Đề bài: Tuyên ngôn độc lập – áng thiên cổ hùng văn của thời đại mới.
“Tuyên ngôn độc lập” mở đầu bằng một chân lí bất di bất dịch về quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người. Đó chính là nguyên lí làm cơ sở tư tưởng cho toàn bản tuyên ngôn. Nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh không trực tiếp nêu lên nguyên lí ấy mà lại dẫn ra từ hai bản tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mĩ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 từng làm vẻ vang cho truyền thống tư tưởng và văn hoá của những dân tộc ấy. Cách viết như vậy: “vừa đủ sức thuyết phục để khoá chặt vấn đề vừa tỏ ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mĩ để “chặn họng” chúng lại, nếu nhất định chúng tiến quân xâm lược Việt Nam như Người đã từng nhận rõ dã tâm xâm lược của chúng. Đây chính là nghệ thuật “lấy gậy ông đập lưng ông” – ngón võ dân gian mà Người sử dụng thật tài tình, đắc địa.
Nhưng không chỉ nhắc lại mà Người còn suy rộng ra từ hai bản tuyên ngôn ấy: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Đây là một đóng góp đầy ý nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, như một nhà văn hoá nước ngoài đã thừa nhận: “Cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của dân tộc. Như vậy tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình”. Bão táp cách mạng ở các nước thuộc địa đã nổi lên trên khắp thế giới vào nửa sau thế kỉ XX, phải chăng cũng từ tư tưởng lớn đó của Người?
Phần tiếp theo của bản Tuyên ngôn là chứng minh nguyên lí đã nêu. Ai thực hiện đúng nguyên lí, và ai đã làm trái nguyên lí ấy - tất cả đều được bản Tuyên ngôn nêu lên một cách hệ thống lập luận hết sức chặt chẽ và đanh thép, với những sự thật rõ ràng “không ai chối cãi được”. Chính bọn thực dân Pháp đã “lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa. Chúng đã gây ra biết bao tội ác dã man, đẫm máu về cả chính trị và kinh tế đối với nhân dân ta.
Bản Tuyên ngôn khẳng định dân tộc Việt Nam là Người đã thực hiện đúng nguyên lí. Dân tộc ta có quyền được hưởng độc lập, tự do, có đủ tư cách làm chủ đất nước và đã đứng lên để giành quyền tự do, độc lập ấy. Một dân tộc như thế thật xứng đáng được hưởng tự do, độc lập, và điều này đã vang lên đang thép trong lời khẳng định hùng hồn tuôn trào từ trái tim yêu nước tự hào của người viết: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”
Tư tưởng ấy được biểu hiện tuyệt vời trong một bài chính luận mẫu mực khiến nó được xem như là áng thiên cổ hùng văn của thời đại cách mạng vô sản. Áng thiên cổ hùng văn ấy gắn liền với tên tuổi người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới Hồ Chí Minh, mở ra một trang sử mới cho đất nước và dân tộc Việt Nam đi lên từ bấy đến nay.
Bài làm
“Tuyên ngôn độc lập cùa Hồ Chí Minh, mở ra một kỉ nguyên của Độc lập, Tự do và Chủ nghĩa xã hội. Nếu Thơ thần vang lên như hồi kèn xung trận, cổ vũ tướng sĩ vượt sông Cầu đuổi giặc Tống đến tận biên giới; nếu Bình Ngô đại cáo sang sảng như tiếng gươm khua trên đầu thù trong tiếng ca khải hoàn thắng trận thì Tuyên ngôn Độc lập là áng thiên cổ hùng văn của thời đại cách mạng vô sản đã chấm dứt một thời kì đau thương nô lệ của dân tộc để mở ra một trang sử mới huy hoàng cho đất nước.
“Tuyên ngôn độc lập” mở đầu bằng một chân lí bất di bất dịch về quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người. Đó chính là nguyên lí làm cơ sở tư tưởng cho toàn bản tuyên ngôn. Nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh không trực tiếp nêu lên nguyên lí ấy mà lại dẫn ra từ hai bản tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mĩ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 từng làm vẻ vang cho truyền thống tư tưởng và văn hoá của những dân tộc ấy. Cách viết như vậy: “vừa đủ sức thuyết phục để khoá chặt vấn đề vừa tỏ ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mĩ để “chặn họng” chúng lại, nếu nhất định chúng tiến quân xâm lược Việt Nam như Người đã từng nhận rõ dã tâm xâm lược của chúng. Đây chính là nghệ thuật “lấy gậy ông đập lưng ông” – ngón võ dân gian mà Người sử dụng thật tài tình, đắc địa.
Nhưng không chỉ nhắc lại mà Người còn suy rộng ra từ hai bản tuyên ngôn ấy: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Đây là một đóng góp đầy ý nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, như một nhà văn hoá nước ngoài đã thừa nhận: “Cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của dân tộc. Như vậy tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình”. Bão táp cách mạng ở các nước thuộc địa đã nổi lên trên khắp thế giới vào nửa sau thế kỉ XX, phải chăng cũng từ tư tưởng lớn đó của Người?
Phần tiếp theo của bản Tuyên ngôn là chứng minh nguyên lí đã nêu. Ai thực hiện đúng nguyên lí, và ai đã làm trái nguyên lí ấy - tất cả đều được bản Tuyên ngôn nêu lên một cách hệ thống lập luận hết sức chặt chẽ và đanh thép, với những sự thật rõ ràng “không ai chối cãi được”. Chính bọn thực dân Pháp đã “lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa. Chúng đã gây ra biết bao tội ác dã man, đẫm máu về cả chính trị và kinh tế đối với nhân dân ta.
Bản Tuyên ngôn khẳng định dân tộc Việt Nam là Người đã thực hiện đúng nguyên lí. Dân tộc ta có quyền được hưởng độc lập, tự do, có đủ tư cách làm chủ đất nước và đã đứng lên để giành quyền tự do, độc lập ấy. Một dân tộc như thế thật xứng đáng được hưởng tự do, độc lập, và điều này đã vang lên đang thép trong lời khẳng định hùng hồn tuôn trào từ trái tim yêu nước tự hào của người viết: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”
Tư tưởng ấy được biểu hiện tuyệt vời trong một bài chính luận mẫu mực khiến nó được xem như là áng thiên cổ hùng văn của thời đại cách mạng vô sản. Áng thiên cổ hùng văn ấy gắn liền với tên tuổi người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới Hồ Chí Minh, mở ra một trang sử mới cho đất nước và dân tộc Việt Nam đi lên từ bấy đến nay.