Tư tưởng HCM

  • Thread starter Thread starter GIAP
  • Ngày gửi Ngày gửi
Xin lỗi bạn hãy hỏi ở chuyên mục phù hợp hơn.Có thể vào chuyên mục Lịch sử được không ?
Nhờ Mod Hoặc Smod chuyển những bài này đến nơi thích hợp nhé !
 
TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VỚI VẤN ĐỀ

XÂY DỰNG VĂN HOÁ



Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như việc vận dụng tư tưởng của Người trong mọi lĩnh vực của sự nghiệp cách mạng Việt Nam, với sự đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cách mạng cũng như những con người Việt Nam mới luôn là vấn đề thời sự, thể hiện tính cần thiết, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải tiếp tục đào sâu suy nghĩ, kiên trì phấn đấu và noi theo. Đó là sự nghiệp của toàn Đảng, của hệ thống chính trị, nhằm góp phần xây dựng thành công một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

1 - Vị trí của vấn đề đạo đức trong văn hóa nói chung

Văn hóa, theo định nghĩa chung nhất, là những giá trị vật chất và tinh thần mà loài người sáng tạo nên trong tiến trình lịch sử. Còn theo cách hiểu thông thường nhất, đó là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, bao gồm cả tư tưởng xã hội, tri thức xã hội, đạo đức xã hội, đời sống và lối sống xã hội...

vanhoa.jpg


Bác Hồ đi thăm bà con nông dân tỉnh Tuyên Quang trong cải cách ruộng đất.

Không phải đến bây giờ, mà ngay từ lâu, khi Đảng ta mới thành lập và khi nhà nước cách mạng mới ra đời, Bác Hồ đã khẳng định rằng văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, "văn hóa soi đường cho quốc dân đi". Có nghĩa, đạo đức chỉ là một bộ phận của văn hóa chứ không phải là toàn bộ nền văn hóa. Tuy nhiên, đó là bộ phận có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Bởi lẽ, khi xem xét trình độ văn hóa của một xã hội, người ta không thể không nói đến con người trong xã hội, mà nói đến con người thì không thể không nói đến đạo đức. Tư tưởng xã hội và đạo đức xã hội đều có vai trò quyết định đối với hành vi của con người trong xã hội. Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc sống và hành động được dư luận xã hội thừa nhận. Những tiêu chuẩn, nguyên tắc đó quy định, điều chỉnh hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội. Như vậy, đạo đức cũng chính là phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn đó mà có. Trong các quan hệ xã hội, những vấn đề thuộc về dân tâm, dân ý, dân trí, dân quyền, và dân sinh ..., đều thuộc về và là sự biểu hiện của văn hóa một xã hội, mà mức độ biểu hiện cao hay thấp tùy thuộc một phần quan trọng vào đạo đức.

2 - Vị trí của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh

Đại hội IX của Đảng ta đã đưa ra một mệnh đề cấu thành định nghĩa rất chuẩn xác về tư tưởng Hồ Chí Minh, rằng "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam". Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh cần được nghiên cứu không phải dưới góc độ những ý kiến, những suy nghĩ riêng lẻ, cụ thể, mà trong sự tổng hợp có tính hệ thống, tức là nghiên cứu dưới góc độ một học thuyết chính trị - cách mạng. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một bộ phận của tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh. Nói cách khác, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là một bộ phận của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, và tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa lại là một bộ phận của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương tiêu biểu, một mẫu mực tuyệt vời về đạo đức, không chỉ đạo đức của con người xã hội mà còn là đạo đức của một lãnh tụ cách mạng, suốt đời hy sinh, phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Tuy nhiên, nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ là nghiên cứu những phẩm chất cao quý thể hiện trong cuộc sống của Người, mà còn là nghiên cứu những quan điểm của Người về đạo đức, những quan điểm đó đã, đang và sẽ còn chỉ đạo dài lâu cho sự nghiệp của Đảng ta xây dựng văn hóa dân tộc nói chung và xây dựng văn hóa trong Đảng nói riêng.

Xuyên suốt các tác phẩm của Người, từ "Đường Cách mệnh" (1927), "Sửa đổi lối làm việc" (1947), "Cần, kiệm, liêm, chính" (1949) cho đến "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân" (1969) và bản Di chúc của Người (1969), ta thấy toát lên tinh thần và những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.

Khái niệm đạo đức, được Hồ Chí Minh tập trung đề cập trong các tác phẩm của Người là đạo đức của xã hội mới, cao hơn nữa là đạo đức cách mạng, đạo đức của cán bộ, đảng viên. Những phẩm chất đạo đức cao quý chung nhất, cơ bản nhất mà Người nêu lên đối với cán bộ cách mạng:

Một là: Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Không phải một lần mà rất nhiều lần, không phải đối với một số đối tượng nhất định mà đối với rất nhiều đối tượng khác nhau, Người luôn luôn nhắc nhở rằng, điều chủ chốt nhất của đạo đức cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, là trung với nước, hiếu với dân.

Hai là: Nhân, nghĩa, trí, dũng. Nhân là thật thà yêu thương, giúp đỡ đồng chí và đồng bào. Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân. Vì thế mà sẵn sàng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không ngại cực khổ, không sợ uy quyền. Nghĩa là ngay thẳng, không có tà tâm, không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu Đảng. Trí là đầu óc trong sạch, sáng suốt, dễ hiểu lý luận, dễ tìm phương hướng, biết xem người, xét việc,... Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm, thấy khuyết điểm có gan sửa chữa; cực khổ khó khăn có gan chịu đựng; có gan chống lại vinh hoa phú quý không chính đáng; nếu cần, có gan hy sinh cả tính mạng mình...

Ba là: Cần, kiệm, liêm, chính. Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm; thấy rõ lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta... Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tiền của của nhân dân, của nước, của bản thân mình, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi; không phô trương hình thức, không liên hoan chè chén lu bù... Liêm là luôn luôn tôn trọng, gìn giữ của công và của dân; phải trong sạch, không tham lam; không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình... Chính "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình thì không tự cao, tự đại, luôn luôn chịu khó học tập, cầu tiến bộ, luôn luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa chữa điều dở... Đối với người thì không nịnh hót cấp trên, không xem khinh người dưới; luôn luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc. Đối với việc thì để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà... Cần, kiệm, liêm, chính luôn luôn đi liền với chí công, vô tư, tức là hết lòng chăm lo công việc chung, không tơ hào, tư lợi.

Trung, hiếu, nhân, nghĩa, trí, dũng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư đều là những khái niệm vốn có từ Nho học và đạo đức từ lâu đời của ông cha ta, song đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đổi mới và phát triển, thậm chí có những khái niệm đổi mới hẳn về nội dung, như xưa kia là trung với vua, hiếu với cha mẹ, nay là trung với nước, hiếu với dân. Do đó, những phẩm chất đạo đức được Người nêu lên chính là những phẩm chất của đạo đức mới, của con người mới và nền văn hóa mới. Nó là sự kết hợp tinh thần cách mạng của giai cấp công nhân với truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc và những tinh hoa đạo đức của nhân loại.

Đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh còn có tầm sâu rộng hơn, vượt qua khuôn khổ quốc gia để tạo nên sự kết hợp hài hòa và nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, xem "bốn phương vô sản đều là anh em"...

3 - Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với vấn đề xây dựng văn hóa trong Đảng hiện nay

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) của Đảng ta nêu rõ rằng, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những nội dung cơ bản của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng yêu cầu: đưa các nhân tố văn hóa, tinh thần thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII, ghi rõ: "Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng về văn hóa, phải xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước..." và khẳng định rằng: "Đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức đảng và nhà nước, trong các đoàn thể quần chúng và trong từng gia đình". Nghị quyết Đại hội IX của Đảng một lần nữa yêu cầu: "Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân". Kết luận của Hội nghị Trung ương 10, khóa IX, nhấn mạnh: Tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức đảng và nhà nước. Trong Diễn văn đọc tại Lễ kỷ niệm 75 năm Ngày thành lập Đảng, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh cũng yêu cầu phải phấn đấu để mỗi tổ chức đảng và đoàn thể, mỗi cơ quan nhà nước đều là "một tấm gương văn hóa trong xã hội".

Nhắc lại các nghị quyết nói trên để thấy rõ tính bức bách của nhiệm vụ xây dựng văn hóa trong Đảng hiện nay; cũng là để thấy rõ rằng muốn xây dựng được tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết phải xây dựng được các phẩm chất đó trong các tổ chức của Đảng và bộ máy của Nhà nước...

Đối chiếu với tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức mà chúng tôi vừa đề cập, ta càng thấy rõ vai trò quan trọng biết dường nào của đạo đức cách mạng trong việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nói chung, và xây dựng văn hóa trong Đảng nói riêng. Không phải ngẫu nhiên trong Di chúc Người nói về Đảng và đặc biệt nhấn mạnh vấn đề đạo đức: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân".

Những lời dạy của Bác Hồ về đạo đức cách mạng, đối với Đảng ta, đối với mỗi cán bộ, đảng viên, ngày nay vẫn còn mang tính thời sự nóng hổi; nhất là những phẩm chất trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân, về cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, về nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, về đảng viên đi trước, làng nước theo sau... là không bao giờ cũ. Nếu có cái gì gọi là cũ thì đó chính là nhận thức của chúng ta về các lời dạy của Bác không đến nơi, đến chốn, không thật đầy đủ và nhuần nhuyễn, nhất là chúng ta nói mà không đi đôi với làm, hoặc nói nhiều làm ít, khiến cho đời sống văn hóa trong Đảng, nhất là đời sống về đạo đức, có những biểu hiện suy thoái nghiêm trọng. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII, đòi hỏi phải khắc phục bằng được tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức và lối sống trong cán bộ, đảng viên, đặc biệt là tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, một căn bệnh nguy hiểm đang đục khoét cơ thể sống của Đảng ta. Trong cuộc chiến đấu sinh tử này, mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta càng phải đề cao trách nhiệm tu dưỡng và thực hành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.



Theo Hà Đăng

(Tạp chí Cộng sản tháng 8-2005)
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa


Trong xu thế toàn cầu hóa như hiện nay, quan điểm và ý đồ đồng nhất hóa các giá trị văn hóa, các chuẩn mực xã hội theo một mô hình nào đó tự cho là kiểu mẫu đối với toàn bộ thế giới đang tồn tại và trở thành vấn đề tập trung chú ý của nhiều quốc gia, với những phản ứng khác nhau.

Tại hội nghị của Đại hội đồng UNESCO lần thứ 31 diễn ra từ ngày 13-10 đến 3-11-2001 tại Pari, vấn đề tôn trọng sự đa dạng văn hóa với lòng khoan dung, tránh tư tưởng áp đặt do UNESCO đề xuất đã thu hút sự quan tâm của toàn thể đại hội đồng. Điều này cho thấy tất cả các dân tộc đều ý thức khá sâu sắc rằng tôn trọng bản sắc của từng nền văn hóa là vấn đề cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong khi phấn đấu vì một thế giới chung sống hòa bình. Tuy nhiên, cũng từ đây lại đặt ra vấn đề có ý nghĩa không kém phần quan trọng nữa là, để thực hiện tốt quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa, tạo cơ sở cho việc xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, thì trước hết nền văn hóa của mỗi dân tộc phải mang dấu ấn và sức sống riêng, vì thực tế "sự linh hoạt chỉ mang lại hiệu quả khi nó được tiến hành trên cái ổn định".

Hồ Chí Minh với tư cách là một nhà nhân văn chân chính, nhà văn hóa kiệt xuất ngay từ rất sớm đã nắm bắt được quy luật hình thành, vận động và phát triển của một nền văn hóa. Trong nhận thức của Người, "Văn hóa Việt Nam chứa đựng sự kỳ diệu giữa cái ổn định và cái linh hoạt" bởi lẽ nền văn hóa này có sợi dây liên hệ bền chặt với cuộc sống. Và, một trong những nội dung cơ bản trong tư tưởng của Người về văn hóa đó là "Văn hóa phải gắn liền với cuộc sống". Tư tưởng cốt lõi này trở thành nội dung xuyên suốt được quán triệt sâu sắc góp phần mang lại nét độc đáo riêng có trong hầu hết các giá trị văn hóa mà Hồ Chí Minh để lại.

Qua nghiên cứu nhận thức của Hồ Chí Minh về văn hóa, chúng ta nhận thấy Người đã xuất phát từ phạm trù "sinh tồn" để kiến giải phạm trù văn hóa.

Người coi văn hóa là kết quả tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt của loài người thích ứng với những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, văn hóa là một bộ phận hợp thành toàn bộ đời sống xã hội. Từ sự nhận thức đó, Hồ Chí Minh chỉ ra: kiến thiết xã hội phải có bốn lĩnh vực (kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội) cùng được coi trọng. Trong đó, văn hóa ở vào vị trí trung tâm, có vai trò điều tiết xã hội. Theo Người muốn xác định vai trò đó, mọi hoạt động văn hóa phải thực sự hòa quyện, thâm nhập vào cuộc sống muôn màu, muôn vẻ của đông đảo quần chúng nhân dân với đầy đủ những mảng tối sáng đầy góc cạnh của nó làm đối tượng phản ánh và phục vụ. Quan trọng hơn, văn hóa phải "thiết thực phục vụ nhân dân, góp phần vào việc nâng cao đời sống vui tươi lành mạnh của quần chúng" (Hồ Chí Minh toàn tập, Tr. 10, Tr. 59) góp phần "soi đường cho quốc dân đi", tạo sức mạnh dời non lấp bể như gốc của cây, nguồn của sông. Theo lôgíc của lập luận này, Hồ Chí Minh khẳng định chính đời sống hiện thực là "kho tài nguyên vô tận" để khơi đậy những mạch nguồn sáng tạo. Nếu người cán bộ văn hóa xa rời cuộc sống, đứng ngoài cuộc sống, không theo kịp mạch đập của cuộc sống tất sẽ phải đối diện với sự khô héo, cằn cỗi, nghèo nàn và nhàm chán trong chính sáng tạo của mình. Ngược lại, nếu biết bắt nhịp với cuộc sống đời thường vốn trần trụi, gai góc và đang hối hả trào tuôn thì khi đó văn hóa sẽ được sống bằng nguồn năng lượng vô cùng mà đời sống trao cho.

Gắn văn hóa với đời sống, Hồ Chí Minh xác định cơ chế vận hành của nền văn hóa trên trục trung tâm là các hoạt động của con người. Từ chỗ đặt các vấn đề văn hóa của con người vào vị trí những dự kiến quan trọng nhất, Người cho rằng con người với tư cách là chủ thể sáng tạo văn hóa - chủ thể cuộc sống, chủ thể của quá trình lao động sản xuất phải được bồi dưỡng, vun đắp.

Thực chất của những tư tưởng này là, Hồ Chí Minh không chỉ coi trình độ, các giá trị nhân bản là "chất liệu", là "sự nghiệp trăm năm của văn hóa", mà văn hóa phải là động lực cho sự phát triển. Vì vậy quan điểm này không chỉ có ý nghĩa định hướng cho việc xây dựng một nền văn hóa thuộc về con người, quan trọng hơn còn chỉ ra cơ sở mang lại sức sống mãnh liệt cho văn hóa.

Công cuộc đổi mới, xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay thực sự là cuộc hành trình đến những giá trị văn hóa đích thực nhất. Bởi lẽ, CNXH chính là biểu trưng giá trị cao đẹp nhất, sáng tạo nhất mà dân tộc Việt Nam có thể xem là một chủ thể xứng đáng. Tuy nhiên, hành trình đến CNXH không là con đường bằng phẳng trơn tru. Thực tiễn đang có nhiều vấn đề mới nảy sinh, trong đó xu hướng toàn cầu hóa với việc mở cửa, hội nhập đang đòi hỏi mỗi dân tộc cần thiết phải khẳng định bản lĩnh của mình. Trong tất cả những sức mạnh cần khẳng định, sức mạnh văn hóa cần thiết phải đặt vào vị trí hàng đầu, vì "văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là tầm cao, chiều sâu về trình độ phát triển của dân tộc, kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa người với người, người với xã hội, với thiên nhiên. Văn hóa là động lực, mục tiêu của sự nghiệp cách mạng".

Nói như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, "Văn hóa là đổi mới, đổi mới là văn hóa". Vì vậy trong sự nghiệp đổi mới đầy khó khăn, văn hóa phải đóng vai trò là nguồn động lực quan trọng. Nguồn động lực ấy sẽ trở nên dồi dào nếu nền văn hóa được xây dựng, giữ gìn và phát huy đúng hướng. Muốn thế, phương châm của mọi hoạt động văn hóa phải xuất phát từ cuộc sống, đi sâu phản ánh những cơ tầng đa diện, sâu sắc của cuộc sống và hướng đến phục vụ cuộc sống.

trích lại...
 
Trích Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa và con người
“Văn hóa soi đường cho quốc dân đi"


GS. Đặng Xuân Kỳ chủ biên. Nhà XB Chính trị Quốc gia – 2005
Sinh viên


Nền văn hóa Việt Nam được hình thành và phát triển trong lịch sử lâu dài của dân tộc không phải là kết quả vận động chỉ riêng những yếu tố nội sinh. Trong diễn văn khai mạc Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất ngày 24/11/1946, Hồ Chí Minh nói: “Văn hóa Việt Nam là ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa Đông phương và Tây phương chung đúc lại…

Tây Phương hay Đông Phương có cái gì tốt ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay, trau dồi cho văn hóa thật có tinh thần thuần túy Việt nam để hợ với tinh thần dân chủ”.

Như vậy việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, của cả cổ kim Đông Tây là một vấn đề lớn trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh. Nhưng đây không phải là sự tiếp thu xô bồ mọi thứ của thiên hạ, mà là chọn lọc những cái hay, cái tốt, cái đẹp để làm giàu thêm cho văn hóa dân tộc. Đây thật sự là sự thâu hóa những tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho những tinh hoa ấy trở thành những cái hay, cái tốt, cái đẹp mang “tinh thần thuần túy Việt Nam”. Đây thực sự là “Việt Nam hóa” những cái từ ngoài đến, biến chúng thành những cái bên trong, tự nhiên như những yếu tố nội sinh của văn hóa Việt Nam.

Như Hồ Chí Minh quan niệm, trong nền văn hóa Việt Nam có “sự chung đúc lại” những tinh hoa văn hóa Đông Phương và Tây Phương. Điều đó cũng có nghĩa là nền văn hóa Việt Nam là do dân tộc Việt Nam tạo dựng không phải chỉ từ nhữn yếu tố nội sinh, mà còn kết hợp với sự chiếm lĩnh, thâu hóa những giá trị của nhiều nền văn hóa khác. Đứng vững trên cái nền dân tộc để chiếm lĩnh, thâu hóa những giá trị văn hóa bên ngoài, bản lĩnh đó của dân tộc Việt Nam đã được thể hiện trong suốt chiều dài lịch sử mấy nghìn năm. Bản lĩnh đó càng được phát huy mạnh mẽ hơn trong việc xây dựng nền văn hóa mớii Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, trong thời kỳ đất nước ta mở rộng giao lưu quốc tế, hội nhập khu vực và thế giới.

Là người mở đường cho việc xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam, là nhà văn hóa kiệt xuất của nhân loại, Hồ Chí Minh là hiện thân tiêu biểu nhất của sự kế thừa truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, kết hơp với việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, kết hợp tính dân tộc với tính nhân loại trong văn hóa. Chính vì vậy, Người không ở tầm cao, xa cách mọi người, mà trái lại rất gần gũi với mọi người Việt Nam; Người không xa cách thế giới mà lại gần gũi với tất cả bạn bè gần xa trên thế giới. Người đã đưa dân tộc đến với nhân loại và thời đại – điều chưa từng có trong lịch sử Việt Nam.

Việc tiếp thu văn hóa nhân loại như vậy phải thông qua những đại biểu có trình độ, đủ để phân biệt được những gì là tinh hoa với những gì không phải tinh hoa, những gì có thể và cần tiếp thu hoặc ngược lại. Sự thiếu hiểu biết đối với các nền văn hóa khác, quan điểm mơ hồ trong vấn đề tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại có thể dẫn đến hai khuynh hướng hoặc “sùng ngoại” hoặc “bài ngoại”. Cả hai khuynh hướng này trước kia đều đã có ở nước ta, đến nay vẫn không phải không có. Do bảo thủ nên mọi cái của nước ngoài đều e ngại, đều cho là của chủ nghĩa tư bản, nên không cần nghiên cứu, không thể tiếp nhận. Ngược lại, do “sùng ngoài”nên đã đồng nhất hiện đại hóa với “Tây Phương hóa”, mọi cái mới của nước ngoài đều coi là “tiên tiến, hiện đại”, đều có thể “ăn sống nuốt tươi”, không phân biệt hay dở, tốt xấu, tiến bộ hay chỉ làm tha hóa con người. Điều này có thể thấy khá rõ trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ, trong lối sống, và trong các lĩnh vực khác nữa.

Một mặt tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, nhưng mặt khác, phải góp phần làm phong phú thêm văn hóa nhân loại. Đó là quan niệm trong lĩnh vực văn hóa mà Hồ Chí Minh thường dặn cán bộ: “Mình có thể bắt chước cái hay của bất kỳ nước nào ở Âu – Mỹ, nhưng điều cốt yếu là sáng tác. Mình đã hưởng cái hay của người thì cũng phải có cái hay cho người ta hưởng. “Mình đừng chịu vay mà không trả”. Trong văn hóa, nếu chỉ muốn “viện trợ không hoàn lại”, thì chính điều đó không chỉ là một thái độ rất không văn hóa mà còn không thể phát huy được bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc.

Tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tinh hoa văn hóa của nhân loại, là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và nhân dân ta; là tấm gương sáng để mọi người Việt Nam học tập và noi theo.

Trên cơ sở những kinh nghiệm thu được qua đợt làm điểm ở một số cơ quan Trung ương và địa phương, cùng với việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng X của Đảng, Bộ Chính Trị quyết định tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn Đảng, toàn dân từ ngày kỷ niệm 77 năm thành lập Đảng (3/1/2007) tới hết nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng.

Mục đích của cuộc vận đồng là: làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong toàn xã hội, đặc biệt trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, thanh niên, học sinh… nâng cao đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng

(Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương ĐCS Việt Nam)
Hơn nữa, nền văn hóa mới Việt Nam còn phải bổ sung những thiếu hụt, phát triển những nội dung mới do những yêu cầu mới của nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước đang đặt ra, cũng như xu thế chung của thời đại đang đòi hỏi. Quan điểm của Hồ Chí Minh về tính chất dân tộc của văn hóa là quan điểm rất hoàn chỉnh. Tính dân tộc mà Hồ Chí Minh nêu cao là tính dân tộc hướng tới tính quốc tế, tinh nhân loại, tính dân tộc không tan biến vào tính quốc tế, tính quốc tế lại nâng tính dân tộc lên ngang tầm thời đại, cả hai đều làm phong phú cho nhau. Phải chăng tính dân tộc mãi mãi là động lực lớn trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa mới. Cũng như Nguyễn Ái Quốc đã từng viết từ năm 1924, đối với Việt Nam thì chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước…, nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế, cần phải phát động cho được động lực đó để đưa phong trào cách mạng đi lên.

Hồ Chí Minh thường nói: “Phải làm thế nào cho văn hóa đi sâu vào tâm lý quốc dân” để xây dựng những tình cảm lớn như lòng yêu nước, tình yêu thương con người; yêu cái chân, cái thiện, cái mỹ; yêu tính trung thực , chân thành thủy chung; ghét những thói hư tật xấu, những sa đọa biến chất, căm thù mọi thứ “giặc nội xâm”… Hơn nữa, chính tư tưởng đúng đắn lại được tiếp nhận không phải chỉ bằng lý trí mà còn bằng tình cảm, từ đó lại trở thành tình cảm lớn, tạo nên sự bên vững bên trong mỗi người. Mà điều này văn hóa lại có nhiều khả năng nhất. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rằng “văn hóa soi đường cho quốc dân đi” chính là muốn nói văn hóa đã làm cho lý trí của con người thêm sáng suốt và tình cảm con người ngày càng trở nên cao đẹp hơn.

Trích dẫn...
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nền văn hoá mới



Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.

Trong cách mạng giải phóng dân tộc thì văn hoá là một nguồn lực tinh thần để chống ngoại xâm. Chính trị có được giải phóng thì văn hoá mới được giải phóng. Văn hoá phải chịu sự lãnh đạo của chính trị, văn hoá vừa là hạt nhân của chí trị vừa là mục tiêu của chính trị. Văn hoá phải lấy kinh tế làm nền tảng để tạo điều kiện cho văn hoá phát triển. Văn hoá sẽ cải biến bộ mặt xã hội ở nước ta bởi vì văn hoá nâng cao dân trí, xoá bỏ các hủ tục. Văn hoá sẽ là động lực thúc đẩy sự hiểu biết giữa các dân tộc và làm cho các dân tộc xích lại gần nhau hơn.

Văn hoá không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị, điều này có nghĩa là văn hoá phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế, tác động tích cực trở lại đối với kinh tế và chính trị, như một động lực hết sức quan trọng.

Trình độ văn hoá của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ... cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.

Về tính chất của nền văn hoá cũng được điều chỉnh nhiều lần. Nền văn hoá trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã được Đảng ta và Hồ Chí Minh xác định có ba tính chất: dân tộc, khoa học, đại chúng. Điều này đã được nêu ra khá sớm trong Đề cương văn hoá năm 1943 của Đảng.

Khi đặt vấn đề phải xây dựng nền văn hoá mới của một nước Việt Nam độc lập, Hồ Chí Minh đã nói rõ: Cái văn hoá mới này cần phải có tính khoa học, tính đại chúng, thì mới thuận với trào lưu văn hoá tư tưởng hiện đại; Nay nước ta đã có độc lập, tinh thần được giải phóng, cần phải có một nền văn hoá hợp với khoa học và hợp và hợp với cả nguyện vọng của nhân dân. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng năm 1951, Hồ Chí Minh khẳng định phải: Xây dựng một nền văn hoá Việt Nam có tính chất độc lập, khoa học và đại chúng.

Ở Tây phương hay đông phương có cái gì tốt ta học lấy để tạo ra một nền văn hoá Việt Nam. Giao lưu là để làm giàu cho văn hoá Việt Nam chứ không để mất gốc, lệ thuộc trong giao lưu. Phải lấy văn hoá dân tộc làm gốc

Tính chất dân tộc của nền văn hoá còn được Hồ Chí Minh biểu đạt bằng những khái niệm khác như đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc, để nhấn mạnh hơn nữa cái tinh tuý bên trong rất đặc trưng của văn hoá dân tộc. Biết kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới. Cần xây dựng phát triển thuần phong, mỹ tục cần quan tâm đến truyền thống yêu nước, sống có tình nghĩa, bảo vệ vốn quý về kho học, nghệ thuật, tiếng nói, chữ viết, truyền thống lịch sử. Khôi phục vốn cũ thì nên khôi phục những gì tốt đẹp còn loại bỏ những gì không tốt.

Đến năm 1992, trong bản Hiến pháp mới của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tính chất của nền văn hoá lại được xác định là dân tộc, hiện đại, nhân văn. Dù có những thay đổi, điều chỉnh trong cách diễn đạt thì tính chất tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của nền văn hoá mà chúng ta đang xây dựng vẫn bao hàm trong đó tính dân tộc, tính khoa học, tính hiện đại, tính nhân văn, tính đại chúng.

Đây chính là sự nối tiếp tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về tính chất của nề văn hoá được đề ra trong thời kỳ trước, đã được cô đúc lại một cách ngắn gọn. Vấn đề chính là hiểu cho đúng nội hàm của những khái niệm đó để thúc đẩy công cuộc xây dựng nền văn hoá mới Việt nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay.

Hai tính chất tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tiên tiến là khoa học, hiện đại, là XHCN, là biết tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đậm đà bản sắc dân tộc là biết kế thừa, phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, phát triển những truyền thống tốt đẹp ấy cho phù hợp với những điều kiện lịch sử mới của đất nước. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, xây dựng nền văn hoá với hai tính chất tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc sẽ làm cho văn hoá Việt Nam trở thành một nền văn hoá ngang tầm thời đại, phục vụ tích cực cho việc thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đồng thời đóng góp làm phong phú thêm kho tàng văn hoá của nhân loai. Đó cũng chính là thực hiện quan điểm của Hồ Chí Minh về sự phát triển biện chứng của văn hoá, cũng như quan điểm “có vay, có trả” trong văn hoá.

Từ di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, chức năng của văn hoá mới có thể quy tụ vào ba chức năng chủ yếu sau đây:

Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn về tình cảm cao đẹp. Tư tưởng và tình cảm là vấn đề chủ yếu nhất của đời sống tinh thần của con người. Tư tưởng có thể đúng đắn hoặc sai lầm, tình cảm có thể thấp hèn hoặc cao đẹp. Theo Hồ Chí Minh, văn hoá có chức năng là phải bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho nhân dân, loại bỏ những sai lầm và thấp hèn có thể có trong tư tưởng, tình cảm mỗi người. Chức năng cao quý ấy phải được tiến hành thường xuyên, vì tư tưởng, tình cảm của con người luôn chuyển biến theo hoạt động thực tiễn của xã hội. Việc bồi dưỡng ấy lại phải đặc biệt quan tâm đến những tư tưởng và tình cảm lớn có ý nghĩa chi phối đời sống tinh thần của mỗi người và của cả dân tộc.

Hai là, nâng cao dân trí. Noi đế văn hoá là phải nói đế dân trí. Đó là trình độ hiểu biết, trình độ kiến thức của người dân, của mỗi công dân. Trình độ đó phải từ chỗ biết chữ đến chỗ hiểu biết các lĩnh vực khác cần thiết cho hoạt động của mỗi người, nhằm phục vụ cho mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, điều mà Đảng ta xác định hiện nay là mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Những hiểu biết đó bao gồm nhiều lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hoá, nghiệp vụ chuyên môn, khoa học - kỹ thuật, lịch sử, thực tiễn Việt Nam và thế giới...

Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh, luôn hướng con người vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ để không ngừng hoàn thiện bản thân mình

Muốn tham gia vào việc tạo ra giá trị văn hoá, đồng thời biết hưởng thụ một cách đúng đắn những giá trị văn hoá của xã hội, mỗi người không những cần phải có những tư tưởng và tình cảm lớn, những biểu hiện ngày càng được nâng cao, mà còn phải có những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh trong cuộc sống. Phải biến những tư tưởng, tình cảm lớn thành phẩm chất và phong cách con người mới sử dụng được kiến thức để tham gia vào việc tạo ra những giá trị văn hoá cho xã hội và biết hưởng thụ một cách đúng đắn những giá trị văn hoá xã hội.

Với những đặc trưng không giống với chính trị và kinh tế, văn hoá hướng con người vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ, từ cái hiện có vươn tới cái lý tưởng, từ cái chưa hoàn thiện vươn tới cái hoàn thiện luôn luôn ở phía trước, đặc biệt là việc hoàn thiện bản thân của mỗi người.

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng văn hoá hiện nay là một yêu cầu cấp thiết, một vấn đề có ý nghĩa lớn cả về lý luận và thực tiễn. Bởi vì, chúng ta đang phải giải quyết các mối quan hệ sau:

Mối quan hệ giữa: kinh tế tế thị trường với văn hoá; bản sắc dân tộc với giao lưu quốc tê; truyền thống với hiện đại; cá nhân với tập thể.

Xây dựng văn hoá phải bắt đầu từ mỗi con người với tư cách là chủ thể của văn hoá. Đó là những con người được bồi dưỡng, giáo dục về nhiều mặt và phải được rèn luyện, trưởng thành trong hoạt động thực tiễn, trong sinh hoạt cùng với những cộng đồng nhất định.

Con người trước hết phải gắn với gia đình và tập thể mà mình hoạt động, sinh oạt. Vì vậy việc xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá, những tập thể văn hoá - đơn vị, làng bản, xã ấp, phố phường văn hoá - là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng. Đối với mỗi nhà, mỗi gia đình phải xây dựng co được gia phong nghiêm chỉnh, làm cho gia đình không phải chỉ là một tổ ấm của tình cảm ruột thịt, mà còn là nơi hun đúc nhân cách, nhân phẩm của mỗi thành viên trong suốt cuộc đời. Giữ vững và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế.

Trước xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá của thế giới hiện nay, không một quốc gia nào có thể phát triển trong sự tách biệt với thế giới. Hội nhập về kinh tế, giao lưu về văn hoá giữa các nước đang diễn ra hết sức sôi động. Tình hình đó đang mở ra thời cơ lớn để thâu hoá những tinh hoa văn hoá, văn minh nhân loại, làm phong phú thêm cho văn hoá dân tộc mình, rút ngắn khoảng cách của chúng ta với thế giới.

Làm thế nào để mở rộng giao lưu văn hoá, hội nhập mà không đánh mất cái bản sắc của mình? Phải lấy bản sắc văn hoá dân tộc làm nền tảng, làm bảng lĩnh. Nền tảng có chắc, bản lĩnh có vững vàng thì mới tiếp thu tinh hoá văn hoá nhân loại được đúng đắn; mới chắc lọc được những gì thực sự là tinh hoa, vức bỏ những gì là phế thải của bất cứ loại phản văn hoá nào từ bên ngoài.

Bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc phải gắn liền với việc nâng cao nhận thức, tư tưởng, nâng cao những hiểu biết về văn hoá, koa học hiện đại, để phân biệt được những gì thực sự là chân, thiện, mỹ với những cái giả, cái ác, cấi xấu; nhận cái hay, bỏ cái dở. Khôi phục lễ hội, tôn tạo đình chùa, miếu mạo, những di tích văn hoá lịch sử và cách mạng, suy tôn các anh hùng liệt sĩ, đẩy mạnh phong trào đền ơn đáp nghĩa, đề cao văn hoá làng xã, văn hoá dòng họ... cũng là những hình thức để tạo ra rào chắn nhằm chống lại sự xâm nhập ồ ạt của văn hoá ngoại lai.

Tuy nhiên, ngay trong việc này cũng phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh: cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm, cũ mà xấu thì phải bỏ, cũ mà phiền phức thì phải sửa; mới mà hay thì phải làm; mới mà dở, hoặc không phù hợp với con người Việt Nam thì không tiếp nhận.

Cảnh giác ngăn chặn âm mưu lợi dụng giao lưu văn hoá để thực hiện “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.

Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên thông tin, khả năng chuyển tải tức thời mọi thông tin tới bất kỳ điểm nào ở trên trái đất. Lợi dụng thành tựu này, các “đế quốc văn hoá” đang nhân danh quyền con người để áp đặt cho các dân tộc những thị hiếu và lối sống theo quan điểm của họ. Các thế lực thù địch của CNXH cũng đang lợi dụng chiêu bài “dân chủ hoá về chính trị”, “tự do hoá về kinh tế” để thổi lên những luồng gió độc, phủ nhận quá khứ, hạ bệ thần tượng, gieo rắc hoài nghi về sự lãnh đạo của Đảng gây mất niềm tin vào tương lai của CNXH...

Phương pháp mà Hồ Chí Minh nêu ra để xây dựng nền văn hoá mới là phải xây dựng và bồi dưỡng những điển hình tích cực về văn hoá, phải thường xuyên biểu dương, cổ vũ những tấm gương đó, phải tạo những phong trào quần chúng ngày càng sâu rộng, làm cho văn hoá mới ngày càng thấm sâu vào đời sống của nhân dân, làm cho đời sóng ngày càng trở thành đời sống có văn hoá.

Vì vậy, phải ra sức đẩy mạnh các phong trào “người tốt, việc tốt”, “dạy tốt học tốt”, “xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá”, “xây dựng thuần phong mỹ tục”... làm cho các phong trào thi đua ấy thực sự trở thành động lực thúc đẩy việc xây dựng đời sống văn hoá của xã hội ta.

Đối với bất cứ phong trào quần chúng nào cũng phải khắc phục tình trạng có phát mà không có động, động lúc đầu nhưng càng về sau càng im ắng, càng hình thức chủ nghĩa, khi nào nhớ đến mới “đẩy mạng” một cách qua loa, đại khái; không sơ kết, tổng từng bước để nâng cao cuộc vận động.

Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh đã hội tụ đủ các yếu tố truyền thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại, kế thừa và đỏi mới. Từ Hồ Chí Minh đã toả ra một thứ văn hoá không phải chỉ ở quá khứ và hiện đại, mà còn là một nền văn hoá của tương lai, và là di sản tinh thần vô cùng quý báu của dân tộc ta. Đó là những giá trị mà Hồ Chí Minh, đại diện cho dân tộc Việt Nam đóng góp làm phong phú thêm kho tàng văn hoá của nhân loại.

Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng chúng ta trên con đường xây dựng nề văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.


Báo Quảng Ngãi.
 
Tôi đã mang đến cho bạn nhiều luận điểm về tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hóa.
Hi vọng bạn sẽ làm tốt bài về "Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc"


Bạn tham khảo thêm một bài báo nữa, đây là hội thảo về vấn đề liên quan đến tư tưởng của Người.

Phát biểu tại Hội thảo khoa học kỷ niệm 60 năm Đề cương văn hoá Việt Nam do Bộ Văn hoá - Thông tin tổ chức sáng 22/8 tại Bảo tàng Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Khoa Điềm - Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tư tưởng Văn hoá TƯ đã nhấn mạnh nội dung: "Nền văn hoá nước ta không tách rời với con đường toàn dân tộc đang đi - chính là độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội"...

Đó cũng chính là nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị của Đảng được bổ sung bằng Đề cương Văn hoá Việt Nam do các ông Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng khởi thảo và được Hội nghị Ban Thường vụ TƯ Đảng thông qua năm 1945. Đề cương văn hoá Việt Nam bao gồm 5 nội dung chính: cách đặt vấn đề, lịch sử và tính chất văn hoá Việt Nam, nguy cơ văn hoá dưới ách phát xít Nhật - Pháp, vấn đề cách mạng và văn hoá Việt Nam, nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hoá Mác xít Đông Dương nhất là những nhà văn hoá Mác xít ở Việt Nam. Đây là một văn kiện quan trọng, được trình bày ngắn gọn và xúc tích, xác định rõ: Việt Nam tất yếu phải tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng - văn hoá và cuộc cách mạng đó phải do Đảng lãnh đạo.

Trong bài phát biểu của mình, ông Nguyễn Khoa Điềm khẳng định: Bản Đề cương văn hoá Việt Nam ra đời nói lên tầm vóc chính trị tư tưởng sâu sắc của một chính đảng của giai cấp công nhân, đánh dấu bước phát triển mới của văn hoá nước nhà. Những quan điểm cơ bản về văn hoá Mác xít nêu ra trong đề cương trở thành ánh sáng soi rọi, kim chỉ nam cho chương trình hành động của văn hoá cách mạng. Ngay từ lúc mới ra đời, Đề cương văn hoá Việt Nam đã thu hút đông đảo đội ngũ những người hoạt động văn hoá văn nghệ ưu tú nhất của nước ta hồi ấy, đưa họ đến với Mặt trận Việt Minh, tích cực tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc...

Tham dự Hội thảo có hơn 50 tham luận của các nhà nghiên cứu lý luận nước ta quán triệt các tư tưởng chỉ đạo của Đề cương Văn hoá Việt Nam. Nhiều tác giả đã bám sát bối cảnh lịch sử, nghiên cứu sâu các khía cạnh nội dung, quan điểm của đề cương, làm sáng tỏ tư duy khoa học và đúng đắn của Đảng ta về các nguyên tắc dân tộc, khoa học đại chúng của nền văn hoá Việt Nam. GS, TSKH. Trần Ngọc Thêm nêu rõ: Đây là Đề cương văn hoá của một dân tộc yêu chuộng văn hoá.

Một số tham luận khác từ đề cương để nhìn nhận những vấn đề thực tiễn như bảo vệ và phát triển văn hoá dân tộc trong xu hướng toàn cầu hoá, quốc tế hoá. Việc nghiên cứu các giá trị lý luận và thực tiễn của Đề cương văn hoá Việt Nam vẫn là công tác đầy ý nghĩa đối với công tác nghiên cứu lý luận nói chung, lý luận văn hoá, văn nghệ nói riêng. TS. Phạm Quang Nghị - Uỷ viên BCHTƯ Đảng, Bộ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin tiếp tục khẳng định đề cương văn hoá Việt Nam là một văn kiện đặt nền móng về quan điểm lý luận cho các chủ trương, chính sách của Đảng về văn hoá, văn nghệ. Chúng ta có dịp nhìn lại quá trình phát triển và hoàn thiện từ đề cương văn hoá Việt Nam đến các văn kiện về văn hoá, văn nghệ của Đảng ta, để hiểu sâu sắc hơn vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền Văn hoá của dân tộc.

Theo ông Nguyễn Khoa Điềm, Hội thảo 60 năm Đề cương Văn hoá Việt Nam cũng là dịp để nhìn lại chặng đường 5 năm thực hiện Nghị quyết TƯ 05 về Xây dựng và phát triển nền Văn hoá Việt Nam tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết 05 với ý nghĩa một chiến lược phát triển văn hoá Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã đi vào đời sống, tạo ra những chuyển biến nhận thức của xã hội về vai trò của văn hoá. Với những thành công và chưa thành công, ưu và khuyết điểm trong tổ chức, chỉ đạo; thực tiễn thực hiện Nghị quyết TƯ 5 đã và đang đặt ra những vấn đề lớn cần tiếp tục nghiên cứu và giải đáp như: việc xử lý quan hệ giữa phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phát triển nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, tác động tích cực lẫn tiêu cực của kinh tế thị trường đối với phát triển văn hoá, phát triển văn hoá trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế như thế nào, sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại cần tiến hành ra sao....

60 năm đã qua. Quán triệt những tư tưởng định hướng, mở đường của Đề cương văn hoá Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cũng là thực hiện quan điểm, nhiệm vụ cơ bản của Nghị quyết TƯ5 về văn hoá theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi .

Theo VNN.
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top