Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HÓA
Văn hóa Việt Nam
Vài nét về văn hóa Chămpa
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Phong Cầm" data-source="post: 4698" data-attributes="member: 75012"><p><strong>Quan niệm về vòng đời của người chăm ahiêr1</strong></p><p></p><p style="text-align: center"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><strong><span style="font-family: 'Arial'"> QUAN NIỆM VỀ VÒNG ĐỜI CỦA NGƯỜI CHĂM AHIÊR</span></strong></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><strong><em><span style="font-family: 'Arial'">1</span></em></strong></span></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><strong><em><span style="font-family: 'Arial'"></span></em></strong></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><strong><em><span style="font-family: 'Arial'"></span></em></strong></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><strong><em><span style="font-family: 'Arial'"></span></em></strong></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><strong><em><span style="font-family: 'Arial'"></span></em></strong></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><strong><em><span style="font-family: 'Arial'">Vài nét về vũ trụ luận</span></em></strong></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><strong><em><span style="font-family: 'Arial'"></span></em></strong></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'">- <em>Về đấng tạo hóa</em>: Người Chăm với chế độ mẫu hệ luôn coi mẹ xứ sở Pô Inư Nưgar là đấng tạo hóa ra vũ trụ và sự sống của muôn loài (khác với kinh Vê đa, một tôn giáo phụ quyền, Brahma là thần sáng tạo tối cao). Và, với quan niệm lưỡng hợp âm - dương (yin - yang), bên cạnh thần mẹ xứ sở (âm) có thần Yang Pô, Yang Amư (thần trời, thần cha - dương) cũng được coi là đấng tạo hóa, còn Pô Păn là thần cai quản các thần, trông coi công việc thiên giới. Trong hầu hết các nghi lễ Chăm, ba vị thần trên luôn được thỉnh mời đầu tiên. Những đấng tạo hóa này sinh ra ba tầng vũ trụ: thiên - địa - nhân. Quan niệm về ba tầng vũ trụ của người Chăm rất rõ ràng, thể hiện ở trong bùa chú, trong các nghi lễ dân gian, nghi lễ tôn giáo và cả trong những lễ vật dâng cúng mà chúng tôi sẽ trình bày ở chương sau.</span></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'">- <em>Quan niệm âm - dương lưỡng hợp</em>: thể hiện rõ trong đời sống tín ngưỡng người Chăm, thể hiện từ màu sắc sáng tối cho đến hình dạng của từng vật thể nhỏ nhất.</span></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><em><span style="font-family: 'Arial'">Một số cặp âm - dương theo quan niệm của người Chăm</span></em></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><em><span style="font-family: 'Arial'"></span></em></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"> </span></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></span><p style="text-align: center"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"><img src="https://www.vanhoahoc.edu.vn/images/stories/tusach/c3-01.JPG" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /> </span></span></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'">Ngoài biểu tượng phồn thực linga - yoni mang tính đặc trưng về quan niệm âm dương của người Chăm theo Shiva giáo, tư duy xưa nay của người Chăm Ahiêr thể hiện nhất quán quan niệm âm - dương lưỡng hợp. </span><span style="font-family: 'Arial'">Nếu có ngọn tháp tượng trưng cho núi (dương) thì phải có một hào rãnh hay một cái gì tượng trưng cho biển (âm). Tháp là biểu tượng linga, rãnh là yoni và hàng loạt các cặp âm - dương như: Ngày (<em>harei</em> - dương) - đêm (<em>mưlơm</em> - âm); mặt trời (<em>aditiak</em> - dương) - mặt trăng (<em>channưk</em> - âm); chẵn (<em>yơw</em> - âm) - lẻ (<em>cauh</em> - dương); phải (dương) - trái (âm); chỉ riêng trong cộng đồng người Chăm Ahiêr, nếu như lễ Katê (lễ cúng cha - dương), phải vào tháng 7 “nam thất” thì lễ Chabur (lễ cúng mẹ - âm), phải vào tháng 9 “nữ cửu”; thượng tuần trăng (dương) - hạ tuần trăng (âm) v.v… Thậm chí hai tôn giáo chính của người Chăm cũng được quan niệm là “lưỡng thể nhất hợp”: tôn giáo Bàlamôn (<em>ahier</em>) được coi là biểu tượng dương, tôn giáo Bàni (<em>awal</em>) được coi là biểu tượng âm. Lịch của người Chăm awal được tính theo chu kỳ của mặt trăng là lịch âm (<em>Sakawi</em> <em>awal</em>), lịch của người Chăm ahiêr tính theo chu kỳ vận động của mặt trời là dương (<em>Sakawi</em> <em>ahier</em>). Lịch Chăm có 8 can được chia làm hai: 4 can thuộc về dương và 4 can thuộc về âm. Lễ hội Katê của người Chăm Ahiêr được coi là lễ hội thuộc dương, phải vào tháng 7 (tháng 7 thuộc dương theo quan niệm “nam thất nữ cửu”), còn lễ Ramưvan của người Bàni lại được coi là thuộc âm, phải vào tháng 9 theo Chăm lịch; có lễ Palao pasah (cầu đảo tại cửa sông - âm), lại có lễ Pakâp halâu kraung (lễ chặn đầu nguồn sông - dương); có lễ cúng tạ thần lửa ở trên tháp (dương) lại có lễ cúng biển (cầu đảo) ở cửa biển (âm). Ngay trong tôn giáo Bàlamôn, lễ hội Katê là lễ cúng cha (dương) nên phải cúng vào buổi sáng (dương của ngày) và cúng món chay, lễ Chabul là lễ cúng mụ, phải vào buổi chiều (âm) và cúng món mặn. Lễ cưới thuộc âm (mẫu hệ) nên đón rể và lễ cưới phải vào buổi chiều, phải vào giờ âm trong ngày và phải vào hạ tuần trăng (âm của tháng). Các chức sắc Bàni là đàn bà (không được để râu), nhưng trong trang phục lại đeo biểu tượng dương, ngược lại, chức sắc Bàlamôn (để râu) là đàn ông nhưng lại đeo biểu tượng âm vật. Ông thầy Bàlamôn khi làm lễ khấn vái thần linh phải chụm hai ngón tay cái và hai ngón tay trỏ vào với nhau để tạo hình tam giác, khi bịt đầu, ông thầy phải cuốn khăn hình tam giác. Ngược lại, ông thầy Char (chức sắc Bàni) lại đội một cái mũ rộng (<em>plah</em>) là biểu tượng bầu trời (dương). Người Chăm quan niệm rằng ông thầy thuộc dương thì phải làm lễ cho âm, ông thầy thuộc âm thì phải làm lễ cho dương. Theo quan niệm ấy, âm và dương là hai yếu tố hài hòa tạo nên tự nhiên và sự sống.</span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'">- <em>Về phương hướng</em>: Người Chăm rất chú trọng về phương hướng và cũng tuân thủ quan niệm âm - dương. Người Chăm quan niệm hướng đông là hướng mặt trời mọc, là hướng của sự sống (dương). Vì vậy, gần như tất cả các tháp Chăm cũng như khuôn viên nhà cổ truyền đều có cổng hướng về phía đông. Ngược lại, hướng tây là hướng “chết” (âm) nên trong nhà lễ tang, hai cây chà gặt phân ranh giới đông - tây. Điều này phù hợp với quan niệm của hầu hết các dân tộc khác trên thế giới, cho rằng hướng “sống” là phía mặt trời mọc. Hướng chết là hướng mặt trời lặn “khuất núi”. Linh hồn người chết bao giờ cũng đi theo hướng mặt trời lặn.</span></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'">Về hướng bắc - nam trong quan niệm của người Chăm khá phức tạp. Tư liệu điền dã của tác giả cho thấy, trong nghi lễ sinh đẻ, khi người mẹ sinh con phải ngồi quay đầu về hướng bắc, để cho đầu thai nhi lọt ra về hướng nam (hướng “sống” - dương). Trong nghi lễ tang ma, người chết cũng được đặt đầu quay về hướng nam nên nhiều bài viết cho rằng người Chăm quan niệm hướng nam là hướng “chết”. Theo suy luận của chúng tôi, quan niệm về phương hướng trong nghi lễ vòng đời của người Chăm Bàlamôn tuy phức tạp nhưng nhất quán, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và tuân thủ theo vòng luân hồi. Khi sinh đẻ, thai nhi quay đầu hướng nam (hướng sự sống cho người sống) và đến khi chết, người chết lại được đặt quay đầu về hướng nam (hướng chết đối với người chết, nhưng cũng là hướng sống vì tang lễ là lễ “tái sinh”). Đứa trẻ khi sinh ra quay đầu hướng nam để rồi đến khi chết cũng vẫn quay đầu hướng nam tiếp tục vòng luân hồi. Vì vậy hướng nam vừa là hướng “sống” (cho người sống) vừa là hướng “chết” (cho người chết) và với quan niệm tái sinh thì đó lại là hướng “sống” (đầu thai sang thế giới bên kia). Điều này phù hợp với quan niệm âm dương chung: hướng nam là hướng dương.</span></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"> </span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'">Những đặc điểm vũ trụ luận của người Chăm Bàlamôn chi phối sâu sắc quan niệm về tín ngưỡng vòng đời.</span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><strong><em><span style="font-family: 'Arial'"></span></em></strong></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><strong><em><span style="font-family: 'Arial'">2. Quan niệm về cuộc sống</span></em></strong></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><strong><em><span style="font-family: 'Arial'"></span></em></strong></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'">Người Chăm từ xa xưa đã coi cuộc sống trên trần gian là một nơi cư ngụ tạm bợ. Họ quan niệm mọi người từ thế giới bên kia đến cõi trần như “một chuyến đi buôn” rồi lại về thế giới bên kia, thế giới vĩnh hằng. Trong văn hóa dân gian Chăm, có một Ariya (tráng ca) nổi tiếng là <em>Ariya Nau Ikak</em> (cuộc đời như một chuyến đi buôn) . Tráng ca này mượn hình ảnh cây đàn kanhi dùng trong nghi lễ tang ma Chăm để miêu tả vòng đời người Chăm từ khi sinh ra cho đến khi chết đi. Hình tượng của tác phẩm nói về cuộc đời như “một chuyến đi buôn” ngắn ngủi của con người, miêu tả đứa bé lúc lọt lòng, lớn lên lấy vợ lấy chồng, tả con người khi già yếu bệnh hoạn và nghi lễ tang ma bằng tiếng nhạc của cây đàn kanhi ai oán trong lễ hỏa táng của người Chăm Bàlamôn. Người Chăm xưa còn có một câu đố, đồng thời cũng là một câu thành ngữ đặc sắc miêu tả động tác đi của con người ở các giai đoạn của vòng đời người: <em>Page nau pak, pađiak klak nau dwa, bia harei nau klơw</em> (Sáng đi bốn chân, trưa đi hai chân, chiều lại đi ba chân) .</span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"> </span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'">Có lẽ vì quan niệm cõi sống là cõi tạm, cõi chết và sự giải thoát mới là đích con người hướng tới nên trong nghi lễ vòng đời người Chăm, những nghi lễ khi con người còn sống (trừ nghi lễ cưới xin) không được coi trọng: nghi lễ sinh đẻ không còn dấu ấn của giáo lý Bàlamôn mà chủ yếu là tín ngưỡng bản địa. Khác với Bàlamôn giáo, người Chăm Bàlamôn coi nhẹ lễ thức trưởng thành, không có lễ thượng thọ trong khi lại rất coi trọng nghi lễ tang ma.</span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'">Người Chăm rất coi trọng con số, đặc biệt là những con số 3 - 5 - 7 - 9. Những con số này thường xuyên xuất hiện trong các nghi lễ nhưng với những nguyên tắc chặt chẽ và nhất quán, thể hiện ở số lượng, chất liệu, tính chất lễ vật, đồ cúng tế, công cụ làm lễ, số lần khấn vái và các động tác hành lễ, thậm chí thể hiện ở cả số lượng cột, số lượng bếp, số lượng ông táo… Những con số khác nhau tùy theo những lễ thức khác nhau và đều mang những ý nghĩa linh thiêng nhất định. Trong các nghi lễ Chăm Bàlamôn rất hay sử dụng con số 3: 3 trái trứng, 3 miếng trầu têm, 3 chén rượu, 3 vạch vôi, hình tam giác 3 cạnh, 3 bếp, khấn vái, nằm lạy 3 lần, tang lễ 3 ngày</span><span style="font-family: 'Arial'"> v.v… các thầy cả sư giải thích con số 3 tượng trưng cho 3 cõi thiên - địa - nhân trong vũ trụ. Con số 5 cũng xuất hiện thường xuyên trong các nghi lễ Chăm (ngoại trừ nghi lễ tang ma). Các nghi lễ thường làm 5 mâm cúng, trên các khay trầu cau trong lễ cưới cũng như các nghi lễ cho người đang sống bao giờ cũng để 5 miếng trầu têm, tăng lữ Bàlamôn có 5 cấp, khi người chết nằm trong nhà lễ tang phải thắp 5 ngọn nến. Người Chăm quan niệm con số 5 là tượng trưng cho 5 vị thần linh trong cơ thể con người: 1 đầu, 2 vai và 2 chân. Có nhiều ý kiến cho rằng con số 5 của người Chăm có thể chịu ảnh hưởng quan niệm “ngũ hành, ngũ phương” của Trung Quốc. Phó cả sư Hán Đô cho biết, con số 5 là con số biểu trưng của người Chăm Bàlamôn nên các nghi lễ của Bàlamôn bao giờ cũng thể hiện con số 5, con số 3 là biểu trưng của người Chăm Bàni nên trong các nghi lễ của người Chăm Bàni bao giờ cũng phải thể hiện con số 3: 3 miếng trầu cau, 3 mâm lễ. Chúng tôi cho rằng, quan niệm về con số 5, được người Chăm Ninh Thuận coi là con số của người Chăm Bàlamôn ít nhiều chịu ảnh hưởng của tư tưởng Bàlamôn? Trong “Tha áo nghĩa thư” có viết về Brahma: “Người là Phạn thiên, Nhân đà la, sinh chủ và tất thảy các thần, người là <em>Địa - Thủy - Phong - Hỏa - Không</em>- Ngũ đại; người là mọi nguyên tố hỗn hợp…” .</span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'">Số 7 cũng thường xuyên xuất hiện, ngoài ý nghĩa là một số phiếm chỉ, người Chăm còn quan niệm nam có 7 vía, nữ có 9 vía (nam thất, nữ cửu) khá cụ thể, nên khi làm lễ cho đàn ông người ta dùng con số 7, cho nữ dùng con số 9. Trong nghi lễ tang ma, ở ngày thứ ba còn quan niệm bào thai đã được 7 tháng nên làm 7 mủng cơm. Đặc biệt, trong nghi lễ tang ma, người Chăm sử dụng rất nhiều con số 9, ngoài ý nghĩa “tái sinh”, người mẹ phải mang thai 9 tháng 10 ngày, con số 9 còn là một con số thiêng, số lớn nhất trong dãy số nguyên. Con số 7 và số 9 thường được coi là số phiếm chỉ (chỉ số rất nhiều), nhưng trong nghi lễ tang ma của người Chăm Bàlamôn, con số 9 là con số vừa mang tính biểu trưng vừa cụ thể, dùng để chỉ 9 tháng 10 ngày mang thai “tái sinh” cho người chết (xin xem phần lễ hỏa táng).</span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><em><span style="font-family: 'Arial'"></span></em></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><em><span style="font-family: 'Arial'"><strong>a. Quan niệm về hôn nhân</strong></span></em></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><em><span style="font-family: 'Arial'"></span></em></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'">Mặc dù bị chi phối bởi một tôn giáo phụ quyền, nhưng quan niệm về hôn nhân của người Chăm Bàlamôn lại chịu sự chi phối của tàn dư chế độ mẫu hệ. Người Chăm coi huyết thống là theo dòng họ mẹ nên không được kết hôn giữa những người cùng thờ chung một kút theo dòng họ mẹ (cùng thờ chung một <em>chiet atơw</em>). Từ xa xưa, người Chăm đã có luật tục về hôn nhân, nhưng không còn luật tục thành văn bản, có thể những văn bản ấy đã bị thất truyền. Đến năm 1950, ông Dương Tấn Phát, một trí thức người Chăm, nguyên là tri huyện huyện An Phước, tỉnh Ninh Thuận mới soạn thảo “Hộ luật Chàm”. Tuy hộ luật này chưa được các cấp có thẩm quyền thông qua nhưng rất có giá trị vì nó được hình thành từ luật tục bất thành văn, được rút ra từ phong tục tập quán vùng đồng bào Chăm và đã được thông qua, sửa đổi bởi một Hội đồng chức sắc hai tôn giáo Bàlamôn, Bàni và nhân sỹ trí thức Chàm lúc bấy giờ</span><span style="font-family: 'Arial'">. Đến nay, hôn nhân của người Chăm vẫn bị chi phối bởi chế độ mẫu hệ, duy trì chế độ hôn nhân đồng tôn giáo và hôn nhân đồng dân tộc. Người Chăm Ahier chỉ được kết hôn với người Chăm Ahiêr, nếu không tuân thủ thì khi chết, sẽ không được làm lễ tang dành cho người chết “trọn vẹn”, không được “giải thoát” và không được làm lễ nhập kút về với tổ tiên.</span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><em><span style="font-family: 'Arial'"></span></em></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><em><span style="font-family: 'Arial'"><strong>b. Quan niệm về hồn, vía và hồn ma</strong></span></em></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><em><span style="font-family: 'Arial'"></span></em></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'">Người Chăm quan niệm ở con người đang sống có hồn (<em>Sswan</em>) và vía (<em>Thơp hay sak</em>, <em>người Chăm còn có thuật ngữ Binguk yawa - có nghĩa là bóng vía</em>). Khi có người chết, nếu ông thầy không yểm bùa để bắt giữ hồn lại thì sẽ trở thành vong hồn (<em>Sswanthơp</em>). Nếu người chết không bình thường và không được thực hiện các lễ thức cúng vái thì vong hồn biến thành hồn ma (phat) quay lại quấy phá. Người Chăm rất sợ hồn ma (<em>phat</em>) hay vong hồn chết trẻ (<em>prauk</em> <em>patra</em>). Và, để giải thoát cho những vong hồn này, người Chăm phải tiến hành làm các nghi lễ như “lễ trả nợ lâu đời” (<em>chwai</em>) trong lễ “múa lớn” (<em>Rija praung</em>). Trước khi người chết tắt thở, gia đình phải đặt người chết nằm dưới đất vì người Chăm quan niệm con người sinh ra từ đất mẹ, nếu không, hồn người chết sẽ bị bắt đi. Vì vậy, nếu chết ở trên giường, phải mời thầy pháp (gru tiap bhut) đến làm lễ gọi hồn (<em>Ew angan Sswan</em>). Tuỳ theo từng “loại chết” mà có những quy định làm lễ tang phù hợp. Nếu làm không đúng mọi quy trình nghi lễ, người chết không những không tái sinh được mà còn thành hồn ma về gây mọi tai họa cho gia đình và dòng tộc.</span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><em><span style="font-family: 'Arial'"></span></em></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><em><span style="font-family: 'Arial'"><strong>3. Quan niệm về cõi chết</strong></span></em></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><em><span style="font-family: 'Arial'"></span></em></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'">Cái chết luôn là sự bí hiểm. Sự bí hiểm đó hấp dẫn mọi cá thể người, mọi dân tộc, mọi thời đại, mọi tầng lớp xã hội, bởi chưa ai “trông thấy” cái chết, chưa ai “biết” chết là như thế nào và có “thế giới bên kia” hay không như hầu hết các tôn giáo quan niệm? Vì vậy, con người đã tưởng tượng ra thế giới linh hồn, thế giới hồn ma, siêu hình sau khi chết. Hầu hết các dân tộc trên thế giới quan niệm rằng, chết là sang một thế giới khác. Mỗi dân tộc, mỗi tôn giáo lại có những quan niệm về “thế giới bên kia” khác nhau. Chết là sự đầu thai trở lại cõi trần hoặc hóa thần linh về ở “thế giới bên kia”. Các tộc người còn hình dung ra con đường để đi đến thế giới siêu hình ấy. PGS. Nguyễn Từ Chi có viết: “Người Mường cho rằng vũ trụ ba tầng, bốn thế giới, trong đó có “mường pưa tín” dành cho người chết ở trong lòng đất. Giữa “mường pưa tín” (mường ma) và “mường pưa” (mường con người đang sống) có mối liên hệ với nhau và nối với nhau bằng một đường ống” .</span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'">Đã có mặt trên cõi sống, bản năng của mọi sinh linh là luôn sợ chết. Các tôn giáo lớn trên thế giới đều có nguồn gốc triết lý về sự sống, cái chết và đều quan niệm “chết chưa phải là hết”. Quan niệm ấy tạo cho tín đồ một tâm lý không sợ chết, đồng thời răn dạy con người sống có nhân đức để được đền đáp ở thế giới bên kia.</span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'">Người Chăm Ahiêr hiện nay quan niệm thế giới bên kia có ba cõi ứng với ba tầng thiên - địa - nhân (xem hình vẽ 1). Cõi thứ nhất là cõi <em>patichih yang Atachah</em>, là cõi thiên đàng ở trên trời, dành cho linh hồn những người “chết tốt”, những người khi sống ở trần gian không có tội lỗi. Cõi thứ hai là cõi lulah, là cõi trần, khi chết được đầu thai trở lại làm người hay súc vật nào đó, tuỳ theo mức độ công lao, đạo đức hay tội lỗi khi sống ở trần gian theo thuyết luân hồi. Cõi thứ ba là cõi <em>sussah</em> hoặc <em>nưrak</em>, là cõi địa ngục, dành cho linh hồn những người khi sống ở trần gian có nhiều tội lỗi [SUP][12][/SUP]. Trong ba cõi trên, cõi thiên đường trên trời cao có nhiều tầng được phân bố theo vùng của thần mặt trăng, thần mặt trời, vùng sáng là dải Ngân hà, vùng tối vũ trụ là tầng cao nhất. Người Chăm có câu thành ngữ:<em>Tachuh tan tanưh riya, tajuh tơh akarah</em>. Có nghĩa là: “Bảy tầng địa ngục, bảy cõi thiên đàng”.</span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></span></p> <p style="text-align: center"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"><img src="https://www.vanhoahoc.edu.vn/images/stories/tusach/c3-02.JPG" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /> </span></span></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"> </span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'">Theo chúng tôi, những con số trong câu thành ngữ trên chỉ là số phiếm chỉ, chỉ số rất nhiều. Khi phỏng vấn phó cả sư Hán Đô, người làng Vụ Bổn, tôi được ông cho biết rằng trên trời có 5 tầng và giải thích rằng con số 5 thuộc dương (trời thuộc dương), dưới đất có 2 tầng (con số 2 thuộc âm, đất thuộc âm). Tầng trên cùng (tầng 5 trên trời) là tầng chỉ dành cho các vị cả sư và phó cả sư. Tầng 4 chỉ dành cho bà bóng dòng tộc. Tầng 3 dành cho những người chết bình thường nhưng phải chết từ 70 tuổi trở lên. Tầng 1 và tầng 2 dành cho những người chết không bình thường (chết xấu - <em>mưtai bhaw</em>). Còn những người không được làm lễ hỏa táng thì phải xuống 2 tầng ở dưới đất. Những người chết tốt thuộc dòng “Chăm chôn” (<em>Cham Jap brah</em>) hoặc khi chết dưới 15 tuổi thuộc dòng “Chăm thiêu” (<em>Cham chuh</em>) thì được xuống tầng 1, còn những người chết xấu thuộc dòng “Chăm chôn” thì phải xuống tầng 2 (tầng tối tăm, địa ngục).</span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'">Cõi địa ngục theo quan niệm của người Chăm Ahiêr có 2 tầng, chỉ dành cho những người thuộc những dòng họ đẳng cấp thấp, khi chết không được làm lễ hỏa táng mà chỉ được làm lễ tang chôn. Linh hồn người chết xuống tầng địa ngục nào là xét công, tội khi còn ở cõi trần. Ngoài cõi thiên đàng và địa ngục, còn có cõi chết trên mặt đất để cho linh hồn sau khi chết tái sinh làm người hay súc vật.</span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'">Trong lễ tang, người ta kiêng ăn những con vật đẻ ra con, chỉ ăn những con vật đẻ trứng. Chúng tôi đã phỏng vấn chi tiết này và được cả sư Hán Bằng (cả sư phụ trách khu vực tháp Pô Rômê) cho biết, sở dĩ không được ăn con vật đẻ con là do quan niệm có người chết đầu thai trở lại cõi trần để làm người hoặc súc vật nên nếu ăn con vật đẻ con có thể ăn phải con cháu hoặc cha mẹ mình (con người thuộc loài đẻ ra con).</span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><em><span style="font-family: 'Arial'"><strong></strong></span></em></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><em><span style="font-family: 'Arial'"><strong>4. Quan niệm về vòng đời, sự tái sinh và giải thoát (xem hình 2 )</strong></span></em></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><em><span style="font-family: 'Arial'"></span></em></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'">Một quan niệm mang tính phổ biến trong văn hóa nguyên thủy mà sau này phát triển thành tín ngưỡng của các dân tộc, các tôn giáo là sự “tái sinh” sau khi chết. Quan niệm “chết là sự tái sinh” thể hiện rất rõ trong nghi lễ tang ma của người Chăm Bàlamôn và nhất quán từ nội dung tâm linh cho đến hình thức hành lễ. Có thể thấy nghi lễ tang ma của người Chăm Bàlamôn như là sự vận hành của một cuộc tái sinh linh thiêng để đưa linh hồn người chết nhập về miền thường trụ. Về hình thức, trong nghi lễ tang ma phải làm sao thể hiện được sự đầu thai “9 tháng 10 ngày”. Quan niệm “tái sinh”, giải thoát, vòng luân hồi của người Chăm còn được thể hiện trong quan niệm về phương hướng được quy định trong các nghi lễ vòng đời. Khi sinh, người mẹ đẻ ngồi, quay mặt về hướng nam để cho đầu thai nhi lọt ra về hướng nam. Đến khi chết, người chết khi đưa lên giàn hỏa táng cũng được đặt đầu quay hướng nam để đầu thai “tái sinh” hay như ở hiện tượng quay đầu người chết (quay đầu thai nhi để sinh nở) khi khiêng ra nơi hỏa táng.</span></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></p> <p style="text-align: center"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><img src="https://www.vanhoahoc.edu.vn/images/stories/tusach/c3-03.JPG" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /> </span></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"> </span></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'">Những quan niệm vũ trụ luận, cõi sống, cõi chết của người Chăm được thể hiện khá nhất quán, mang tính biểu tượng cao trong những nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahiêr, là cơ sở để bước đầu giải mã, tìm hiểu nguyên nhân của thời gian, không gian hành lễ, của những biểu tượng thể hiện trong hàng loạt những động tác, lời cúng, của lễ vật và công cụ làm lễ. Những nghi lễ vòng đời người được trình bày dưới đây, chủ yếu tác giả lấy tư liệu điền dã thực tế nhiều lần, ở nhiều nghi lễ khác nhau tại vùng đồng bào Chăm Ahiêr ở Ninh Thuận, tập trung chủ yếu ở các làng Chăm Hữu Đức, Mỹ Nghiệp, Bầu Trúc, Chắt Thường, Hiếu Lễ, Như Bình thuộc huyện Ninh Phước, làng Bĩnh Nghĩa thuộc huyện Ninh Hải. Bên cạnh sự miêu thuật theo lát cắt đồng đại, chúng tôi có sử dụng tư liệu hồi cố, có những tư liệu của các đồng nghiệp đã nghiên cứu trước đó và có cả những tư liệu cổ, phỏng vấn sâu các vị cả sư Bàlamôn, những người Chăm lớn tuổi .</span></span></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'">Về trình tự, tác giả công trình xin được trình bày theo 3 giai đoạn chuyển tiếp theo cách phân chia của A.V. Gennep. Đó là các giai đoạn: Sinh, trưởng thành và tử. Trong đó, giai đoạn sinh được tính từ khi thụ thai đến trước giai đoạn trưởng thành.</span></span></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: blue">PHAN QUỐC ANH</span></span></span></span><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: blue">PGĐ Sở Văn hoá thông tin tỉnh Ninh Thuận</span></span></span></span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Phong Cầm, post: 4698, member: 75012"] [b]Quan niệm về vòng đời của người chăm ahiêr1[/b] [CENTER] [SIZE=4][COLOR=#333333][FONT=Arial][B][FONT=Arial] QUAN NIỆM VỀ VÒNG ĐỜI CỦA NGƯỜI CHĂM AHIÊR[/FONT][/B][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][B][I][FONT=Arial]1 [/FONT][/I][/B][/FONT][/COLOR][/SIZE][/CENTER] [SIZE=4][COLOR=#333333][FONT=Arial][B][I][FONT=Arial] Vài nét về vũ trụ luận [/FONT][/I][/B][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][FONT=Arial] - [I]Về đấng tạo hóa[/I]: Người Chăm với chế độ mẫu hệ luôn coi mẹ xứ sở Pô Inư Nưgar là đấng tạo hóa ra vũ trụ và sự sống của muôn loài (khác với kinh Vê đa, một tôn giáo phụ quyền, Brahma là thần sáng tạo tối cao). Và, với quan niệm lưỡng hợp âm - dương (yin - yang), bên cạnh thần mẹ xứ sở (âm) có thần Yang Pô, Yang Amư (thần trời, thần cha - dương) cũng được coi là đấng tạo hóa, còn Pô Păn là thần cai quản các thần, trông coi công việc thiên giới. Trong hầu hết các nghi lễ Chăm, ba vị thần trên luôn được thỉnh mời đầu tiên. Những đấng tạo hóa này sinh ra ba tầng vũ trụ: thiên - địa - nhân. Quan niệm về ba tầng vũ trụ của người Chăm rất rõ ràng, thể hiện ở trong bùa chú, trong các nghi lễ dân gian, nghi lễ tôn giáo và cả trong những lễ vật dâng cúng mà chúng tôi sẽ trình bày ở chương sau. [/FONT][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][FONT=Arial] - [I]Quan niệm âm - dương lưỡng hợp[/I]: thể hiện rõ trong đời sống tín ngưỡng người Chăm, thể hiện từ màu sắc sáng tối cho đến hình dạng của từng vật thể nhỏ nhất. [/FONT][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][I][FONT=Arial]Một số cặp âm - dương theo quan niệm của người Chăm [/FONT][/I][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][FONT=Arial] [/FONT][/FONT][/COLOR][/SIZE][CENTER] [SIZE=4][COLOR=#333333][FONT=Arial][FONT=Arial][IMG]https://www.vanhoahoc.edu.vn/images/stories/tusach/c3-01.JPG[/IMG] [/FONT][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][FONT=Arial] [/FONT][/FONT][/COLOR][/SIZE][/CENTER] [LEFT] [SIZE=4][COLOR=#333333][FONT=Arial][FONT=Arial][/FONT][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][FONT=Arial] Ngoài biểu tượng phồn thực linga - yoni mang tính đặc trưng về quan niệm âm dương của người Chăm theo Shiva giáo, tư duy xưa nay của người Chăm Ahiêr thể hiện nhất quán quan niệm âm - dương lưỡng hợp. [/FONT][FONT=Arial]Nếu có ngọn tháp tượng trưng cho núi (dương) thì phải có một hào rãnh hay một cái gì tượng trưng cho biển (âm). Tháp là biểu tượng linga, rãnh là yoni và hàng loạt các cặp âm - dương như: Ngày ([I]harei[/I] - dương) - đêm ([I]mưlơm[/I] - âm); mặt trời ([I]aditiak[/I] - dương) - mặt trăng ([I]channưk[/I] - âm); chẵn ([I]yơw[/I] - âm) - lẻ ([I]cauh[/I] - dương); phải (dương) - trái (âm); chỉ riêng trong cộng đồng người Chăm Ahiêr, nếu như lễ Katê (lễ cúng cha - dương), phải vào tháng 7 “nam thất” thì lễ Chabur (lễ cúng mẹ - âm), phải vào tháng 9 “nữ cửu”; thượng tuần trăng (dương) - hạ tuần trăng (âm) v.v… Thậm chí hai tôn giáo chính của người Chăm cũng được quan niệm là “lưỡng thể nhất hợp”: tôn giáo Bàlamôn ([I]ahier[/I]) được coi là biểu tượng dương, tôn giáo Bàni ([I]awal[/I]) được coi là biểu tượng âm. Lịch của người Chăm awal được tính theo chu kỳ của mặt trăng là lịch âm ([I]Sakawi[/I] [I]awal[/I]), lịch của người Chăm ahiêr tính theo chu kỳ vận động của mặt trời là dương ([I]Sakawi[/I] [I]ahier[/I]). Lịch Chăm có 8 can được chia làm hai: 4 can thuộc về dương và 4 can thuộc về âm. Lễ hội Katê của người Chăm Ahiêr được coi là lễ hội thuộc dương, phải vào tháng 7 (tháng 7 thuộc dương theo quan niệm “nam thất nữ cửu”), còn lễ Ramưvan của người Bàni lại được coi là thuộc âm, phải vào tháng 9 theo Chăm lịch; có lễ Palao pasah (cầu đảo tại cửa sông - âm), lại có lễ Pakâp halâu kraung (lễ chặn đầu nguồn sông - dương); có lễ cúng tạ thần lửa ở trên tháp (dương) lại có lễ cúng biển (cầu đảo) ở cửa biển (âm). Ngay trong tôn giáo Bàlamôn, lễ hội Katê là lễ cúng cha (dương) nên phải cúng vào buổi sáng (dương của ngày) và cúng món chay, lễ Chabul là lễ cúng mụ, phải vào buổi chiều (âm) và cúng món mặn. Lễ cưới thuộc âm (mẫu hệ) nên đón rể và lễ cưới phải vào buổi chiều, phải vào giờ âm trong ngày và phải vào hạ tuần trăng (âm của tháng). Các chức sắc Bàni là đàn bà (không được để râu), nhưng trong trang phục lại đeo biểu tượng dương, ngược lại, chức sắc Bàlamôn (để râu) là đàn ông nhưng lại đeo biểu tượng âm vật. Ông thầy Bàlamôn khi làm lễ khấn vái thần linh phải chụm hai ngón tay cái và hai ngón tay trỏ vào với nhau để tạo hình tam giác, khi bịt đầu, ông thầy phải cuốn khăn hình tam giác. Ngược lại, ông thầy Char (chức sắc Bàni) lại đội một cái mũ rộng ([I]plah[/I]) là biểu tượng bầu trời (dương). Người Chăm quan niệm rằng ông thầy thuộc dương thì phải làm lễ cho âm, ông thầy thuộc âm thì phải làm lễ cho dương. Theo quan niệm ấy, âm và dương là hai yếu tố hài hòa tạo nên tự nhiên và sự sống. [/FONT][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][FONT=Arial] - [I]Về phương hướng[/I]: Người Chăm rất chú trọng về phương hướng và cũng tuân thủ quan niệm âm - dương. Người Chăm quan niệm hướng đông là hướng mặt trời mọc, là hướng của sự sống (dương). Vì vậy, gần như tất cả các tháp Chăm cũng như khuôn viên nhà cổ truyền đều có cổng hướng về phía đông. Ngược lại, hướng tây là hướng “chết” (âm) nên trong nhà lễ tang, hai cây chà gặt phân ranh giới đông - tây. Điều này phù hợp với quan niệm của hầu hết các dân tộc khác trên thế giới, cho rằng hướng “sống” là phía mặt trời mọc. Hướng chết là hướng mặt trời lặn “khuất núi”. Linh hồn người chết bao giờ cũng đi theo hướng mặt trời lặn.[/FONT][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][FONT=Arial]Về hướng bắc - nam trong quan niệm của người Chăm khá phức tạp. Tư liệu điền dã của tác giả cho thấy, trong nghi lễ sinh đẻ, khi người mẹ sinh con phải ngồi quay đầu về hướng bắc, để cho đầu thai nhi lọt ra về hướng nam (hướng “sống” - dương). Trong nghi lễ tang ma, người chết cũng được đặt đầu quay về hướng nam nên nhiều bài viết cho rằng người Chăm quan niệm hướng nam là hướng “chết”. Theo suy luận của chúng tôi, quan niệm về phương hướng trong nghi lễ vòng đời của người Chăm Bàlamôn tuy phức tạp nhưng nhất quán, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và tuân thủ theo vòng luân hồi. Khi sinh đẻ, thai nhi quay đầu hướng nam (hướng sự sống cho người sống) và đến khi chết, người chết lại được đặt quay đầu về hướng nam (hướng chết đối với người chết, nhưng cũng là hướng sống vì tang lễ là lễ “tái sinh”). Đứa trẻ khi sinh ra quay đầu hướng nam để rồi đến khi chết cũng vẫn quay đầu hướng nam tiếp tục vòng luân hồi. Vì vậy hướng nam vừa là hướng “sống” (cho người sống) vừa là hướng “chết” (cho người chết) và với quan niệm tái sinh thì đó lại là hướng “sống” (đầu thai sang thế giới bên kia). Điều này phù hợp với quan niệm âm dương chung: hướng nam là hướng dương.[/FONT][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][FONT=Arial] Những đặc điểm vũ trụ luận của người Chăm Bàlamôn chi phối sâu sắc quan niệm về tín ngưỡng vòng đời. [/FONT][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][B][I][FONT=Arial] 2. Quan niệm về cuộc sống [/FONT][/I][/B][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][FONT=Arial] Người Chăm từ xa xưa đã coi cuộc sống trên trần gian là một nơi cư ngụ tạm bợ. Họ quan niệm mọi người từ thế giới bên kia đến cõi trần như “một chuyến đi buôn” rồi lại về thế giới bên kia, thế giới vĩnh hằng. Trong văn hóa dân gian Chăm, có một Ariya (tráng ca) nổi tiếng là [I]Ariya Nau Ikak[/I] (cuộc đời như một chuyến đi buôn) . Tráng ca này mượn hình ảnh cây đàn kanhi dùng trong nghi lễ tang ma Chăm để miêu tả vòng đời người Chăm từ khi sinh ra cho đến khi chết đi. Hình tượng của tác phẩm nói về cuộc đời như “một chuyến đi buôn” ngắn ngủi của con người, miêu tả đứa bé lúc lọt lòng, lớn lên lấy vợ lấy chồng, tả con người khi già yếu bệnh hoạn và nghi lễ tang ma bằng tiếng nhạc của cây đàn kanhi ai oán trong lễ hỏa táng của người Chăm Bàlamôn. Người Chăm xưa còn có một câu đố, đồng thời cũng là một câu thành ngữ đặc sắc miêu tả động tác đi của con người ở các giai đoạn của vòng đời người: [I]Page nau pak, pađiak klak nau dwa, bia harei nau klơw[/I] (Sáng đi bốn chân, trưa đi hai chân, chiều lại đi ba chân) . [/FONT][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][FONT=Arial] Có lẽ vì quan niệm cõi sống là cõi tạm, cõi chết và sự giải thoát mới là đích con người hướng tới nên trong nghi lễ vòng đời người Chăm, những nghi lễ khi con người còn sống (trừ nghi lễ cưới xin) không được coi trọng: nghi lễ sinh đẻ không còn dấu ấn của giáo lý Bàlamôn mà chủ yếu là tín ngưỡng bản địa. Khác với Bàlamôn giáo, người Chăm Bàlamôn coi nhẹ lễ thức trưởng thành, không có lễ thượng thọ trong khi lại rất coi trọng nghi lễ tang ma. [/FONT][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][FONT=Arial] Người Chăm rất coi trọng con số, đặc biệt là những con số 3 - 5 - 7 - 9. Những con số này thường xuyên xuất hiện trong các nghi lễ nhưng với những nguyên tắc chặt chẽ và nhất quán, thể hiện ở số lượng, chất liệu, tính chất lễ vật, đồ cúng tế, công cụ làm lễ, số lần khấn vái và các động tác hành lễ, thậm chí thể hiện ở cả số lượng cột, số lượng bếp, số lượng ông táo… Những con số khác nhau tùy theo những lễ thức khác nhau và đều mang những ý nghĩa linh thiêng nhất định. Trong các nghi lễ Chăm Bàlamôn rất hay sử dụng con số 3: 3 trái trứng, 3 miếng trầu têm, 3 chén rượu, 3 vạch vôi, hình tam giác 3 cạnh, 3 bếp, khấn vái, nằm lạy 3 lần, tang lễ 3 ngày[/FONT][FONT=Arial] v.v… các thầy cả sư giải thích con số 3 tượng trưng cho 3 cõi thiên - địa - nhân trong vũ trụ. Con số 5 cũng xuất hiện thường xuyên trong các nghi lễ Chăm (ngoại trừ nghi lễ tang ma). Các nghi lễ thường làm 5 mâm cúng, trên các khay trầu cau trong lễ cưới cũng như các nghi lễ cho người đang sống bao giờ cũng để 5 miếng trầu têm, tăng lữ Bàlamôn có 5 cấp, khi người chết nằm trong nhà lễ tang phải thắp 5 ngọn nến. Người Chăm quan niệm con số 5 là tượng trưng cho 5 vị thần linh trong cơ thể con người: 1 đầu, 2 vai và 2 chân. Có nhiều ý kiến cho rằng con số 5 của người Chăm có thể chịu ảnh hưởng quan niệm “ngũ hành, ngũ phương” của Trung Quốc. Phó cả sư Hán Đô cho biết, con số 5 là con số biểu trưng của người Chăm Bàlamôn nên các nghi lễ của Bàlamôn bao giờ cũng thể hiện con số 5, con số 3 là biểu trưng của người Chăm Bàni nên trong các nghi lễ của người Chăm Bàni bao giờ cũng phải thể hiện con số 3: 3 miếng trầu cau, 3 mâm lễ. Chúng tôi cho rằng, quan niệm về con số 5, được người Chăm Ninh Thuận coi là con số của người Chăm Bàlamôn ít nhiều chịu ảnh hưởng của tư tưởng Bàlamôn? Trong “Tha áo nghĩa thư” có viết về Brahma: “Người là Phạn thiên, Nhân đà la, sinh chủ và tất thảy các thần, người là [I]Địa - Thủy - Phong - Hỏa - Không[/I]- Ngũ đại; người là mọi nguyên tố hỗn hợp…” . [/FONT][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][FONT=Arial] Số 7 cũng thường xuyên xuất hiện, ngoài ý nghĩa là một số phiếm chỉ, người Chăm còn quan niệm nam có 7 vía, nữ có 9 vía (nam thất, nữ cửu) khá cụ thể, nên khi làm lễ cho đàn ông người ta dùng con số 7, cho nữ dùng con số 9. Trong nghi lễ tang ma, ở ngày thứ ba còn quan niệm bào thai đã được 7 tháng nên làm 7 mủng cơm. Đặc biệt, trong nghi lễ tang ma, người Chăm sử dụng rất nhiều con số 9, ngoài ý nghĩa “tái sinh”, người mẹ phải mang thai 9 tháng 10 ngày, con số 9 còn là một con số thiêng, số lớn nhất trong dãy số nguyên. Con số 7 và số 9 thường được coi là số phiếm chỉ (chỉ số rất nhiều), nhưng trong nghi lễ tang ma của người Chăm Bàlamôn, con số 9 là con số vừa mang tính biểu trưng vừa cụ thể, dùng để chỉ 9 tháng 10 ngày mang thai “tái sinh” cho người chết (xin xem phần lễ hỏa táng). [/FONT][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][I][FONT=Arial] [B]a. Quan niệm về hôn nhân[/B] [/FONT][/I][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][FONT=Arial] Mặc dù bị chi phối bởi một tôn giáo phụ quyền, nhưng quan niệm về hôn nhân của người Chăm Bàlamôn lại chịu sự chi phối của tàn dư chế độ mẫu hệ. Người Chăm coi huyết thống là theo dòng họ mẹ nên không được kết hôn giữa những người cùng thờ chung một kút theo dòng họ mẹ (cùng thờ chung một [I]chiet atơw[/I]). Từ xa xưa, người Chăm đã có luật tục về hôn nhân, nhưng không còn luật tục thành văn bản, có thể những văn bản ấy đã bị thất truyền. Đến năm 1950, ông Dương Tấn Phát, một trí thức người Chăm, nguyên là tri huyện huyện An Phước, tỉnh Ninh Thuận mới soạn thảo “Hộ luật Chàm”. Tuy hộ luật này chưa được các cấp có thẩm quyền thông qua nhưng rất có giá trị vì nó được hình thành từ luật tục bất thành văn, được rút ra từ phong tục tập quán vùng đồng bào Chăm và đã được thông qua, sửa đổi bởi một Hội đồng chức sắc hai tôn giáo Bàlamôn, Bàni và nhân sỹ trí thức Chàm lúc bấy giờ[/FONT][FONT=Arial]. Đến nay, hôn nhân của người Chăm vẫn bị chi phối bởi chế độ mẫu hệ, duy trì chế độ hôn nhân đồng tôn giáo và hôn nhân đồng dân tộc. Người Chăm Ahier chỉ được kết hôn với người Chăm Ahiêr, nếu không tuân thủ thì khi chết, sẽ không được làm lễ tang dành cho người chết “trọn vẹn”, không được “giải thoát” và không được làm lễ nhập kút về với tổ tiên. [/FONT][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][I][FONT=Arial] [B]b. Quan niệm về hồn, vía và hồn ma[/B] [/FONT][/I][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][FONT=Arial] Người Chăm quan niệm ở con người đang sống có hồn ([I]Sswan[/I]) và vía ([I]Thơp hay sak[/I], [I]người Chăm còn có thuật ngữ Binguk yawa - có nghĩa là bóng vía[/I]). Khi có người chết, nếu ông thầy không yểm bùa để bắt giữ hồn lại thì sẽ trở thành vong hồn ([I]Sswanthơp[/I]). Nếu người chết không bình thường và không được thực hiện các lễ thức cúng vái thì vong hồn biến thành hồn ma (phat) quay lại quấy phá. Người Chăm rất sợ hồn ma ([I]phat[/I]) hay vong hồn chết trẻ ([I]prauk[/I] [I]patra[/I]). Và, để giải thoát cho những vong hồn này, người Chăm phải tiến hành làm các nghi lễ như “lễ trả nợ lâu đời” ([I]chwai[/I]) trong lễ “múa lớn” ([I]Rija praung[/I]). Trước khi người chết tắt thở, gia đình phải đặt người chết nằm dưới đất vì người Chăm quan niệm con người sinh ra từ đất mẹ, nếu không, hồn người chết sẽ bị bắt đi. Vì vậy, nếu chết ở trên giường, phải mời thầy pháp (gru tiap bhut) đến làm lễ gọi hồn ([I]Ew angan Sswan[/I]). Tuỳ theo từng “loại chết” mà có những quy định làm lễ tang phù hợp. Nếu làm không đúng mọi quy trình nghi lễ, người chết không những không tái sinh được mà còn thành hồn ma về gây mọi tai họa cho gia đình và dòng tộc. [/FONT][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][I][FONT=Arial] [B]3. Quan niệm về cõi chết[/B] [/FONT][/I][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][FONT=Arial] Cái chết luôn là sự bí hiểm. Sự bí hiểm đó hấp dẫn mọi cá thể người, mọi dân tộc, mọi thời đại, mọi tầng lớp xã hội, bởi chưa ai “trông thấy” cái chết, chưa ai “biết” chết là như thế nào và có “thế giới bên kia” hay không như hầu hết các tôn giáo quan niệm? Vì vậy, con người đã tưởng tượng ra thế giới linh hồn, thế giới hồn ma, siêu hình sau khi chết. Hầu hết các dân tộc trên thế giới quan niệm rằng, chết là sang một thế giới khác. Mỗi dân tộc, mỗi tôn giáo lại có những quan niệm về “thế giới bên kia” khác nhau. Chết là sự đầu thai trở lại cõi trần hoặc hóa thần linh về ở “thế giới bên kia”. Các tộc người còn hình dung ra con đường để đi đến thế giới siêu hình ấy. PGS. Nguyễn Từ Chi có viết: “Người Mường cho rằng vũ trụ ba tầng, bốn thế giới, trong đó có “mường pưa tín” dành cho người chết ở trong lòng đất. Giữa “mường pưa tín” (mường ma) và “mường pưa” (mường con người đang sống) có mối liên hệ với nhau và nối với nhau bằng một đường ống” . [/FONT][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][FONT=Arial] Đã có mặt trên cõi sống, bản năng của mọi sinh linh là luôn sợ chết. Các tôn giáo lớn trên thế giới đều có nguồn gốc triết lý về sự sống, cái chết và đều quan niệm “chết chưa phải là hết”. Quan niệm ấy tạo cho tín đồ một tâm lý không sợ chết, đồng thời răn dạy con người sống có nhân đức để được đền đáp ở thế giới bên kia. [/FONT][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][FONT=Arial] Người Chăm Ahiêr hiện nay quan niệm thế giới bên kia có ba cõi ứng với ba tầng thiên - địa - nhân (xem hình vẽ 1). Cõi thứ nhất là cõi [I]patichih yang Atachah[/I], là cõi thiên đàng ở trên trời, dành cho linh hồn những người “chết tốt”, những người khi sống ở trần gian không có tội lỗi. Cõi thứ hai là cõi lulah, là cõi trần, khi chết được đầu thai trở lại làm người hay súc vật nào đó, tuỳ theo mức độ công lao, đạo đức hay tội lỗi khi sống ở trần gian theo thuyết luân hồi. Cõi thứ ba là cõi [I]sussah[/I] hoặc [I]nưrak[/I], là cõi địa ngục, dành cho linh hồn những người khi sống ở trần gian có nhiều tội lỗi [SUP][12][/SUP]. Trong ba cõi trên, cõi thiên đường trên trời cao có nhiều tầng được phân bố theo vùng của thần mặt trăng, thần mặt trời, vùng sáng là dải Ngân hà, vùng tối vũ trụ là tầng cao nhất. Người Chăm có câu thành ngữ:[I]Tachuh tan tanưh riya, tajuh tơh akarah[/I]. Có nghĩa là: “Bảy tầng địa ngục, bảy cõi thiên đàng”. [/FONT][/FONT][/COLOR][/SIZE][/LEFT] [CENTER] [SIZE=4][COLOR=#333333][FONT=Arial][FONT=Arial][/FONT][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][FONT=Arial][IMG]https://www.vanhoahoc.edu.vn/images/stories/tusach/c3-02.JPG[/IMG] [/FONT][/FONT][/COLOR][/SIZE][/CENTER] [LEFT] [SIZE=4][COLOR=#333333][FONT=Arial][FONT=Arial] [/FONT][/FONT][/COLOR] [COLOR=#333333][FONT=Arial][FONT=Arial]Theo chúng tôi, những con số trong câu thành ngữ trên chỉ là số phiếm chỉ, chỉ số rất nhiều. Khi phỏng vấn phó cả sư Hán Đô, người làng Vụ Bổn, tôi được ông cho biết rằng trên trời có 5 tầng và giải thích rằng con số 5 thuộc dương (trời thuộc dương), dưới đất có 2 tầng (con số 2 thuộc âm, đất thuộc âm). Tầng trên cùng (tầng 5 trên trời) là tầng chỉ dành cho các vị cả sư và phó cả sư. Tầng 4 chỉ dành cho bà bóng dòng tộc. Tầng 3 dành cho những người chết bình thường nhưng phải chết từ 70 tuổi trở lên. Tầng 1 và tầng 2 dành cho những người chết không bình thường (chết xấu - [I]mưtai bhaw[/I]). Còn những người không được làm lễ hỏa táng thì phải xuống 2 tầng ở dưới đất. Những người chết tốt thuộc dòng “Chăm chôn” ([I]Cham Jap brah[/I]) hoặc khi chết dưới 15 tuổi thuộc dòng “Chăm thiêu” ([I]Cham chuh[/I]) thì được xuống tầng 1, còn những người chết xấu thuộc dòng “Chăm chôn” thì phải xuống tầng 2 (tầng tối tăm, địa ngục). [/FONT][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][FONT=Arial] Cõi địa ngục theo quan niệm của người Chăm Ahiêr có 2 tầng, chỉ dành cho những người thuộc những dòng họ đẳng cấp thấp, khi chết không được làm lễ hỏa táng mà chỉ được làm lễ tang chôn. Linh hồn người chết xuống tầng địa ngục nào là xét công, tội khi còn ở cõi trần. Ngoài cõi thiên đàng và địa ngục, còn có cõi chết trên mặt đất để cho linh hồn sau khi chết tái sinh làm người hay súc vật. [/FONT][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][FONT=Arial] Trong lễ tang, người ta kiêng ăn những con vật đẻ ra con, chỉ ăn những con vật đẻ trứng. Chúng tôi đã phỏng vấn chi tiết này và được cả sư Hán Bằng (cả sư phụ trách khu vực tháp Pô Rômê) cho biết, sở dĩ không được ăn con vật đẻ con là do quan niệm có người chết đầu thai trở lại cõi trần để làm người hoặc súc vật nên nếu ăn con vật đẻ con có thể ăn phải con cháu hoặc cha mẹ mình (con người thuộc loài đẻ ra con). [/FONT][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][I][FONT=Arial][B] 4. Quan niệm về vòng đời, sự tái sinh và giải thoát (xem hình 2 )[/B] [/FONT][/I][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][FONT=Arial] Một quan niệm mang tính phổ biến trong văn hóa nguyên thủy mà sau này phát triển thành tín ngưỡng của các dân tộc, các tôn giáo là sự “tái sinh” sau khi chết. Quan niệm “chết là sự tái sinh” thể hiện rất rõ trong nghi lễ tang ma của người Chăm Bàlamôn và nhất quán từ nội dung tâm linh cho đến hình thức hành lễ. Có thể thấy nghi lễ tang ma của người Chăm Bàlamôn như là sự vận hành của một cuộc tái sinh linh thiêng để đưa linh hồn người chết nhập về miền thường trụ. Về hình thức, trong nghi lễ tang ma phải làm sao thể hiện được sự đầu thai “9 tháng 10 ngày”. Quan niệm “tái sinh”, giải thoát, vòng luân hồi của người Chăm còn được thể hiện trong quan niệm về phương hướng được quy định trong các nghi lễ vòng đời. Khi sinh, người mẹ đẻ ngồi, quay mặt về hướng nam để cho đầu thai nhi lọt ra về hướng nam. Đến khi chết, người chết khi đưa lên giàn hỏa táng cũng được đặt đầu quay hướng nam để đầu thai “tái sinh” hay như ở hiện tượng quay đầu người chết (quay đầu thai nhi để sinh nở) khi khiêng ra nơi hỏa táng. [/FONT][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial] [/FONT][/COLOR][/SIZE][/LEFT] [CENTER] [SIZE=4][COLOR=#333333][FONT=Arial][IMG]https://www.vanhoahoc.edu.vn/images/stories/tusach/c3-03.JPG[/IMG] [/FONT][/COLOR] [COLOR=#333333][FONT=Arial][FONT=Arial]Những quan niệm vũ trụ luận, cõi sống, cõi chết của người Chăm được thể hiện khá nhất quán, mang tính biểu tượng cao trong những nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahiêr, là cơ sở để bước đầu giải mã, tìm hiểu nguyên nhân của thời gian, không gian hành lễ, của những biểu tượng thể hiện trong hàng loạt những động tác, lời cúng, của lễ vật và công cụ làm lễ. Những nghi lễ vòng đời người được trình bày dưới đây, chủ yếu tác giả lấy tư liệu điền dã thực tế nhiều lần, ở nhiều nghi lễ khác nhau tại vùng đồng bào Chăm Ahiêr ở Ninh Thuận, tập trung chủ yếu ở các làng Chăm Hữu Đức, Mỹ Nghiệp, Bầu Trúc, Chắt Thường, Hiếu Lễ, Như Bình thuộc huyện Ninh Phước, làng Bĩnh Nghĩa thuộc huyện Ninh Hải. Bên cạnh sự miêu thuật theo lát cắt đồng đại, chúng tôi có sử dụng tư liệu hồi cố, có những tư liệu của các đồng nghiệp đã nghiên cứu trước đó và có cả những tư liệu cổ, phỏng vấn sâu các vị cả sư Bàlamôn, những người Chăm lớn tuổi . [/FONT][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial][FONT=Arial] Về trình tự, tác giả công trình xin được trình bày theo 3 giai đoạn chuyển tiếp theo cách phân chia của A.V. Gennep. Đó là các giai đoạn: Sinh, trưởng thành và tử. Trong đó, giai đoạn sinh được tính từ khi thụ thai đến trước giai đoạn trưởng thành. [/FONT][/FONT][/COLOR][/SIZE] [COLOR=#333333][FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=blue]PHAN QUỐC ANH[/COLOR][/SIZE][/FONT][/COLOR][COLOR=#333333][FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=blue]PGĐ Sở Văn hoá thông tin tỉnh Ninh Thuận[/COLOR][/SIZE][/FONT][/COLOR][/CENTER] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HÓA
Văn hóa Việt Nam
Vài nét về văn hóa Chămpa
Top