài. Số lượng ruộng đất công lớn cùng với sự tồn tại của bộ phận ruộng đất quan đồn điền và quan điền trang. Đồng thời với đó, chúa Nguyễn còn thi hành những chính sách khuyến khích dân tiến hành khai hoang lập ấp, khiến ruộng đất chủ yếu ở Đàng Trong đều là ruộng tư của nhân dân. Do thóc lúc thu hoạch nhiều, sự hình thành vực lúa thóc phía nam có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định cuộc sống của nhân dân Đàng Trong ở cuối thế kỷ XVII, nửa đầu thế kỷ XVIII. Ruộng đất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long còn ruộng bao la, người nông dân nghèo, mất đất có thể đến đây định cư, khai phá và xây dựng xóm làng mới cho mình cho mình. Vì vậy trong một thơi gian dài mâu thuẫn xã hội có điều kiện tự giải quyết. Cuộc sống tương đối ổn định.
Chính vì vậy những điều kiện trên từ giữa thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVII, tình hình xã hội Đàng Trong tương đối ổn định, không có một cuộc khởi nghĩa nào của nông dân nổ ra.
Đối lập với bức tranh ở Đàng Trong thì ở Đàng Ngoài nhu cầu về ruộng đất xuất hiện sớm hơn; tình hình ruộng đất trải qua nhiều biến động với các chính sách của các triều đại với xu hướng ruộng đất tư hữu ngày càng lấn át ruộng đất công. Cùng với đó quá trình tăng lên về mật độ dân số trong khi quỹ đất công không tăng càng làm cho quá trình bần cùng hóa của nhân dân diễn ra sớm hơn. Do đó, ở Đàng Ngoài, các cuộc khởi nghĩa của nông dân diễn ra sớm hơn so với Đàng Trong.
Như vậy chính sự đối lập về tình hình ruộng đất giữa hai Đàng đã dẫn tới sự khác nhau trong phong trào đấu tranh của nông dân: trong các khi các cuộc khởi nghĩa của nông dân nổ ra rất sớm ở Đàng Ngoài thì ở Đàng Trong tình hình xã hội vẫn tương đối ổn định, các phong trào đấu tranh chống chính quyền chưa xuất hiện.
( CÒN TIẾP )
VẤN ĐỀ RUỘNG ĐẤT TRONG PHONG TRÀO NÔNG DÂN VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI
[/FONT]
[FONT=&] Nông dân – giai cấp đông đảo và cách mạng nhất đã và đang trở thành nguồn xung lực to lớn đối với công cuộc giành độc lập dân tộc, bảo vệ tổ quốc và sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa của dân tộc Việt Nam. Xuất phát từ vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông dân mà các nhà sử học ngay từ rất sớm, ngay từ những năm 50 của thế kỷ XX vấn đề nông dân đã được đề cập thời trên các tạp chí hay in ấn thành sách tham khảo, trong đó nổi lên là phong trào đấu tranh của nông dân trong lịch sử chế độ phong kiến. Trong rất nhiều nghiên cứu về phong trào nông dân, bài thảo luận dưới đây xin được đề cập tới một vấn đề quan trọng trong cuộc đấu tranh ấy: đó chính là vấn đề ruộng đất trong phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại.[/FONT]
Trong quá trình nghiên cứu về giai cấp nông dân, C.Mác từng kết luận rằng:“người nông dân không có điều kiện làm ăn sinh sống khi mà tô thuế ngày đêm thúc giục, hành hạ họ…ách tô thuế trở thành nguyên nhân trực tiếp đập vào mắt họ. Vì vậy yêu cầu trực tiếp là phải thoát ngay tình trạng đói nghèo để tiếp tục được sống, được đấu tranh”. Đó là nhận định của một trong những vị lãnh tụ sáng lập ra học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học khẳng định tầm quan trọng của vấn đề ruộng đất trong phong trào nông dân? Nhận định trên liệu có đúng với vấn đề ruộng đất trong phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại? Nghi vấn đó sẽ lần lượt được giải quyết bởi những luận điểm sau đây.
1. Vấn đề ruộng đất là nguyên nhân nhân sâu xa làm bùng nổ phong trào nông dân thời trung đại
Phong trào nông dân là một trong những nội dung quan trọng của lịch sử Việt Nam thời kì trung đại. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc nông dân nổi dậy đấu tranh nhưng nguyên nhân chủ yếu, cơ bản, sâu xa dẫn đến phong trào nông dân là do nhu cầu ruộng đất.
Nông dân là lực lượng sản xuất chủ yếu, ruộng đất là tư liệu sản xuất chính trong xã hội phong kiến. Giữa hai thành tố ấy có mối quan hệ hữu cơ gắn bó, vấn đề nông dân không tách rời khỏi vấn đề ruộng đất. Giữa phong trào đấu tranh của nông dân và chế độ phân phối ruộng đất có quan hệ với nhau. Sự thiếu thốn ruộng đất chính là nguyên nhân sâu xa, cơ bản tác động đến nhiều mặt trong đời sống của người nông dân dẫn đến việc bùng nổ các cuộc khởi nghĩa, nông dân nghèo cầm vũ khí đấu tranh quyết liệt đổ máu để giữ lấy mảnh đất nhỏ bé của mình, chống lại sự cướp đoạt của địa chủ, hoặc giành lại những ruộng đất đã mất vào tay địa chủ.
Thời kì trung đại, ruộng đất mà người nông dân cày cấy là ruộng đất công làng xã. Cùng với sự phát triển của chế độ phong kiến, chế độ sở hữu ruộng đất cũng có nhiều thay đổi. Chính sự suy sụp của ruộng đất công làng xã và sự phát triển mạnh mẽ của ruộng đất tư hữu cùng những tác động của các nhân tố khách quan và chủ quan khác đã đẩy bộ phận nông dân vào tình trạng phiêu tán, đời sống khó khăn, cực khổ và cuối cùng là buộc họ phải nổi dây chống lại nhà nước phong kiến.
Có nhiều nhân tố tác động làm cho chế độ sở hữu tư về ruộng đất ngày càng phát triển, nhưng trong đó có hai nhân tố cơ bản đó là chính sách của nhà nước đối với ruộng đất và hoạt động kiêm tính ruộng đất của địa chủ, cường hào.
1.1. Chính sách của Nhà nước
Các cuộc khởi nghĩa của nông dân là một hiện tượng lịch sử đặc biệt trong lịch sử, khởi nguồn của nó chủ yếu xuất phát từ chính sách ruộng đất do giai cấp cầm quyền thực hiện. Đối với người nông dân thời trung đại, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu của họ, sự nổi dậy của phong trào nông dân phần lớn do vấn đề ruộng đất. Và sự phát triển của phong trào nông dân trong một giai đoạn lịch sử như thế nào, tùy thuộc vào chính sách ruộng đất của Nhà nước và tình hình ruộng đất.
Trong xã hội phong kiến Việt Nam, chế độ sở hữu công về ruộng đất là cơ sở tồn tại của nhà nước phong kiến và tồn tại song song với chế độ sở hữu tư của xã hội đương thời. Bên cạnh ruộng công đến thời Trần, chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất đã phát triển bước cao hơn sơ với giai đoạn trước. Năm 1253 nhà Trần còn cho bán cả công điền cho nông dân làm ruộng tư nữa “Cứ mỗi diện rộng, cho phép dân được bỏ ra 5 quan tiền, mua làm ruộng tư”. Đặc biệt, nhà Trần khuyến khích công hầu, công chúa khai hoang lập điền trang cho nên chế độ điền trang, thái ấp phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển của điền trang đã đẩy mạnh sở hữu ruộng đất lớn của quý tộc Trần, tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ cho hình thái kinh tế phong kiến. Nhưng vào cuối thời Trần, đời sống của nông nô, nô tì trong điền trang bị bóc lột triệt để trở nên hết sức khổ cực, nông dân nghèo bị nông nô hóa đã dẫn đến mâu thuẫn xã hội gay gắt và phong trào nông dân khởi nghĩa cuối thời Trần.
Bước sang thế kỷ XV, là giai đoạn phồn thịnh của chế độ quân chủ phong kiến, là giai đoạn thái bình thịnh trị nhất của chế độ phong kiến. Sau khi Lê Lợi lên nắm chính quyền việc đầu tiên là giải quyết vấn đề ruộng đất. Có thể thấy nét tiêu biểu trong chính sách ruộng đất của nhà Lê là việc ban hành chế độ lộc điền – phép quân điền năm 1477, thời Hồng Đức. Chế độ lộc điền thời Lê thay thế chế độ thái ấp điền trang thời Lý – Trần, nó không tạo điều kiện cho yếu tố cát cứ phát triển. Một số ruộng thế nghiệp của lộc điền có xu hướng trở thành ruộng tư, người được cấp trở thành quan liêu – địa chủ. Lộc điền là chế độ ruộng ban cấp cho công thần, quan lại, quý tộc: ngoài tước hiệu, mỗi người được 500 mẫu. Đến thời Lê Thánh Tông ban hành chế độ lộc điền, quy định mỗi chức tước được cấp một số lượng nhất định.
Về chính sách ‘quân điền” được thực hiện dưới thời Lê Thái Tổ và hoàn thiện dưới thời vua Lê Thánh Tông. Đối tượng được chia ruộng kể từ các quan tam phẩm (nếu chưa có hoặc có ít ruộng lộc điền) được chia 11 phần tới các cô nghi, quả phụ được 3 phần. Người cày ruộng phải nộp tô cho Nhà nước. Đây là chính sách tiến bộ, tích cực của nhà Lê trong việc giải quyết vấn đề ruộng đất cho nhân dân sản xuất, ai nấy đều có ruộng cày cấy, cuộc sống yên ổn, không có lọan lạc chiến tranh.
Dưới thời trị vì của vị vua đầu nhà Lê, đã ban hành chính sách ruộng đất tiến bộ đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Đồng thời chăm lo, quản lý tích cực mọi mặt của đất nước đã tạo nên tình hình kinh tế - xã hội ổn định, đời sống nhân dân ấm no. Vì thế, thời kỳ đầu của nhà nước Lê sơ không có một cuộc nổi dậy nào của nhân dân đứng lên chống lại nhà nước. Qua đó thể hiện sự hài hòa, tương khích giữa chính sách ruộng đất và phong trào nông dân.
Bước sang thế kỷ XVI, nhà nước phong kiến của triều Lê không còn thịnh trị như trước, dấu hiệu phong trào nông dân xuất hiện, cho thấy chính sách ruộng đất thời kỳ này tỏ ra mâu thuẫn với nhân dân, nó xuất phát từ chính sách của nhà cầm quyền. Ruộng công lãng xã bị xâm lấn, chính sách quân điền bị phá sản. Năm 1510, Lê Tương Dực còn cho phép các công thần được tìm kiếm những ruộng đất ẩn lậu báo lên triều đình làm ruộng tư. Điều đó tạo điều kiện cho quan lại, cường hào cướp đoạt ruộng đất của dân, gây nên phản ứng mạnh mẽ trong thôn xóm. Sự suy thoái về chính trị, cùng với chính sách của nhà nước đối với nền nông nghiệp trong đó chế độ ruộng đất ngày càng đi vào bế tắc, thêm vào đó là tình trạng chấp chiếm, cướp đoạt ruộng đất của bọn quan lại, cường hào…làm cho nông dân không có ruộng đất để cày cấy, người dân nhiều nơi phải xiêu tán. Điều này dẫn đến sự bùng nổ các cuộc đấu tranh của nông dân chống lại triều đình phong kiến thối nát.
Từ nửa đầu thế kỷ XVIII, sự chiếm đoạt và tập trung ruộng đất của địa chủ trở thành hiện tượng phổ biến, ruộng tư ngày càng phát triển. Ruộng đất công làng xã phần lớn bị nhà nước cắt xén để ban cấp cho quan lại và quân lính, nên số ruộng đất chia cho nông dân còn lại ngày càng ít. Hàng loạt nông dân bị gạt ra khỏi ruộng đất, hoặc cố bám lấy mảnh ruộng “chết đói” để gắng gượng một cuộc sống hết sức cơ sực. Xuất phát từ lợi ích và sự tồn vong của nhà nước quân chủ, các chúa Trịnh nhiều lần ra lệnh nghiêm cấm việc kiêm tinh ruộng đất của giai cấp địa chủ, nhưng lệnh cấm của nhà nước cũng không mấy hiệu quả. Năm 1740, Trịnh Doanh phải đề ra biện pháp giải quyết vấn đề ruộng đất, có ý muốn phỏng theo chế độ “tỉnh điền” đời Chu (Trung Quốc) để “quân bình giàu nghèo”, “chia đều thuế dịch”…nhưng không thực tế và không thể thực hiện được, nó chứng tỏ tính chất nghiêm trọng của vấn đề ruộng đất và sự bế tắc, bất lực của nhà Lê – Trịnh trong việc giải quyết vấn đề. Ở thế kỷ XVIII, do chế độ bán quan mua tước phổ biến nên nhà nước có lệ người nào nộp tiền thì được làm quan. Do đó, giai cấp địa chủ giàu có đã bỏ tiền của để mua quan tham gia chính quyền. Với chức vụ mới và lợi dụng chức vụ, chúng càng ra sức bóc lột nhân dân, xâm chiếm ruộng đất và ức hiếp nhân dân. Nông dân mất ruộng đất càng bị địa chủ bóc lột nặng nề, nền kinh tế tiểu nông càng bị phá hoại.
Cùng với đó, nhà nước thực hiện chính sách thuế khóa nặng nề và những thủ đoạn bóc lột tàn bạo đối với nông dân. Năm 1741, “vì dụng binh phải tiêu tốn, bổ thêm thuế ruộng công ruộng tư mỗi mầu hai tiền quý”. Họ Trịnh còn đánh thuế cả những ruộng đất không sản xuất được như đồng chua, nước mặn…Thuế khóa nặng nề chồng chất đến nỗi người nông dân cùng khổ quanh năm bòn vét cũng không đủ nộp thuế, dân chúng ngày một cùng quẫn. Từ đó làm cho mâu thuẫn có tính đối kháng trong xã hội phong kiến Đàng Ngoài trở nên quyết liệt.
Cũng giống như ở Đàng Ngoài, từ nửa cuối thế kỷ XVIII, giai cấp thống trị từ vua, chúa, quan lại đua nhau ăn chơi xa xỉ, sa đọa, không quan tâm đến đời sống nhân dân. Từ thế kỷ XVII, tình hình chiếm đoạt ruộng đất và tập trung ruộng đất đã diễn ra phổ biến ở Đàng Trong và sang thế kỷ XVIII, có nhiều thôn xã ruộng công bị xâm chiếm hay cầm bán gần hết “đến nỗi nông dân không có ruộng làm nghề sinh sống”. Chính sách thuế khóa của chính quyền họ Nguyễn rất nặng nề, phức tạp. Những tệ nạn tham ô của quan lại càng làm cho đời sống của nhân dân thêm điêu đứng. Mâu thuẫn chất chứa trong xã hội Đàng Trong ngày càng gay gắt và bùng nổ thành cuộc khởi nghĩa, tiêu biểu khởi nghĩa Tây Sơn.
Bước sang nửa đầu thế kỷ XIX, ruộng đất công làng xã trong toàn quốc bị thu hẹp rất nhiều, sở hữu tư nhân về ruộng đất chiếm đại bộ phận. Trước thực trạng đó, vương triều Nguyễn đã ban hành và thực hiện nhiều chính sách về ruộng đất. Năm 1804, vua Gia Long cho ban hành “điền chế quân lệ”. Đến thời vua Minh Mạng, đã cho thực hiện phép quân điền ở Bình Định, bước đầu thu được kết quả, nhưng thực tế ruộng đất nằm trong tay giai cấp địa chủ, người nông dân chỉ được ruộng xấu, khô cằn. Trong khi ruộng đất công làng xã bị thu hẹp vì nạn kiêm tính ruộng đất, triều Nguyễn thi hành chế độ thuế khóa khắt khe nhằm bảo đảm nguồn bóc lột chủ yếu của nhà nước phong kiến. Riêng về ruộng đất, nhà Nguyễn chia cả nước thành những khu vực đánh thuế khác nhau. Thuế ruộng đất ở Đàng Ngoài nặng hơn Đàng Trong hai lần. Những năm mất mùa, người dân không đủ thóc đống thuế, nhà nước thực hiện chính sách “đại nạp”, triều đình có lệnh thu giảm thuế cho dân, thì lại rơi vào túi quan lại thu thuế.
Nhìn chung, nửa đầu thế kỷ XIX, bản thân nhà nước có ý thức kiểm soát sự phát triển của ruộng tư, ổn định xã hội. Qua hàng loạt chính sách như khai hoang, quân điền, kêu gọi địa chủ hiến ruộng đất thay đổi tỉ lệ ruộng đất của đại địa chủ nhưng chỉ chính sách khai hoang phát huy hiệu quả, còn lại không mang lại kết quả như mong muốn của triều Nguyễn. Cho nên, nạn kiêm tính ruộng đất phát triển mạnh mẽ, tham nhũng, chế độ thuế khóa nặng nề…đã dẫn đến nạn dân phiêu tán, ruộng đất bỏ hoang và nạn đói diễn ra. Chính điều này là nguyên nhân sâu xa làm bùng nổ cuộc đấu tranh của nông dân diễn ra sôi nổi ngay từ đầu thời Nguyễn, chi phối mức độ, cường độ khởi nghĩa nông dân nửa đầu thế kỷ XIX.
Tóm lại, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu và gắn liền với người nông dân nên những biến động về hình thái sở hữu ruộng đất và chính sách ruộng đất thường là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự bùng nổ của khởi nghĩa nông dân. Điều này được thể hiện rất rõ qua các triều đại phong kiến nước ta, khi nhà nước đảm bảo ruộng đất cho người nông dân sản xuất và chăm lo đời sống của họ thì không có cuộc nổi dậy nào của nông dân (thời kỳ đầu nhà Lê sơ) chống lại nhà nước nhưng khi nhà nước suy yếu, chính sách ruộng đất của nhà nước không đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, ngược lại còn ban hành chế độ hà khắc, quan lại cướp đoạt ruộng đất, hà hiếp nhân dân…làm cho đời sống người nông dân cực khổ. Mâu thuẫn trong xã hội phong kiến gay gắt tất yếu dẫn đến sự bùng nổ của phong trào nông dân.
1.2 Hoạt động kiêm tính ruộng đất của địa chủ, quan lại, cường hào
Trong lịch sử trung đại Việt Nam, chế độ sở hữu công về ruộng đất là cơ sở tồn tại của nhà nước phong kiến và tồn tại song song với chế độ sở hữu tư. Nhà nước phong kiến quân chủ chuyên chế tồn tại dựa trên việc thu tô thuế từ ruộng đất công làng xã. Sự phát triển của chế độ tư hữu ruộng đất đe dọa đến sự tồn tại của nhà nước phong kiến nhưng các triều đại phong kiến vẫn phải chấp nhận sự tồn tại của nó. Trong lịch sử, ruộng đất tư luôn luôn phát triển và có xu hướng lấn át ruộng công. Và một trong những nguyên nhân dẫn đến sự phát triển của ruộng tư là hoạt động kiêm tính của quan lại, địa chủ, cường hào.
Giai cấp địa chủ phong kiến là một giai cấp cơ bản trong xã hội phong kiến châu Á. Trong suốt thời kì trung đại, vì quyền lợi của mình, giai cấp này luôn tìm cách chiếm đoạt ruộng đất công, biến thành sở hữu tư. Khi ruộng đất tư của địa chủ chưa phát triển thì diện tích công làng xã vẫn còn đủ đảm bảo cho nông dân những khẩu phần thích đáng. Nhưng khi giai cấp địa chủ đã lấn chiếm nghiêm trọng vào ruộng đất công làng xã thì mảnh ruộng khẩu phần dành cho nông dân ngày càng bị thu hẹp, thậm chí, sau khi chia ruộng đất cho các loại quan lại thì không còn ruộng đất chia cho nông dân nữa, tình trạng kiêm tính ruộng đất diễn ra ở mỗi triều đại.
Đặc biệt vào cuối mỗi triều đại, khi chính quyền trung ương suy yếu, các thế lực cát cứ lại nổi dậy, địa chủ lại lợi dụng thế lực của mình thôn tính ruộng đất.
Cuối thế kỉ XIV, địa chủ lợi dụng mất mùa đói kém xâm chiếm ruộng đất của nông dân, mua rẻ ruộng đất, mở rộng điền trang, tăng số người làm, nhiều nhà chùa cũng trở thành chủ đất lớn với nhiều điền nô.
Thế kỉ XV, chế độ phong kiến Việt Nam hoàn toàn được xác lập. Chính sách quân điền được ban hành. Trong bối cảnh ruộng đất công còn nhiều thì chế độ quân điền phát huy tác dụng. Thế nhưng đến cuối thời Lê, thế kỉ XVI, đất nước rơi vào khủng hoảng. Đại Việt sử kí toàn thư chép: “ Từ thời Đoan Khánh ,(tức Lê Uy Mục) nội triều can chính, ngoại thích chuyên quyền, pháp lệnh phiền hà, kỉ cương rối loạn, nông tang thất nghiệp, phong tục suy đồi, bọn quan lại địa chủ xâm chiếm ruộng đất của dân, cướp đoạt tài sản của dân”. Ruộng đất công làng xã bị lấn chiếm làm cho chính sách quân điền bị phá sản. Năm 1510, Lê Tương Dực còn cho phép các công thần được tìm kiếm những ruộng đất ẩn lậu báo lên triều đình làm ruộng tư. “Chỉ dụ đó khác nào nối giáo cho giặc, tạo điều kiện cho quan lại, hào cường cướp đoạt ruộng đất của dân”. Điều đó làm cho số lượng không nhỏ nông dân bị mất đất phải xiêu tán.
Sang thế kỉ XVII- XVIII, nền kinh tế hàng hóa xuất hiện ở nước ta cùng với sự nảy sinh của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Mặc dù nó chưa đủ điều kiện để tạo ra quan hệ sản xuất mới, làm tan rã quan hệ sản xuất phong kiến nhưng lại thể hiện khả năng và xu thế phát triển của nước ta lúc bấy giờ. Nhưng từ nửa đầu thế kỉ XVIII, cùng vơi sự sa đọa thối nát của chính quyền thống trị, sự bóc lột tàn bạo của địa chủ làm cho nền kinh tế tiểu nông bị phá sản, xô đẩy hàng loạt nông dân ra khỏi làng xã và đồng ruộng.
Thế kỉ XVIII, sự chiếm đoạt và tập trung ruộng đất của giai cấp địa chủ trở thành hiện tượng phổ biến và hết sức nghiêm trọng. Đây là thời kì mà xã hội Đàng Ngoài chứng kiến một sự phát triển mạnh mẽ của chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất, phần lớn ruộng đất đã nằm trong tay giai cấp địa chủ phong kiến. Bằng nhiều hình thức và thủ đoạn, bọn địa chủ, quan lại, hào cường khắp mọi nơi chấp chiếm ruộng đất tư của nông dân, xâm chiếm ruộng đất công. Trước tình trạng địa chủ chiếm ruộng đất công, năm 1711, chúa Trịnh Cương đã ban hành chững chỉ dụ nhằm hạn chế sự tập trung ruộng đất vào tay địa chủ. Tuy nhiên, bất chấp chỉ lệnh của phủ chúa, giai cấp địa chủ vẫn ra sức chiếm đoạt ruộng đất của nông dân. Đến năm 1728, “ruộng đất rơi hết vào tay hào phú, còn dân nghèo thì không một miếng đất cắm dùi”.
Sang thế kỉ XIX, nạn kiêm tính ruộng đất lại diễn ra nghiêm trọng hơn. Chỉ tới đầu thế kỉ XIX, sở hữu tư nhân về ruộng đất đã chiếm vị trí bao trùm (83% diện tích ruộng đất của cả nước). Trong lịch sử chế độ ruộng đất Việt Nam, chế độ sở hữu tư về ruộng đất luôn bị nhà nước kiểm soát ở mức độ nhất định (chính sách hạn điền của Hồ Quý Ly thế kỉ XV). Vì vậy, vì lợi ích của mình, giai cấp địa chủ đã bằng mọi cách thao túng tổ chức làng xã. Bằng cách này, địa chủ vừa nhân danh làng xã trong mối quan hệ với nhà nước lại vừa nhân danh nhà nước trong mối quan hệ với người nông dân, mà ở mặt nào họ cũng vì lợi ích của mình, lũng đoạn bộ máy quản lí làng xã. Địa chủ biến thành cường hào, hạch sách người nông dân, cậy quyền thế chiếm đoạt ruộng đất tốt.
Về nạn cường hào thế kỉ XIX, Nguyễn Công Trứ viết: “chỗ nào chúng cũng cùng nhau anh chị, chuyên lợi làm giàu, dối cả quan trên để thỏa lòng riêng. Có công điền công thổ thì chúng bày việc thuê mướn làm béo mình, những dân nghèo khổ thì kêu vào đâu được…Thậm chí còn ẩn lậu dinh điền, ruộng đất nghìn mẫu không nộp thuế, chỉ đầy túi bọn hào cường, đinh đến trăm suất không đăng kí, chỉ phục dịch riêng cho bọn hào cường”.
Trong lịch sử trung đại Việt Nam, nạn kiêm tính ruộng đất của địa chủ cường hào đã có tác động mạnh mẽ đến chế độ sở hữu ruộng đất, làm cho ruộng đất công làng xã dần bị thu hẹp, chế độ sở hữu của nhà nước bị đe dọa nghiêm trọng. Chế độ sở hữu tư ngày càng phát triển, ruộng đất công bị thu hẹp dần. Đến đầu thế kỉ XIX, ruộng đất tư đã chiếm một phần đáng kể. Do vậy mà một nguồn thu đáng kể của ngân sách nhà nước từ tô thuế đã bị suy giảm nghiêm trọng, để bù vào ngân sách, triều đình đã thực hiện biện pháp tăng thuế. Về phía người nông dân, do thiếu ruộng phải cày thuê ruộng đất của địa chủ, do đó càng bị lệ thuộc vào địa chủ và bị bóc lột nặng nề hơn. Chính sách quân điền bị phá sản, ruộng đất công làng xã không còn là chỗ dựa kinh tế của người nông dân, cũng không còn là nguồn lợi gắn bó chặt chẽ với cuộc sống của họ với làng xã một cách bền vững. Cộng thêm chế độ tô thuế vô cùng nặng nề đã làm cho người nông dân bị bần cùng hóa, người nông dân buộc phải rời bỏ làng xã đi phiêu tán khắp nơi. Đời sống của họ vô cùng cực khổ. Mâu thuẫn trong xã hội phong kiến ngày càng gay gắt, phong trào nông dân bùng nổ là điều tất yếu.
Ngoài những yếu tố nêu trên, nhân tố tự nhiên cũng có tác động nhất định đến tình hình ruộng đất. Thiên tai lũ lụt, hạn hán làm cho người nông dân không thể canh tác được ruộng đất, diện tích đất bỏ hoang, diện tích đất không thể trồng cấy được tăng lên rất nhiều.
2. Tác động của tình hình ruộng đất tới đặc điểm của phong trào nông dân qua các thế kỷ nông dân khởi nghĩa
Nguyên nhân sâu sa của tất cả các cuộc khởi nghĩa của nông dân thời trung đại đều bắt nguồn từ vấn đề ruộng đất, mà biểu hiện của nó là tình cảnh người nông dân mất đất, buộc phải lưu tán, bị đẩy vào con đường bần cùng hóa dẫn đến các cuộc đấu tranh vì ruộng đất. Có thể khẳng định rằng tất cả các cuộc khởi nghĩa trong sự xuyên suốt của lịch sử trung đại đều xuất phát từ nguyên do trên. Nhưng ở các thời kỳ khác nhau, trên những khu vực khác nhau lại diễn ra các cuộc khởi nghĩa với những mức độ và đặc điểm khác nhau. Có sự khác nhau đó là do mức độ khác nhau của quá mất ruộng đất của người nông dân qua các thời kỳ. Vậy điều gì tác động đến sự phát triển khác nhau trong tình hình ruộng đất đó?
Tìm hiểu rõ ngọn nghành của vấn đề này sẽ giúp chúng ta có thể khai thác một khía cạnh mới trong khi nghiên cứu vấn đề ruộng đất trong phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại, đó là : tình hình ruộng đất với đặc điểm của phong trào nông dân qua các thế kỷ nông dân khởi nghĩa. Tình hình ruộng đất trên được nghiên cứu trên hai khía cạnh tác động đến nó là sự vận động của chế độ phong kiến Việt Nam thời trung đại và sự vận động ở những vùng đất khác nhau qua các thời kỳ đó. Còn đặc điểm của phong trào nông dân được thể hiện trên các khía cạnh như quy mô, số lượng, thành phần tham gia…để cuối cùng đi tới kết luận: tình hình ruộng đất có tác động như thế nào đến đặc điểm của phong trào nông dân qua các thế kỷ khởi nghĩa.
2.1 Trong các thế kỷ XIV và XVI-XVII
Thứ nhất: Nghiên cứu tác động tình hình ruộng đất trong sự vận động của chế độ phong kiến đến đặc điểm của phong trào nông dân.
Một đặc điểm nổi bật của phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại là các cuộc khởi nghĩa thường nổ ra ở cuối mỗi triều đại khi mà các triều đại phong kiến lâm vào cuộc khủng hoảng, suy yếu. Chúng ta có thể kể tới các trường hợp điển hình như các cuộc khởi nghĩa của Thân Duy Mạc, Ngô Văn Tổng (1511), khởi nghĩa của Trân Cảo (1516) diễn ra vào cuối triều Lê; khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu (1735-1751), khởi nghĩa Danh Phương (1740-1751) ở Đàng Ngoài và tiêu biểu nhất là phong trào nông dân Tây Sơn (1771-1792)…
Tuy nhiên đến triều đại nhà Nguyễn cầm quyền vào đầu thế kỷ XIX thì rõ ràng các phong trào nổ ra ngay từ thời trị vì của vua Gia Long và Minh Mạng, những vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn. Như vậy kết luận rằng các cuộc khởi nghĩa chỉ nổ ra theo chu kỳ khủng hoảng của các triều đại là chưa thỏa đáng.
Đặc điểm của phong trào nông dân cần thiết phải đặt trong sự phát triển của cả chế độ phong kiến Việt Nam thời trung đại, tức đặt nó trong sự pháttriển thịnh - suy của chế độ phong kiến với tư cách là một phương thức sản xuất . Để từ đó thấy được mỗi thời kỳ vận động của chế độ phong kiến thì mức độ về sự bần cùng hóa của người nông dân vì ruộng đất diễn ra như thế nào? Từ đó có ảnh hưởng như thế nào tới đặc điểm của phong trào nông dân.
Trong thế kỷ XIV: tình hình ruộng đất trong thời kỳ hình thành của chế độ phong kiến và ảnh hưởng của nó tới đặc điểm của phong trào nông dân trung đại.
Nhà nước phong kiến Việt Nam được hình thành từ thế kỷ thứ X nhưng gần 4 thế kỷ sau đó mới có cuộc khởi nghĩa đầu tiên của nông dân nổ ra vào năm 1344. Các cuộc khởi nghĩa nổ ra do sự phát triển của điền trang – thái ấp với hoạt động kiêm tình ruộng đất ngày càng tăng của các vương công, quý tộc… Đầu thế kỷ XIV, nhân những năm đói kém, nông dân bỏ làng đi lưu tán, thiếu đói phải chạy vào các điền trang “làm nô cho các thế gia”. Nhân lực lượng đó, bọn quý tộc Trần càng ra sức khai hoang cướp đất, mở rộng phần sở hữu của mình, người nông dân mất đất, quá trình nông nô hóa của người nông dân ngày càng tăng.Các cuộc khởi nghĩa lần lượt nổ ra.
Song Trương Hữu Quýnh trong cuốn sách “ chế độ ruộng đất phong kiến từ thế kỷ XIII – XV” đã nhận xét rằng: “mặc dù có sự khác nhau về mức độ, từ đầu thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XV, chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất luôn giữ địa vị thống trị. Đương thời nó là cơ sở kinh tế chủ yếu, nguồn bóc lột chủ yếu của nhà nước trung ương và cũng là cái gốc tạo nên sức mạnh và sự bền vững của chính trị nhà nước . Cùng với chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất công ở các thế kỷ này, việc duy trì chế độ chiếm hữu làng xã về ruộng đất công có ý nghĩa đặc biệt quan trọng”. Qua nhận xét trên của tác giả có thì có thể nhận thấy rằng, việc phát triển của các điền trang - thái ấp dẫn tới quá trình nông nô hóa người nông dân, tạo ra “mâu thuẫn chủ yếu trong giai đoạn đầu của chế độ phong kiến Việt Nam là mâu thuẫn giữa chế độ chiếm hữu của quí tộc, công thần và chế độ sở hữu của nông dân” chứ chưa phải là mâu thuẫn của quan hệ giữa toàn thể nông dân với địa chủ phong kiến. Vì trên thực tế lúc này ruộng đất công vẫn chiếm địa vị chủ đạo. Nhà nước trong thời kỳ hình thành vẫn có dư sức mạnh để có thể quản lý ruộng đất công, hay nói cách khác là vẫn đủ sức duy trì quyền sở hữu ruộng đất của làng xã, quyền lợi của người nông dân công xã vẫn được đảm bảo. Ruộng đất tư hữu phát triển nhưng chưa thực sự giữ vài trò quan trọng.Về sau, nhà nước mà tiêu biểu là cải cách của Hồ Quý Ly với các chính sách hạn nô, hạn điền đã ra sức xóa bỏ các điền trang phong kiến, nhằm bảo vệ ruộng đất công làng xã cho người nông dân.
· Chính những đặc điểm trên của tình hình ruộng đất thế kỷ XIV đã quy định đặc điểm trong phong trào nông dân thời kỳ này, trong đó:
Vấn đề ruộng đất đặt ra trong thời kỳ này là thủ tiêu chế độ chiếm hữu của lãnh chúa, thủ tiêu các đại điền trang phong kiến. Phong trào nông dân trong thời kỳ này là thủ tiêu căn bản chế độ đại điền trang, chế độ bóc lột điền nô và nô tì.
Thành phần tham gia chủ yếu là nông dân nghèo, nông nô và nô tì. Trong đó nông nô và nô tì là động lực chủ yếu của phong trào thời kỳ này chứ chưa phải là nông dân công xã, vì mâu thuẫn trên chưa ảnh hưởng đến đại bộ phận nông dân trong các lãng xã (như đã lý giải ở trên vì lúc này yêu cầu của đại bộ phận nông dân công xã về ruộng đất vẫn được đảm bảo).
Số lượng của phong trào cũng bị chi phối bởi đặc điểm trên. Đó là việc trong trong gần 50 năm (1344-1399) mới có 6 cuộc khởi nghĩa nổ ra. Quy mô của phong trào cũng chỉ nổ ra lẻ tẻ ở các địa phương như Thanh Hóa, Hải Dương, Nghệ An.
Như vậy có thể kết luận trong thời kỳ này các cuộc khởi nghĩa của nông dân không nhiều, lẻ tẻ ở các địa phương. Chỉ có thể lý giải được điều này bằng cách thấy được tình hình ruộng đất trong bối cảnh chế độ phong kiến vẫn đang trong thời kỳ hình thành : ở đó nhà nước vẫn còn nắm giữ đại bộ phận ruộng đất công, lấn át ruộng tư, yêu cầu về ruộng đất của người nông dân
vẫn được đảm bảo.
Mặt khác thời kỳ này, các chính sách khai hoang của nhà nước thời kỳ này vẫn phát huy được hiệu quả đối với người nông dân. Trương Hữu Quýnh đã chỉ ra 3 lần khai hoang và tác động của nó đến vấn đề ruộng đất của người nông dân.
Công cuộc khai hoang lần thứ nhất, chế độ sở hữu điền trang được thiết lập, vấn đề lưu vong được giải quyết. Diện tích trồng trọt tăng lên, thu nhập quốc dân nhiều. Đất nước có sức để chống lại các cuộc xâm lược từu bên ngoài.
Công cuộc khai hoang lần thứ hai, đất nước dần được phục hồi. Nhà nước có điều kiện ban hành chính sách quân điền, giải quyết yêu cầu ruộng đất của dân cày và nô tỳ.
Với công cuộc khẩn hoang lần thứ ba, diện tích trồng trọt được mở rộng thêm, số lượng nông dân tự do, tư hữu tăng nhanh, giải quyết được tình trạng thiếu ruộng đất bắt đầu đe dọa.
Trong thế kỷ XVI-XVII: tình hình ruộng đất trong thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến.
Đến cuối thời Lê nhà nước phong kiến ngày càng suy yếu, bất lực, không đủ sức bảo vê sản xuất, chống lại thiên tai. Vai trò tích cực của nhà nước trong nông nghiệp đã chuyển sang giai đoạn ăn bám, trụy lạc. Từ thời Túc Tông trở đi, triều đình không , chăm lo đến công việc đê điều thủy lợi, phó mặc ruộng đất cho thiên tai hoành hành.
Tất cả thuế khóa, lực dịch ấy cùng với nạn cướp bóc, tham nhũng của bọn thống trị đè nặng lên đầu nhân dân mà chủ yếu là nông dân. Nông dân bị mất ruộng đất lại bị bóc lột nặng nề, lâm vào tình trạng đói khổ, bần cùng. Nạn hạn, lụt, đói kém... lại xảy ra liên tiếp, càng đẩy mạnh thêm tình trạn thống khổ của người nông dân. Lòng bất bình, oán hận của người nông dân dâng cao. Mâu thuẫn cơ bản giữa nông dân với địa chủ phong kiến, giữa toàn dân với bọn thống trị ngày càng lên cao gay gắt bộc lột thành những cuộc bạo động nông dân khắp nơi.
· Điều đó đã tác động tới đặc điểm của các cuộc khởi nghĩa thời kỳ này:
Lực lượng tham gia phong trào thời kỳ này đã mở rộng hơn thời kỳ trước: nông dân công xã chủ yếu là dân nghèo, một bộ phận lực lượng vũ trang là dân binh … trong đó lực lượng đóng vai trò quan trọng, động lực của cuộc khởi nghĩa nông dân là nông dân công xã ( không phải là lượng lực nông nô và nô tì thời kỳ trước vì tới thời kỳ này quyền lợi về ruộng đất của nông dân công xã đã trực tiếp bị ảnh hưởng.
Các cuộc khởi nghĩa nổ ra và lan tỏa ở nhiều địa phương ở Bắc bộ và Bắc trung Bộ như Sơn Tây, Hưng Hóa, Nghệ An, Thanh Hóa, Hải Phòng, Hải Dương…các cuộc khởi nghĩa không còn bó hẹp trong một vùng mà lan rộng ra nhiều địa phương, mang tính rộng lớn hơn phong trào nông dân thế kỷ XIV.
Song cần nhận thấy rằng các cuộc khởi nghĩa của nông dân nổ ra trong thế kỷ XVI- XVII nhưng chủ yếu trong thế kỷ XVI. Ngay trong thế kỷ XVI thì phong trào nông dân cũng nổ ra mạnh mẽ ở thời điểm đầu và thời điểm cuối. Các cuộc khởi nghĩa nổ ra từ 1511 đến 1522 nhưng phải tới gần 50 năm sau đó, tức năm 1571 thì phong trào nông dân mới nổ ra. Tại sao như vậy? Tại sao khi mà quan hệ địa chủ- tá điền đã được xác lập ở thế kỷ XV và tới thời kỳ này đã phát triển thành mâu tuẫn kinh tế cơ bản của chủ nghĩa phong kiến – mâu thuẫn giữa chế độ sở hữu ruộng b đất phong kiến và kinh tế cá thể của nông dân ngày càng gay gắt thì phong trào đấu tranh của nông dân vẫn chỉ dừng lại ở mức độ nhất định.
Phải chăng đó là sự độc đáo của thời kỳ này, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế hàng hóa liệu có liên quan gì tới vấn đề ruộng đất của người nông dân. Thời kỳ này cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa thì cũng là lúc phong trào nông dân nổ ra ít nhất.
Mặt khác sự khủng hoảng của nhà Lê dẫn tới sự bất lực của triều đình trong việc cân bằng ruộng công và ruộng tư chủ yếu xuất phát từ sự yếu kém của các vị vua cuối triều đại chứ chưa phải là sự khủng hoảng của cả một chế độ chính trị. Trên thực tế chính sách quân điền của nhà nước vẫn phát huy tác dụng. Thêm vào đó với những nỗ lực của nhà Mạc, nông nghiệp có sự phục hổi, sản xuất phát triển. Do đó đến thế kỷ XVII, nhu cầu về ruộng đất của người dân vẫn được đảm bảo.
Một điểm đáng lưu ý để giải thích tại sao trong thời kỳ hình thành và phát triển của chế độ phong kiến thì như cầu về ruộng đất của nông dân vẫn được đảm bảo. Đó chính là sự tồn tại của chế độ tư hữu nhỏ của nông dân. Tục chia đều gia tài cho con cái, công cuộc khai hoang thường xuyên và được nhà nước khuyến khích và thực hiện có hiệu quả đã góp phần quan trọng vào việc duy trì hình thức trên. Hình thức sở hữu nhỏ về ruộng đất, do đó đứng vững ngay cả ở giai đoạn phát triển của chế độ sở hữu lớn. Quá trình đó làm chậm quá trình biến đối của người nông dân thành người phụ thuộc phong kiến. Do đó các cuộc khởi nghĩa của nông thời kỳ này vẫn chưa quyết liệt và số lượng chưa thực sự lớn.
Như vậy cần khẳng định rằng chế độ phong kiến trong thời kỳ hình thành, xác lập và phát triển thì quá trình bần cùng hóa của người nông dân về ruộng đât diễn ra chậm chạm hơn, mẫu thuẫn xã hội cũng chưa phát triển đến độ gay gắt, chỉ dừng lại những mâu thuẫn trong một bộ phận người nông dân chứ chưa phải là toàn bộ nông công xã.
Thứ hai: Nghiên cứu vấn đề ruộng đất theo không gian địa lý với đặc điểm của phong trào nông dân
Vấn đề trên được đề cập tới ở đây là việc xem xét trong mối quan hệ đối lập giữa tình hình ruộng đất giữa vùng đất mới khai phá với vùng đất đã được khai phá lâu đời có ảnh hưởng như thế nào tới đặc điểm của phong trào đấu tranh của nông dân thời kỳ này.
Giữa thế kỷ XVI ( năm 1558) , Nguyễn Hoàng xin vào trấn thủ Thuận Hóa, mở đầu cho quá trình “ Nam tiến” của nước Đại Việt. Sau chiến tranh Trịnh – Nguyễn đã hình thành nên sự phân chia Đàng Trong, Đàng Ngoài, trong đó: vùng đất từ song Gianh trở ra Bắc ( Bắc Hà) gọi là vùng đất Đàng Ngoài còn vùng đất từ sông Gianh trở vào (Nam Hà) được gọi là vùng đất Đàng Trong.
Vùng đất Đàng Trong là vùng đất mới được hoang hóa, quá trình mở rộng dện tích đất đai sản xuất ngày càn được đẩy mạnh, do đó tình hình ruộng đất có nhiều điêm khác so với Đàng Ngoài. Số lượng ruộng đất công lớn cùng với sự tồn tại của bộ phận ruộng đất quan đồn điền và quan điền trang. Đồng thời với đó, chúa Nguyễn còn thi hành những chính sách khuyến khích dân tiến hành khai hoang lập ấp, khiến ruộng đất chủ yếu ở Đàng Trong đều là ruộng tư của nhân dân. Do thóc lúc thu hoạch nhiều, sự hình thành vực lúa thóc phía nam có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định cuộc sống của nhân dân Đàng Trong ở cuối thế kỷ XVII, nửa đầu thế kỷ XVIII. Ruộng đất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long còn ruộng bao la, người nông dân nghèo, mất đất có thể đến đây định cư, khai phá và xây dựng xóm làng mới cho mình cho mình. Vì vậy trong một thơi gian dài mâu thuẫn xã hội có điều kiện tự giải quyết. Cuộc sống tương đối ổn định.
Chính vì vậy những điều kiện trên từ giữa thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVII, tình hình xã hội Đàng Trong tương đối ổn định, không có một cuộc khởi nghĩa nào của nông dân nổ ra.
Đối lập với bức tranh ở Đàng Trong thì ở Đàng Ngoài nhu cầu về ruộng đất xuất hiện sớm hơn; tình hình ruộng đất trải qua nhiều biến động với các chính sách của các triều đại với xu hướng ruộng đất tư hữu ngày càng lấn át ruộng đất công. Cùng với đó quá trình tăng lên về mật độ dân số trong khi quỹ đất công không tăng càng làm cho quá trình bần cùng hóa của nhân dân diễn ra sớm hơn. Do đó, ở Đàng Ngoài, các cuộc khởi nghĩa của nông dân diễn ra sớm hơn so với Đàng Trong.
Như vậy chính sự đối lập về tình hình ruộng đất giữa hai Đàng đã dẫn tới sự khác nhau trong phong trào đấu tranh của nông dân: trong các khi các cuộc khởi nghĩa của nông dân nổ ra rất sớm ở Đàng Ngoài thì ở Đàng Trong tình hình xã hội vẫn tương đối ổn định, các phong trào đấu tranh chống chính quyền chưa xuất hiện.
( CÒN TIẾP )
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: