• HÃY CÙNG TẠO & THẢO LUẬN CÁC CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC [Vn Kiến Thức] - Định hướng VnKienthuc.com
    -
    Mọi kiến thức & Thông tin trên VnKienthuc chỉ mang tính chất tham khảo, Diễn đàn không chịu bất kỳ trách nhiệm liên quan
    - VnKienthuc tạm khóa đăng ký tài khoản tự động để hạn chế SEO bẩn, SPAM, quảng cáo. Chưa đăng ký, KHÁCH vẫn có thể đọc và bình luận.

Trang Dimple

New member
Xu
38
Bút nghiên xin chia sẻ giới thiệu với các bạn đọc Chương 7 - Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ
Chương 7: Chuyện nghiệp oan của Đào Thị


Ả danh kỹ ở Từ Sơn (1) là Đào Thị, tiểu tự Hàn Than, thông hiểu âm luật và chữ nghĩa. Niên hiệu Thiệu Phong (2) thứ năm (1345) đời nhà Trần, nàng được tuyển sung vào làm cung nhân, hằng ngày chầu vua ở tiệc rượu hay ở chiếu bạc.
Một hôm vua thả thuyền chơi trên sông Nhị, rồi đi lần xuống tận bến Đông Bộ Đầu (3). Vua lãng ngâm rằng:
Vụ ế chung thanh tiểu,
Sa bình thụ ảnh trường.
Nghĩa là:
Mù tỏa tiếng chuông nhỏ,
Cát phẳng bóng cây trường (dài).
Các quan chưa ai nối được vần, nàng Đào liền ứng khẩu được ngay:
Hàn than ngư hấp nguyệt,
Cổ lũy nhạn minh sương.
Nghĩa là:
Bến lạnh cá đớp nguyệt,
Lũy cổ nhạn kêu sương.
Vua khen ngợi hồi lâu rồi nhân đó gọi là: "ả Hàn Than".
Vua Dụ Tôn mất, nàng phải thải ra ở ngoài phố, thường đi lại nhà quan Hành khiển là Ngụy Nhược Chân. Bà vợ quan Hành khiển không có con mà tính hay ghen, ngờ Hàn Than tư thông với chồng, bắt nàng đánh một trận rất là tàn nhẫn. Nàng tức tối vô cùng, bèn đem những trâm hoa bằng vàng ngọc bán đi để thuê thích khách vào nhà Nhược Chân trả thù.
Nhưng thích khách đến, bị người nhà Nhược Chân bắt được, lúc đem tra khảo, hắn xưng ra Hàn Than. Hàn Than sợ, phải cạo trọc đầu và mặc đồ nâu sồng, trốn đến tu ở chùa Phật Tích (4), giảng kinh thuyết kệ, chỉ mấy tháng đã làu thông lắm. Nàng có dựng ra am gọi là am Cư Tĩnh, mời họp các văn nhân để xin một bài bảng văn. Bấy giờ trong làng có một cậu học trò tuổi độ 14, 15, cũng đến hội họp. Hàn Thanh khinh là còn ít tuổi, nói đùa rằng:
- Anh bé con này cũng làm văn được à? Vậy thử làm cho tôi xem nào.
Cậu học trò không tỏ vẻ giận gì cả, lui lại dò hỏi được gốc tích Hàn Than, rồi làm bài văn như sau:
Cái văn: Phật bản từ bi, kỳ danh viết giác,
Nhân năng thanh tịnh, tức ngụy thành chân.
Năng tu pháp giới tân lương,
Tiện thị tùng lâm tông chủ.
Kính duy Phật Tích am sơn chủ Đào Thị
Danh đào nhạc tịch,
Đính lễ Phạm vương.
Đào khẩu liễu yêu, trạo thiệt tế tài án duyệt Lương Châu kỷ khúc,
Từ vân tuệ nhật, đài đầu gian dĩ quy y Đâu suất chư thiên.
Quần phao tương thủy tằng tằng,
Mấn lạc Sở vãn đoạn đoạn.
Mộng lý vô đoan xúc cảnh, bán chẩm du tiên,
Phong tiền hà xứ liêu nhân, sổ xoang đoản địch.
Ca viện bất như tăng viện tĩnh,
Nạp y tuyệt thắng vũ y lương.
Thủy cúc Tào khê, do phân khuy kính ảnh,
Dạ tuyên bối diệp, thượng tác nhiễu lương thanh.
Tuy vân thiền định vong cơ,
Phả nại cuồng tâm bị tửu.
Túc bất hướng Tầm Dương tống khách,
Thân khước lai Hàng Quận tham thiền.
Ngũ Lăng nhi phao cẩm triền đầu, tuy tùy vị dĩ,
Tam sinh khách kết Liên hoa xã, chiêu dẫn hà tần.
Y! chung tàn trà yết vô dư sự,
Hảo hướng sơn phòng nhất đả miên.
Dịch:
Mảng nghe:
Phật vốn từ bi, gọi tên là Giác,
Người mà thanh tĩnh, hóa giả thành chân.
Muốn lên tông chủ trong rừng thiền,
Hãy gắng tu trì trong cõi phép.
Kính nghĩ am chủ ở núi Phật Tích là Đào Thị,
Sổ ca nhạc rút tên ra khỏi.
Cửa Phạm vương (5) núp bóng tìm vào,
Miệng đào lưng liễu, uốn lưỡi vừa véo von mấy khúc Lương Châu (6).
Nhật sáng mây lành, nghển đầu đã tựa nương dưới trời Đâu Suất (7),
Quần ném dòng Tương lớp lớp.
Tóc rơi mây Sở từng từng,
Trong mơ xúc cảnh bâng khuâng, du tiên nửa gối,
Trước gió ghẹo người réo rắt, đoản địch vừa xong.
Phòng tăng vắng vẻ khác phòng ca,
áo đạo nhẹ nhàng hơn áo múa.
Khe Tào múc nước (8), chợt ngờ mặt phấn trong gương,
Lá bối (9) tụng kinh, còn thoảng âm vang trước nóc (10).
Mùi thiền dẫu bén,
Lòng tục chưa phai.
Bến Tầm Dương (11) không đến gẩy tỳ bà,
Chùa Hàng Quận (12) lại vào nghiền kinh kệ.
Gấm triền đầu phấp phới, theo đuổi chưa thôi (13),
Hội Liên Hoa dập dìu, đón mời sao khéo (14).
Ôi! chuông tàn trà cạn ngồi chi nữa?
Buồng núi vào tìm một giấc say.
Bài văn làm xong, viết lớn rồi dán vào cửa chùa, xa gần đua nhau chép. Hàn Than nhân thế, đương đêm bỏ chùa mà trốn. Nghe chùa Lệ Kỳ (15) ở hạt Hải Dương là một nơi nước tú non kỳ, phong cảnh tuyệt đẹp, trụ trì có sư già Pháp Vân và sư bác Vô Kỷ, bèn đến chùa xin bái yết. Pháp Vân không nhận và bảo Vô Kỷ rằng:
- Người con gái này, nết không cẩn nguyện, tính bén lẳng lơ, tuổi đã trẻ trung, sắc lại lộng lẫy, ta e lòng thiền không phải đá, sắc đẹp dễ mê người; tuy sen hồng chẳng nhuộm bùn đen, nhưng tấc mây dễ mờ bóng nguyệt. Vậy ngươi nên liệu lời từ chối, đừng để hối hận về sau.
Vô Kỷ không nghe, lại cứ nhận cho Hàn Than ở. Pháp Vân lập tức dời lên ở tận trên đỉnh núi Phượng Hoàng.
Hàn Than tuy ở chốn thanh tịnh nhưng nết cũ vẫn chưa từ bỏ.
Mỗi lúc ở nhà dưới đi lên mặc áo lụa, mang quần là, điểm môi son, tô má phấn. Cõi dục đã gần, máy thiền dễ chạm, bèn cùng Vô Kỷ tư thông. Hai người đã yêu nhau, mê đắm say sưa, chẳng khác nào con bướm gặp xuân, trận mưa cửu hạn, chẳng còn để ý gì đến kinh kệ nữa.
Hằng ngày hai người cùng nhau làm thơ liên cú, phàm những cảnh vật trong núi, cái gì có thể ngâm vịnh được đều dấp bút đề vịnh để ghi danh thắng. Những thơ như thế nhiều lắm không thể chép hết được, xin thuật ra đây độ một hai phần:
Sơn Vân
Dao đễ nùng hoàn đạm,
Thiên biên thấp vị hy.
Hiểu tùy sơ vũ khứ,
Mộ đới lạc hà quy.
ái đại nhân phong quyển,
Du dương đáo xứ phi.
Tăng dung đồng diệc lãn,
Thùy vị yểm nham phi.
Dịch:
Mây núi
Bên trời đậm nhạt không thường,
Ráng chiều mưa sớm bốn phương đi về.
Sư lười tiểu cũng lười ghê,
Siêng năng khép cửa bồ đề ấy ai?
Sơn vũ
Nhất vũ thiên nham mính,
Tiêu tiêu tác ý minh.
Châu cơ đôi địa sắc,
Tinh đẩu lạc thiên thanh.
Lựu đoạt toàn lưu cấp,
Lương hồi khách mộng thanh.
Sơn phòng vô cá sự,
Nhập dạ kỷ tàn canh.
Dịch:
Mưa núi
Rào rào một trận mưa rơi,
Đầu non ngọc rụng, lưng trời sao sa.
Nước xô hơi lạnh vào nhà,
Buồng sâu quạnh vắng đêm tà tà canh.
Sơn phong
Linh lại khư u động,
Chung tiêu sách sách thanh.
Phiên hoa hồng ý loạn,
Quyển thụ lục âm kinh.
Tăng nạp hàm lương thiển,
Chung lâu tống hưởng thanh.
Mang mang thiên địa nội,
Phi vị bất bình minh.
Dịch:
Gió núi
Thâu đêm tiếng thổi ào ào,
Hoa xơ xác thắm, cây rào rạt xanh.
Chuông lầu đưa tiếng thanh thanh,
Không gian nào phải bất bình mà kêu.
Sơn nguyệt
Ẩn ẩn lâm sao quýnh,
Liên không hạo khí phù.
Hàm sơn ngân kính khuyết,
Cách vụ ngọc bàn thu.
ảnh lạc tùng quan tĩnh,
Lương hồi trúc viện u.
Thanh quang tùy xứ hữu,
Hà tất thướng Nam lầu.
Dịch:
Trăng núi
Sau rừng khí sáng lên cao,
Long lanh gương bạc gác vào đỉnh non.
Bóng soi mát dịu tâm hồn,
Lên lầu Nam, lọ phải còn tốn công (16).
Sơn tự
Nhất thốc huy kim bích,
Nham yêu ẩn tịch dương.
Phong cao tùng húng lãng,
Thiên cận quế phiêu hương.
Động tiểu cầm thanh náo,
Phong tà tháp ảnh trường.
Trần gian danh lợi khách,
Vọng thử kỳ bàng hoàng.
Dịch:
Chùa núi
Âm thanh ẩn dưới bóng tà,
Thông cao hát gió, quế già phun hương,
Chim rừng ríu rít kêu vang,
Khách trần ai có mơ màng chăng ai?
Sơn đồng
Sinh trưởng tiều tô địa,
Ninh tri thiển thảo nguyên.
Cuồng ca vân hắc ám,
Đoản địch nhật hoàng hôn.
My lộc phù ê lữ,
Yên hà thủy thạch thôn.
Quy lai thâm động lý,
Vân bế tiểu càn khôn.
Dịch:
Tiểu đồng trong núi
Năm năm sinh trưởng trong rừng,
Đùa mây hát sớm, thét trăng còi chiều.
Bạn bầy chim đá nai hươu,
Càn khôn riêng mở bên đèo khói mây.
Sơn viên
Ẩn ước sào nam lữ,
Duyên nhai nhật kỷ hồi.
Sầu tương Ba lệ lạc,
Thanh nhập Sở vân ai.
ẩm giản hô bằng khứ,
Văn kinh tác bạn lai.
Vân thâm hà xứ mịch,
Sơn sắc chính thôi ngôi.
Dịch:
Vượn núi
Non cao ngoăn ngoắt leo chơi,
Tiếng kêu buồn để cho người rơi châu.
Uống khe dắt rủ bạn bầu,
Ngàn mây ẩn bóng biết đâu dò tìm.
Sơn điểu
Thân thế vân yên ngoại,
Y y tận nhật nhân.
Nhất thanh sơn sắc minh,
Sổ cá tịch dương hoàn.
Tăng củng hàm lai quả,
Sào thê đáo xứ san.
Chu thu thùy hội ý,
Phi nhiễu tiết la gian.
Dịch:
Chim núi
Khói mây ngày tháng thong dong,
Kêu trong sắc núi, vờn trong bóng chiều.
Tha quả chín, đậu đồi kiêu,
Bên rừng lá rậm dập dìu liệng quanh.
Sơn hoa
Noãn nhập cao đê thụ,
Chi chi hỏa dục nhiên.
Đông tây hà thế giới,
Viễn cận cẩm sơn xuyên.
Hồng vũ lâm yêu đọa,
Hương phong động khẩu truyền.
Tự khai hoàn tự lạc,
Kim cổ kỷ xuân thiên.
Dịch:
Hoa núi
Xuân sang đỏ ối cành cành,
Mây thêu gấm dệt bao quanh bốn bề.
Sắc hương man mác rừng khe,
Cổ kim từng biết bao khi nở tàn.
Sơn diệp
Nhất bích thiên vô tế,
Tùng điều nhân vọng mê.
Thu lai hoàng bị kính,
Xuân đáo lục doanh khê.
Trú quyện vô nhân tảo,
Yên thâm hữu điểu đề.
Thương nhiên khan bất tận,
Thiên lý tịch dương tê (tây).
Dịch:
Lá núi
Lưng không bát ngát bốn bề,
Thu sang ngập úa, xuân về rợp xanh.
Chim kêu ríu rít đầu cành,
Tà dương bóng ngả chênh chênh ngàn đoài.
Hai người ham mê nhau quá, chỉ cốt cái thú vui sướng trước mắt. Nhưng vui quá hóa buồn, lẽ tự nhiên như thế, không có gì là lạ. Năm Kỷ Sửu (1349) nàng quả vì có thai rồi ốm, lay lứt từ mùa xuân đến mùa hạ, ngồi lên nằm xuống, tất thảy đều có người đỡ vực. Sư Vô Kỷ vốn không biết thuốc, lại không biết đường chạy chữa, khiến nàng sau phải nằm quằn quại chết ở trên giường cữ. Vô Kỷ xót thương vô hạn, quàn nàng ở cuối mái hành lang phía Tây, sớm tối vỗ vào áo quan mà khóc rằng:
- Em ơi, em vì anh mà chết một cách oan uổng. Nếu anh được theo em cùng chết, anh rất sẵn lòng, khỏi để em vò võ một mình ở nơi chín suối. Huống chi khi em bình sinh vốn thông tuệ, khác hẳn với mọi người thường, nếu có linh thiêng, xin sớm cho anh được theo về dưới đất, anh không muốn lại trông thấy sư cụ Pháp Vân nữa.
Sau mấy tháng Vô Kỷ cũng vì nhớ thương mà thành ốm, lai rai đến nửa năm trời, bỏ cả cơm cháo. Một đêm thấy Hàn Than hiện đến bảo rằng:
- Thiếp buổi trước ngàn dâu xế bóng, cửa Phật nương mình, đáng cười thay chưa dứt lòng trần, thêm ngán nỗi còn vương nợ nghiệt, đài Dao mệnh dứt, đến nỗi chia bày, sống còn chưa được thỏa yêu đương, chết xuống sẽ cùng nhau quấn quýt. Mong chàng hiểu câu lục như (17), như bỏ giường thiền tứ đại (18), tạm rời cảnh Phật, về chốn suối vàng để thiếp được ngửa nhờ Phật lực, thác hóa đầu thai, đặng trả cho xong một cái nợ oan gia ngày trước.
Nói xong thì không thấy đâu cả. Từ đấy bệnh Vô Kỷ ngày càng nguy kịch. Sư cụ Pháp Vân nghe tin, xuống núi để thăm, thì bệnh đã không thể cứu vãn được nữa, đành chỉ trông nhau ứa nước mắt, rồi một lát thì Vô Kỷ chết.
Đêm hôm ấy gió mưa dữ dội, ở kinh đô có nhiều nhà lật mái đổ tường. Bà vợ quan Hành khiển Ngụy Nhược Chân chiêm bao thấy hai con rắn cắn vào mạng sườn ở dưới nách bên tả. Sau đó rồi bà có mang sinh ra được hai người con trai, đặt tên người con lớn là Long Thúc, người con bé là Long Quý. Hai đứa trẻ ấy mới đầy một tuổi đã biết nói, lên tám tuổi đã biết làm văn, được cha mẹ rất là yêu quý. Bây giờ đang giữa mùa hè nóng bức, Nhược Chân một hôm ngồi hóng mát trên cái lầu cao. Cửa lầu trông xuống đường, có một vị thầy tu đói khó đi qua ở dưới, dùng dằng trông ngắm, muốn đi mà không đi dứt được. Chợt rồi người ấy phàn nàn:
- Lạ thay tòa lâu đài thế kia mà rồi sẽ thành cái vực của thuồng luồng. Đáng tiếc! Đáng tiếc!
Nhược Chân sợ hãi thất sắc, vội chạy theo hỏi; ban đầu thầy tu không chịu nói, chỉ bảo vừa rồi bàng hoàng nói nhảm chứ không thấy có gì lạ, xin bất tất phải nghi ngờ. Nhưng Nhược Chân cứ cố khẩn nài, thầy tu mới bảo là nhà ông chứa đầy khí yêu quái, nếu không là nghiệp báo kiếp trước thì tất là oan gia kiếp này; người ta đã ở trong nhà ông, chỉ năm tháng nữa thì cả nhà không còn sống sót một mống. Nhược Chân kêu xin cứu cho, thầy tu nói: Tôi vốn có con mắt xem người rất sành. Xin cho tôi xem tất cả người trong nhà, hễ tôi thấy đúng người nào thì gõ vào chậu để cho ông biết. Nếu tiết lộ ra một lời thì tai vạ xảy ra ngay lập tức.
Nhược Chân gọi tất cả người nhà ra lạy chào; thầy tu xem khắp lượt rồi lắc đầu nói:
- Đều không phải cả. Vị tất đã biến thành hình. Lại hỏi trong nhà còn ai phải gọi nốt ra. Nhược Chân vào gọi nốt hai con trai đang ngồi trong nhà học. Khi hai người con trai đến, thầy tu liền gõ vào chậu rồi nức nở khen:
- Quý hóa thay hai cậu con trai! Sau này làm nên sự nghiệp lừng lẫy, vẻ vang cho nhà và danh giá với đời, tất nhiên là những cậu này.
Hai người đều giận nói:
- Thầy chùa ở đâu đến đây mà bẻm mép tán xằng gì thế?
Nói rồi đều phất áo đi vào. Nhược Chân không bằng lòng; thầy tu cũng từ giã ra đi.
Đêm hôm ấy, Long Quý khóc bảo với Long Thúc rằng:
- Vị yêu tăng hôm nay, lời nói ba hoa hình như có ý dòm dỏ. Nếu hắn mà biết, e rằng sẽ nguy cho chúng ta lắm đấy.
Long Thúc cười mà rằng:
- Trừ được chúng ta, duy có một sư cụ Pháp Vân. Còn những kẻ khác, ta chỉ giơ tay là cướp được bùa dấu của họ. Huống chi Nhược Chân đối với ta, tất vì tình cốt nhục mà không hiềm nghi gì cả, ta có thể yên ổn không lo ngại gì.
Bấy giờ Nhược Chân nằm ngủ không yên, đang dậy đi một mình thơ thẩn, tình cờ do chỗ khe cửa sổ mà nghe lóng được, sợ hãi kinh hoàng không biết tính thế nào. Ngày hôm sau, nói vờ là có chút việc, từ nhà ra đi, dò thăm khắp chốn danh lam, tìm hỏi vị sư cụ có tên hiệu là Pháp Vân. Trải hơn một tháng đến tìm chùa ở Lệ Kỳ, thấy gã tiểu đồng nói hồi nhỏ có nghe tên hiệu ấy nhưng sư cụ đã dời vào núi sâu từ lâu rồi. Tiểu đồng nhân trỏ lên ngọn núi Phượng Hoàng (19) mà bảo:
- Sư cụ ở trên núi kia kìa.
Nhược Chân bèn xắn áo đi lên, qua bốn năm dặm nữa mới tới chỗ sư cụ ở. Bấy giờ sư cụ đang nằm ngủ ở trên ghế tiếng ngáy như sấm, hai bên tả hữu có hai chú tiểu đứng hầu. Nhược Chân khúm núm đi lên, hai gã tiểu đồng quát mắng làm cho sư cụ tỉnh giấc. Nhược Chân đến trước sụp lạy và kể cái bản ý tìm đến của mình. Sư cụ cười mà rằng:
- Sao tiên sinh lầm thế? Lão phu thân không ở chùa chiền, chân không đến thành thị đã lâu năm rồi. Nay chỉ có thể ở trong am cỏ, quét đất thắp hương, tụng kinh Lăng nghiêm mấy lần. Chứ còn đến bay bùa chạy dấu thì không phải là việc của lão.
Sư cụ từ chối rất dứt khoát. Hai tiểu đồng đứng bên bàn rằng:
- Đức Phật nhà ta lấy từ bi làm bè, tế độ làm cửa, thương bể khổ trôi nổi, cứu sông mê đắm chìm. Bởi vì ngài muốn ai nấy cùng sang bỉ ngạn, cùng gội thiện duyên. Nếu thầy nhất định chối từ thì sao làm rộng đạo nhà Phật ra được.
Bấy giờ sư cụ mới vui vẻ nhận lời. Bèn dựng một đàn tràng ngay ở trên núi, treo đèn bốn mặt và lấy bút son vẽ bùa dấu. Ước độ trống canh thì có đám mây đen mươi trượng bao bọc ở chung quanh đàn, một cơn gió lạnh thổi ào làm cho người phải ghê rợn. Sư cụ cầm cây tích trượng chỉ huy tả hữu, có lúc lại ra khỏi đàn làm ra bộ quát mắng. Nhược Chân ngồi ở một ngôi nhà phía xa, vén mành trông trộm; nhưng vắng lặng chẳng thấy gì cả, chỉ nghe trên không có tiếng khóc y ỷ, một lúc tiếng tắt mà đám mây cũng tan. Sáng hôm sau, sư cụ lấy một phiến đá bôi hùng hoàng vào rồi viết mực lên, trao cho Nhược Chân mà bảo:
- Ông về hễ thấy loài yêu quái biến ra vật gì, kịp lấy đá này mà ném thì những mối thừa của tai họa sẽ dứt được hết.
Nhược Chân về đến nhà. Thấy người nhà đương ngồi châu đầu mà khóc. Bà vợ kể chuyện canh ba đêm nọ, hai con trai cùng dắt nhau xuống giếng mà chết, nước giếng dâng lên hầu ngập cả thềm, hiện ra hai cái thây đều đã quàn ở vườn nam, chỉ đợi Nhược Chân về thì đem mai táng. Nhược Chân hỏi:
- Trước lúc chết, chúng có nói gì không?
Người nhà nói:
- Chúng chỉ phàn nàn là giá chậm độ mấy tháng nữa thì công việc xong, không ngờ bị kẻ cuồng tăng làm hại.
Nói xong, lại gào khóc. Nhược Chân can ngăn rồi cùng ra vườn nam mở nắp quan tài để xem. Khi mở thấy hai cái thây đã hóa thành hai con rắn vàng, lấy hòn đá ném thì chúng liền nát ra tro cả.
Vợ chồng liền sắm nhiều vàng lụa đem đến tạ ơn sư cụ Pháp Vân. Nhưng đến nơi thì thấy am cỏ rêu phong, không tìm nhận ra được vết đi nào cả, nhân buồn bã cùng nhau trở về.


Lời bình:
Than ôi! Theo về dị đoan chỉ là có hại (20). Huống chi đã theo lại còn không giữ cho đúng phép, thì mối hại phỏng còn xiết nói được ư? Gã Vô Kỷ kia, là một kẻ gian dâm, buông thói tà dục, chẳng những dối người lại còn dối Phật của hắn thờ nữa. Giả đem xử vào cái tội như vua Ngụy giết bọn Sa Môn (21) ngày xưa thì hắn cũng không oan chút nào.
Thế còn Nhược Chân thì hẳn là không có lỗi chăng? Đáp rằng làm quan mà như thế, còn gì gọi là chính gia được nữa! Mầm vạ mọc lên, suýt nữa hãm vào bước nguy khốn, chính mình làm mình chịu, không đáng lấy làm lạ chút nào.
Chú thích:
(*) Nguyên văn: Đào Thị nghiệp oan ký.
* Nguyên văn: Tản Viên từ phán sự lục.
(1) Từ Sơn: tên huyện, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh
(2) Thiệu Phong: niên hiệu vua Trần Dụ Tông (1341-1357)
(3) Đông Bộ Đầu: bến sông Hồng phía trên cầu Long Biên, gần dốc Hàng Than, Hà Nội ngày nay.
(4) Chùa Phật Tích: nguyên chú: "Chùa núi Phật Tích thuộc xã Sài Khê, huyện Thạch Thất", tức chùa Thày, nay thuộc tỉnh Hà Tây.
(5) Cửa Phạn Vương: cửa chùa, cửa Phật..
(6) Khúc Lương Châu: khoảng niên hiệu Thiên Bảo đời Đường, các điệu nhạc đều lấy tên các vùng đất ngoài biên tái như Lương Châu, Cam Châu, Y Châu...
(7) Đâu Suất: là tầng trời thứ tư trong sáu tầng dục giới, nơi Di Lặc ở và giáo hóa những người có thiện duyên (Theo kinh Phật).
(8) Khe Tào múc nước: Đời Lương có vị cao tăng là Trí Dược từ nước Thiên Trúc vào Trung Quốc. Thuyền đến cửa Khe Tào ở Thiều Châu, thoảng thấy mùi thơm, múc nước nếm rồi bảo: "Thượng lưu dòng nước này có thắng địa". Bèn khai núi làm chùa, đặt tên là Bảo Lâm.
(9) Lá bối: Một thứ lá cây, trước đây thường dùng chép kinh Phật.
(10) Hàn Nga sang Tề, đi qua cửa Ung thì hết lương, phải hát rong kiếm tiền ăn; đi rồi mà tiếng hát còn văng vẳng trên nóc nhà ba ngày không dứt.
(11) Tầm Dương: Bạch Cư Dị bị giáng chức làm tư mã Giang Châu. Một hôm đi thuyền tiễn khách, đậu ở bến Tầm Dương đã nghe tiếng đàn tì bà ai oán mà tuyệt diệu, thổ lộ tâm tình của người kỹ nữ tài hoa luống tuổi lấy người lái buôn chè. Người lái buôn ham lợi để nàng ca nữ một mình trên bến sông lạnh lùng.
(12) Hàng Quận: Cầm Tháo là một ca kỹ ở Tây Hồ thuộc Hàng Châu, một lần tiếp Tô Đông Pha, một trong bát đại gia Đường Tống, nghe ông đọc hai câu thơ: Môn ngoại lãnh lạc yên mã hi; Lão đại giá tác thương thân phụ (Ngoài cửa lạnh lùng xe ngựa vắng; tuổi già duyên kết chú phường buôn). Cầm Tháo tỉnh ngộ bèn cắt tóc đi tu.
(13) Đời Đường các công tử vương tôn nghe hát, thường lấy gấm quàng đầu con hát để thưởng, gọi là "phao cẩm triền đầu" (Ném gấm quấn đầu).
(14) Thầy chùa Tuệ Viễn đời Tấn cùng các bạn tu 15 người họp thành hội Bạch Liên hoa, viết thư mời Đào Uyên Minh đến dự, Uyên Minh bảo có rượu mới tới. Viễn nhận lời, nhưng Uyên Minh đến lại không có rượu, ông chau mày bỏ đi.
(15) Chùa Lệ Kỳ: Nguyên chú: "Chùa Lệ Kỳ nay thuộc huyện Chí Linh". Chí Linh nay thuộc tỉnh Hải Dương.
(16) Dữu Lượng đời Tấn làm Đô đốc Kinh Châu thường lên lầu Nam thưởng nguyệt.
(17) Kệ lục như: Bài kệ trong kinh Phật nói hết thảy mọi việc đời đều: như mộng, như huyễn, như bọt, như sương, như điện, như bóng (tám điều như).
(18) Giường thiền tứ đại: Kinh Phật nói thân thể người ta là do tứ đại (đất, nước, lửa, gió) hợp thành. Tô Đông Pha vốn chơi thân với sư Phật ấn. Một hôm ông Tô đến chơi, Phật ấn đùa bảo "Quan nội hàn đến làm gì? ở đây không có chỗ ngồi". Ông Tô đùa lại: "Xin mượn cái "tứ đại" của sư làm giường thiền".
(19) Núi Phượng Hoàng: nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
(20) Câu này của Khổng Tử trong sách Luận ngữ. Nhà nho coi các học thuyết khác (không phải đạo nho) là "dị đoan", ở đây chỉ đạo Phật.
(21) Thôi Hạo đời Ngụy ghét đạo Phật. Nhân vua Ngụy đến thành Trường An, vào một ngôi chùa, thấy có binh khí và nhà hầm giấu con gái, Hạo bèn xin vua giết hết sa môn (sư) trong thiên hạ.

Hết chương 7 mời các bạn đọc tiếp chương 8

Chương 8: Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên
 
Sửa lần cuối:

Bút nghiên xin chia sẻ giới thiệu với các bạn đọc Chương 8 - Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ
Chương 8: Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên


Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng đất Lang Giang (1). Chàng vốn khẳng khái nóng nẩy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng bắc người ta vẫn khen là một người cương phương. Trong làng trước có một tòa đền, vẫn linh ứng lắm. Cuối đời họ Hồ, quân Ngô sang lấn cướp, vùng ấy thành một nơi chiến trường. Bộ tướng của Mộc Thạnh có viên Bách hộ họ Thôi, tử trận ở gần đền, từ đấy làm yêu làm quái trong dân gian, có người dốc hết của cải, gia sản khánh kiệt cũng không đủ để cầu cúng. Tử Văn rất là tức giận, một hôm tắm gội chay sạch, khấn trời rồi châm lửa đốt đền. Mọi người đều lắc đầu lè lưỡi, họ lo sợ thay cho Tử Văn, nhưng Tử Văn vung tay không cần gì cả.
Đốt xong về nhà, chàng thấy trong mình khó chịu, đầu lảo đảo và bụng run run, rồi nổi lên một cơn sốt nóng sốt rét. Trong khi sốt, chàng thấy một người khôi ngô dõng dạc, đầu đội mũ trụ đi đến, nói năng, quần áo, rất giống người phương Bắc, tự xưng là cư sĩ, đến đòi làm trả lại tòa đền như cũ, và nói:
- Nhà ngươi đã theo nghiệp nho, đọc sách thánh hiền, há không biết cái đức của quỷ thần ra sao, cớ gì lại dám lăng miệt, hủy tượng đốt đền, khiến cho hương lửa không có chỗ tựa nương, oai linh không có nơi hiển hiện, vậy bảo làm sao bây giờ? Biết điều thì dựng trả tòa đền như cũ. Nếu không thì vô cớ hủy đền Lư sơn, Cố Thiệu sẽ khó lòng tránh khỏi tai vạ (2).
Tử Văn mặc kệ, vẫn cứ ngồi ngất ngưởng tự nhiên, người kia tức giận nói:
- Phong Đô không xa xôi gì, ta tuy hèn, há lại không đem nổi nhà người đến đấy. Không nghe lời ta thì rồi sẽ biết.
Nói rồi phất áo đi.
Chiều tối, lại có một ông già, áo vải mũ đen, phong độ nhàn nhã, thủng thỉnh đi vào đến trước thềm, vái chào mà rằng:
- Tôi là vị Thổ thần ở đây, nghe thấy việc làm rất thú của nhà thầy, vậy xin đến để tỏ lời mừng.
Tử Văn kinh ngạc nói:
- Thế người đội mũ trụ đến đây ban nãy, chẳng phải là Thổ địa đấy ư? Sao mà nhiều thần quá thế vậy.
Ông già nói:
- Ô, đấy là viên tướng bại trận của Bắc Triều, cái hồn bơ vơ ở Nam quốc, tranh chiếm miếu đền của tôi, giả mạo tên họ của tôi, quen dùng chước dối lừa, thích làm trò thảm ngược, Thượng đế bị nó bưng bít, hạ dân bị nó quấy rầy, phàm những việc hưng yêu tác quái đều tự nó cả, chứ có phải tôi đâu. Xin kể đầu đuôi để nhà thầy nghe:
"Tôi từ đời vua Lý Nam đế làm chức Ngự sử đại phu, vì chết về việc cần vương mà được phong ở đây, giúp dân độ vật đã có hơn một nghìn năm nay, khi nào lại làm việc gieo tai rắc vạ để kiếm miếng ăn như kẻ khuất tặc kia đã làm. Gần đây vì thiếu sự đề phòng, bị nó đánh đuổi, nên phải đến nương tựa ở đền Tản Viên đã vài năm nay".
Tử Văn nói:
- Việc xảy ra đến như thế, sao ngài không kiện ở Diêm vương và tâu lên Thượng đế, lại đi khinh bỏ chức vị, làm một người áo vải nhà quê.
Ông già chau mặt nói:
- Rễ ác mọc lan, khó lòng lay động. Tôi đã định thưa kiện, nhưng mà có nhiều nỗi ngăn trở. Những đền miếu gần quanh, vì tham của đút, đều bênh vực cho nó cả. Khư khư một chút lòng thành thực, không làm thế nào để thông đạt được lên cho nên đành tạm ẩn nhẫn mà ngồi xó một nơi.
Tử Văn nói:
- Hắn có thực là tay hung hãn, có thể gieo vạ cho tôi không?
- Hắn quyết chống chọi với nhà thầy, hiện đã kiện thầy ở Minh ty. Tôi thừa lúc hắn đi vắng nên lén đến đây báo cho nhà thầy biết để mà liệu kế, khỏi phải chết một cách oan uổng.
Lại dặn Tử Văn:
- Hễ ở Minh ty có tra hỏi, thầy cứ khai ra những lời nói của tôi. Nếu hắn chối cãi, thầy kêu xin tư giấy đến đền Tản Viên, tôi sẽ khai rõ thì nó phải đớ miệng. Nếu không như thế thì tôi đến vùi lấp trọn đời mà thầy cũng khó lòng thoát nạn.
Tử Văn vâng lời. Đến đêm, bệnh càng nặng thêm, rồi thấy hai tên qủy sứ đến bắt đi rất gấp, kéo ra ngoài thành về phía đông. Đi độ nửa ngày đến một dinh tòa rất lớn, chung quanh có thành sắt cao vọi đến mấy chục tượng. Hai quỷ đến nói với người canh cổng, người canh cổng đi vào một lúc rồi ra truyền, chỉ rằng:
- Tội sâu ác nặng, không được dự vào hàng khoan giảm.
Nói rồi xua tay bảo đi ra phía bắc. Đằng phía bắc, tức là một con sông lớn, trên sông bắc một cái cầu dài ước hơn nghìn bước, gió tanh sóng xám, hơi lạnh thấu xương. Hai bên tả hữu cầu, có đến mấy vạn quỷ Dạ Xoa, đều mắt xanh tóc đỏ hình dáng nanh ác. Hai quỷ dùng gông dài thừng lớn gông trói Tử Văn mà giải đi rất nhanh, Tử Văn kêu to lên rằng:
- Ngô Soạn này là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian, có tội lỗi gì xin bảo rõ cho, không nên bắt phải chết một cách oan uổng.
Chợt nghe trên điện có lời tuyên ngôn rằng:
- Tên này bướng bỉnh gân guốc, nếu không phán đoán cho rõ, vị tất nó đã chịu phục tội.
Bèn sai dẫn Tử Văn vào trong cửa điện. Tử Văn vào đến nơi, đã thấy người đội mũ trụ đương kêu cầu ở trước sân.
Diêm vương mắng Tử Văn rằng:
- Kẻ kia là một người cư sĩ, trung thuần khích liệt, có công với tiên triều, nên Hoàng thiên cho được huyết thực ở một tòa đền để đền công khó nhọc. Mày là một kẻ hàn sĩ, sao dám hỗn láo, tội nghiệt tự mình làm ra, còn trốn đi đằng nào?
Tử Văn bèn tâu trình đầu đuôi như lời ông cụ già đã nói, lời rất cương chính, không chịu chùn nhụt chút nào. Người đội mũ trụ nói:
- Ấy là ở trước vương phủ mà hắn còn quật cường như thế, mồm năm miệng mười, đơm đặt bịa tạc. Huống hồ ở một nơi đền miếu quạnh hiu, sợ gì mà hắn không dám cho một mớ lửa.
Hai bên cãi cọ nhau mãi vẫn chưa phân phải trái, nhưng Diêm Vương vì thế bụng cũng sinh nghi. Tử Văn nói:
- Nếu nhà vua không tin lời tôi, xin đem giấy đến đền Tản Viên để hỏi hư thực; không có sự thực như thế, tôi lại xin chịu thêm cái tội nói càn.
Người kia bây giờ mới có vẻ sợ, quỳ xuống tâu rằng:
- Gã kia là một kẻ học trò, thật là ngu bướng, quả đáng tội lắm. Nhưng đã trách mắng như vậy, cũng đủ trừng giới. Xin đại vương khoan tha cho hắn để tỏ cái đức rộng rãi. Bất tất đòi hỏi dây dưa và thẳng tay trị tội, sợ có hại cho cái đức hiếu sinh.
Diêm vương quát lớn rằng:
- Cứ như lời hắn thì nhà người đáng tội tru lục. Điều luật lừa dối đã sẵn sàng đó. Nhà ngươi cớ sao dám làm sự xuất nhập luận tội người ta như vậy?
Lập tức sai người đến đền Tản Viên để lấy chứng thực. Sai nhân về tâu, nhất nhất đúng với lời Tử Văn. Vương cả giận, bảo các Phán quan rằng:
- Lũ ngươi chia tòa sở, giữ chức sự, cầm lệnh chí công, làm phép chí công, thưởng thì xứng đáng mà không thiên hư, phạt thì đích xác mà không hà lạm, vậy mà còn có sự dối trá càn bậy như thế; huống chi về đời Hán đời Đường buôn quan bán ngục, thì những mối tệ còn xiết nói được ư?
Liền sai lấy lồng sắt chụp vào đầu, khẩu gỗ nhét vào miệng, bỏ người ấy vào ngục Cửu u. (3)
Vương nghĩ Tử Văn có công trừ hại, truyền cho vị thần đền kia, từ nay phần xôi lợn của dân cúng tế, nên chia cho Tử Văn một nửa, và sai lính đưa Tử Văn về. Chàng về đến nhà, té ra mình chết đã được hai ngày rồi. Nhân đem những việc đã qua kể cho mọi người nghe, ai cũng kinh hãi và không tin là thực. Sau họ đón một bà đồng về phụ bóng, đồng lên cũng nói đúng như lời Tử Văn. Người làng bèn mua gỗ, lại dựng một tòa đền mới. Còn ngôi mộ của người tướng kia thì tự dưng thấy bật tung lên, hài cốt tan tành ra như cám vậy.
Sau đó một tháng, Tử Văn thấy ông già đến bảo:
- Lão phu đã trở về miếu, công của nhà thầy, không biết lấy gì đền đáp được. Nay thấy ở đền Tản Viên khuyết một chân Phán sự, không có người lo việc. Lão với nhà thầy đã biết nhau nên đã vì nhà thầy hết sức tiến cử, được đức Thánh Tản ngài đã bằng lòng, vậy xin lấy việc đó để đền ơn nghĩa. Người ta sống ở đời, xưa nay ai không phải chết, miễn là chết đi còn được tiếng về sau là đủ rồi. Nếu trùng trình độ nửa tháng, sợ sẽ về tay người khác mất. Nên cố gắng đi, đừng nên coi là việc tầm thường.
Tử Văn vui vẻ nhận lợi, bèn thu xếp việc nhà rồi không bệnh tật gì mà mất.
Năm Giáp Ngọ (1414) có người ở thành Đông Quan (4) vốn quen biết với Tử Văn, buổi sớm đi ra ngoài cửa tây vài dặm, trông thấy ở trong sương mù có xe ngựa đi đến ầm ầm, lại nghe thấy tiếng quát rằng:
"Người đi đường tránh ra, xe quan Phán sự!".
Người ấy ngẩng đầu trông về phía trước, người ngồi trên xe chính là Tử Văn. Song Tử Văn chỉ ngồi trên xe chắp tay thi lễ chứ không nói một lời nào, rồi thoắt đã cưỡi gió mà đi biến mất. Đến nay con cháu hãy còn, người ta còn truyền là "nhà quan Phán sự!".

Lời bình:
Than ôi! Người ta vẫn nói: "Cứng quá thì gẫy". Kẻ sĩ chỉ lo không cứng cỏi được, còn gẫy hay không là việc trời. Sao nên đoán trước là sẽ gẫy mà chịu đổi cứng ra mềm ru!
Ngô Tử Văn là một anh chàng áo vải. Vì cứng cỏi cho nên dám đốt cháy đền tà, chống cãi yêu quỷ, một lần ra tay mà mối hận của cả thần và người đều được rửa. Nhân thế nức tiếng mà được giữ chức vị ở Minh tào, thật là xứng đáng. Vậy là kẻ sĩ, không nên kiêng sợ sự cứng cỏi.
Chú thích:
(1) Yên Dũng đất Lạng Giang: Lộ Lạng Giang đời Trần Hồ là miền đất thuộc tỉnh Bắc Giang và một phần Tây Nam tỉnh Lạng Sơn ngày nay. Huyện Yên Dũng nay thuộc tỉnh Bắc Giang.
(2) Đời Tam quốc, Cố Thiệu làm quan Thú ở quận Dự Chương phá hủy các đền thờ những vị thần bất chính. Sau thấy thần miếu Lư Sơn hiện lên đòi làm trả, Thiệu không nghe. Không bao lâu bị ốm mà chết (sách Loại tụ).
(3) Ngục Cửu u: chín ngục dưới âm phủ, mỗi ngục coi một hình phạt, như: A tì (giam vĩnh viễn), núi dao, cắt thịt, ngậm sắt nóng...
(4) Đông Quan: tên gọi Thăng Long thời thuộc Minh.

Hết chương 8 mời các bạn đọc tiếp chương 9

Chương 9: Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên
 
Sửa lần cuối:
Bút nghiên xin chia sẻ giới thiệu với các bạn đọc Chương 9 - Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ
Chương 9: Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên (*)



Trong năm Quang Thái (1) đời nhà Trần, người ở Hóa Châu (2) tên là Từ Thức, vì có phụ ấm được bổ làm Tri huyện Tiên Du (3). Bên cạnh huyện có một tòa chùa danh tiếng, trong chùa trồng một cây mẫu đơn, đến kỳ hoa nở thì người các nơi đến xem đông rộn rịp, thành một đám hội xem hoa tưng bừng lắm. Tháng 2 Bính tý (4), người ta thấy có cô con gái, tuổi độ 15, 16 phấn son điểm phớt, nhan sắc xinh đẹp tuyệt vời, đến hội ấy xem hoa. Cô gái vin một cành hoa, không may cành giòn mà gãy khấc, bị người coi hoa bắt giữ lại, ngày đã sắp tối vẫn không ai đến nhận. Từ Thức cũng có mặt ở đám hội, thấy vậy động lòng thương, nhân cởi tấm áo cừu gấm trắng, đưa vào tăng phòng để chuộc lỗi cho người con gái ấy. Mọi người đều khen quan huyện là một người hiền đức.
Song Từ Thức vốn tính hay rượu, thích đàn, ham thơ, mến cảnh, việc sổ sách bỏ ùn cả lại thường bị quan trên quở trách rằng:
- Thân phụ thầy làm đến Đại thần mà thầy không làm nổi một chức Tri huyện hay sao!
Từ than rằng:
- Ta không thể vì số lương năm đấu gạo đỏ mà buộc mình trong áng lợi danh. Âu là một mái chèo về, nước biếc non xanh vốn chẳng phụ gì ta đâu vậy.
Bèn cởi trả ấn tín, bỏ quan mà về. Vốn yêu cảnh hang động ở huyện Tống Sơn (5), nhân làm nhà tại đấy để ở. Thường dùng một thằng nhỏ đem một bầu rượu, một cây đàn đi theo, mình thì mang mấy quyển thơ của Đào Uyên Minh, (6) hễ gặp chỗ nào thích ý thì hý hửng ngả rượu ra uống. Phàm những nơi nước tú non kỳ như núi Chích Trợ, động Lục Vân, sông Lãi, cửa Nga (7), không đâu không từng có những thơ đề vịnh. Một hôm Từ Thức dậy sớm trông ra bể Thần Phù (8) ở phía ngoài xa vài chục dặm, thấy có đám mây ngũ sắc đùn đùn kết lại như một đóa hoa sen mọc lên, vội chèo thuyền ra thì thấy một trái núi rất đẹp. Từ kinh ngạc bảo lái thuyền rằng:
- Ta đã từng lênh đênh trên áng giang hồ, các thắng cảnh miền đông nam, không biết trái núi này từ đâu lại mọc ra trước mắt, ý giả là non tiên rụng xuống, vết thần hiện ra đây chăng? Sao trước không mà nay lại có?
Bèn buộc thuyền lên bờ thì thấy những vách đá cao vút nghìn trượng, sừng sững đứng thẳng, nếu không có cánh thì vị tất đã trèo lên thăm cảnh đó được. Nhân đề một luật thơ rằng:
Thiên chương bích thụ quải triêu đôn,
Hoa thảo nghênh nhân nhập động môn.
Nhiễu giản dĩ vô tăng thái dược,
Duyên lưu thặng hữu khách tầm nguyên.
Lữ du tư vị cầm tam lộng, Điếu đĩnh sinh nhai tửu nhất tôn.
Nghĩ hướng Vũ Lăng ngư tử vấn,
Tiền lai viễn cận chủng đào thôn.
Dịch:
Triêu dương bóng rải khắp ngày xanh,
Hoa cỏ cười tươi đón rước mình.
Hái thuốc nào đâu sư kẽ suối,
Tìm nguồn duy có khách bên ghềnh.
Lang thang đất lạ đàn ba khúc,
Nênh nổi thuyền câu rượu một bình.
Bến Vũ (9) chàng ngư, tìm thử hỏi,
Thôn Đào (9) chỉ hộ lối loanh quanh.
Đề xong, trông ngắm thẫn thờ, như có ý chờ đợi. Chợt thấy ở trên vách đá bỗng nứt toác ra một cái hang, hình tròn mà rộng độ một trượng. Vén áo đi vào, vừa được mấy bước thì cửa hang đã đóng sập lại tối tăm mù mịt như sa vào cái vực đen tối. Bụng nghĩ không còn thể nào sống được nữa, lấy tay sờ soạng lối rêu, nhận thấy có một cái khe nhỏ, quằn quèo như cái ruột dê vậy. Đi mò độ hơn một dặm thì thấy có đường đi ngoi lên. Bám bíu trèo lên thì mỗi bước mỗi thấy rộng rãi. Lên đến ngọn núi thì bầu trời sáng sủa. Chung quanh toàn là những lâu đài nguy nga, mây xanh ráng đỏ, bám ở lan can, cỏ lạ hoa kỳ, nở đầy trước cửa. Sinh nghĩ nếu không phải là chỗ đền đài thờ phụng, tất là cái xóm của những bậc lánh đời, như những nơi núi Thứu nguồn Đào (9) chẳng hạn. Rồi chợt thấy có hai người con gái áo xanh bảo nhau rằng:
- Lang quân nhà ta đã đến!
Đoạn họ vội chạy vào báo tin, một lúc đi ra nói rằng:
- Phu nhân chúng tôi sai mời chàng vào chơi.
Sinh đi theo họ vào, vòng quanh một bức tường gấm, vào trong một khung cửa son, thấy những tòa cung điện bằng bạc đứng sững, có những tấm biển đề: "Điện Quỳnh hư", "Gác Dao Quang". Trên gác có bà tiên áo trắng, ngồi trên một cái giường thất bảo bên cạnh đặt một chiếc giường nhỏ bằng gỗ đàn hương, mời Sinh lên ngồi và bảo rằng:
- Tính hiếu kỳ của chàng đã thành chứng nghiện. Sự vui sướng trong một chuyến đi chơi này, kể cũng đã thỏa nguyện bình sinh. Nhưng mối duyên gặp gỡ chàng có còn nhớ gì không?
Từ thưa rằng:
- Tôi là một kẻ dật sĩ ở Tống Sơn. Một cánh buồm gió, một lá thuyền nan, phóng lãng giang hồ thích đâu đến đấy. Nào có biết chốn này lại có Tử phủ Thanh đô! Lần mò lên được tới đây, chẳng khác như mình đã mọc cánh mà bay lên đến cõi tiên vậy. Song lòng trần mờ tối, chưa biết tiền đồ ra làm sao. Dám xin chỉ bảo rõ ràng cho chúng tôi được hiểu.
Bà tiên cười bảo:
- Chàng biết sao được. Đây là núi Phù Lai, một động tiên thứ 6 trong 36 động, bồng bềnh ở ngoài bể cả, dưới không có bám bíu, như hai núi La Phù tan hợp theo với sóng rợn, mà tôi tức là địa tiên ở Nam nhạc là Ngụy phu nhân. Vì thấy chàng là người cao nghĩa sẵn lòng cứu giúp sự nguy khốn cho người, nên mới dám làm phiền mời chàng đến đây.
Bà tiên nhân đưa mắt cho con hầu để bảo gọi một cô tiên ra, Từ liếc nhìn trộm, chính là người bẻ gãy cành hoa ngày trước. Bà tiên trỏ bảo rằng:
- Đứa con tôi đây tên là Giáng Hương, ngày trước gặp phải cái nạn trong khi đi xem hoa, nhờ chàng cứu gỡ, ơn ấy khôn quên, nay muốn cho nó kết duyên để báo đền ơn trước.
Bèn ngay đêm ấy đốt đèn mỡ phượng, rải đệm vàng rồng, để hai người làm lễ giao bái. Ngày hôm sau quần tiên đến mừng, có người mặc áo gấm cưỡi con ly từ đàng bắc xuống, có người bận xiêm lụa cưỡi rồng từ phía nam lên, có người đi kiệu ngọc, có người cưỡi xe gió, đồng thời lại họp. Tiệc yến đặt ở từng thượng trên gác Dao quang, buông rèm câu (10) ngọc, rủ trướng móc vàng, phía trước đặt một cái ghế bành bằng ngọc lưu ly mà để không. Quần tiên vái chào nhau cùng ngồi ở những ghế bên tả; Từ Thức thì ngồi ở cái giường bên hữu. Ngồi xong, có tiếng truyền hô là Kim tiên (11) đã đến, mọi người đều bước xuống đón cúi lạy chào. Đoạn rồi lên gác tấu nhạc. Tiệc bày mâm bằng mã não, đĩa bằng ngọc thạch, các món ăn đều rất kỳ lạ, lại có những thứ rượu kim tương, ngọc lễ, mùi hương đưa lên thơm nức, dưới trần không bao giờ có được cái của quý như vậy. Người áo gấm trắng nói:
- Chúng tôi chơi ở chốn này mới tám vạn năm, mà bể Nam đã ba lần tung bụi. Nay chàng từ xa tới đây, không vì tiên phàm mà cách trở, ba sinh hương lửa, tưởng cũng không phụ, đừng nên cho chuyện thần tiên là câu chuyện hoang đường.
Rồi có những người trẻ nhỏ, chia ra từng lớp mà múa điệu Lăng Ba. Đoạn, phu nhân mời tiệc. Giáng Hương rót rượu. Người bận xiêm lụa nói đùa rằng:
- Nương tử hôm nay mầu da hồng hào, chứ không khô gầy như trước nữa. Người ta bảo ngọc nữ không chồng, câu ấy hỏi có tin được không?
Quần tiên đều cười, duy người mặc áo xanh buồn rầu không vui mà nói rằng:
- Mối duyên của cô em đây, thật cũng là tốt đẹp. Song nghĩ cái giá băng ngọc ở trên mây, mà đi kết mối tóc tơ ở cõi thế, vạn nhất tiếng tăm vỡ lở, thiên hạ chê cười, quần tiên chúng ta e không khỏi mang tiếng lây được.
Bà Kim tiên nói:
- Ta ở trong chốn lâu thành trên trời, chầu hầu cạnh đức Thượng đế, mênh mang trần hải, chưa từng đặt bước xuống bao giờ. Thế mà những kẻ hiếu sự họ còn bịa ra, nào bảo Dao trì hội kiến ở đời Chu (12), thanh điểu truyền tin ở đời Hán (13), ta còn thế, huống chi là lũ các nàng ư ? Song tân lang ngồi đây, ta không nên bàn phiếm những câu chuyện khác làm rối lòng dạ người ta.
Bà phu nhân nói:
- Tôi nghe tiên khá gặp chứ khôn tìm, đạo không tu mà tự đến. Những cuộc gặp gỡ hiếm lạ, đời nào mà không có: như đền Bạc hậu (14), như quán Cao đường (15), như thần Lạc phố lướt sóng (16), như nàng Giang Phi cởi ngọc (17), như Lộng Ngọc lấy Tiêu Sử (18), như Thái Loan gặp Văn Tiêu (19), như Lan Hương gặp Trương Thạc (20). Bao nhiêu những chuyện cũ còn sờ sờ đó; nếu thế này mà bị chê cười thì đã có những người trước ấy họ chịu đỡ tiếng cười cho mình.
Mọi người cùng phá lên cười rất vui vẻ. Rồi đó mặt trời gác núi, các khách khứa đều giải tán cả. Từ đùa bảo Giáng Hương rằng:
- Thì ra tất cả các cõi trời đều có chuyện phối ngẫu cả. Cho nên ả Chức Nữ lấy chàng Ngưu Lang, nàng Thượng Nguyên tìm chàng Phong Trắc (21), Tăng Nhụ có bài ký Chu Tần (22), Quần Ngọc có bài thơ Hoàng lăng (23), cảnh khác nhưng tình cũng giống nhau, nghìn xưa vẫn như thế cả. Nay quần tiên ai về chỗ nấy, sống trong cảnh quạnh quẽ cô liêu, đó là vì lòng vật dục không nẩy sinh, hay là cũng có nhưng phải gượng đè nén?
Nàng đổi sắc mặt nói:
- Mấy người ấy là những cái khí huyền nguyên, những cái tính chân nhất, thân hầu cửa tía, tên ghi đền vàng, ở thì ở phủ thanh hư, chơi thì chơi miền sung mạc, không cần gạn mà lòng tự trong, không cần lấp mà đục vẫn lặng. Không như thiếp bảy tình chưa sạch, trăm cảm dễ sinh, hình ở phủ tía nhưng lụy vướng duyên trần, thân ở đền quỳnh mà lòng theo cõi dục; chàng đừng nên nhân một mình thiếp mà cho tất cả quần tiên đều thế.
Từ nói:
- Nếu thế thì em còn thua các tiên kia xa lắm.
Vợ chồng cùng vỗ tay cả cười.
Chỗ Giáng Hương có bức bình phong trắng. Từ thường đề thơ lên trên rằng:
Nhãn để yên hà cước để vân,
Thanh quang sái sái bức Tam Thần.
Tùng hoa bán lão hương phong động,
Môi dẫn Thương Lương điếu đĩnh nhân.
Dịch:
Khói rợp mây che khắp bốn trời,
Non Thần trong sáng đó là nơi.
Hoa thông theo gió đưa hương ngát,
Dắt dẫn thuyền câu khách một người.
II
Thu phong nhất dạ nguyệt man san,
Liên quyển hoàng hoa nhập ỷ lan.
Tửu lực khốn nhân thi tứ khổ,
Ngâm hào túy các bích lang can.
Dịch:
Một đêm gió thổi nguyệt đầy non,
Rèm cuộn hoa vàng lọt cửa son.
Rượu mệt mê say người nặng trĩu,
Mượn đem bút trúc gửi thi hồn.
III
Bảo áp ngưng hàn hoán túc hương,
Biệt tài tân phổ lý nghê thường.
Từ thành bất cảm cao thanh đạo,
Kinh khởi âm lai phong vũ trường.
Dịch:
Đốt lại lò trầm nhóm lại hương,
Đắn đo đổi mới khúc nghê thường,
Bài thành không dám cất cao tiếng,
E gió mưa về ẩm một phương.
IV
Hồng Hà đối khởi Xích thành tiêu,
Sáp hán cung tường tỏa tịch liệu,
Tinh đẩu nhiễu lan thiên nhất ác,
Dạ thâm Tần nữ học xuy tiêu.
Dịch:
Ráng đỏ đùn lên tựa gấm thêu,
Cung tường cao vút vắng teo teo,
Trăng sao dường mọc quanh bên mái,
Tần nữ đêm dài học thổi tiêu. (24)
V
Thương mang vân ngoại đoản trường chu,
Mân Quế kiền khôn nhật dạ phù,
Nhất điểu mộ xuân phi bất tận,
Liên không đạm tảo bích du du.
Dịch:
Ngoài mây thấp thoáng bóng tiên châu,
Mận, Quế (25) phương trời ngút tận đâu.
Xuân muộn con chim bay lạc lõng,
Vòm không quang sạch biếc làu làu.
VI
Khước hàn liêm phóng nguyệt trùng trùng,
Khiếp đối suy nhan bả kính dung.
Cách trúc hoán lai tiên chẩm mộng,
Ngũ canh vô nại viễn sơn chung.
Dịch:
Rèm buông cản lạnh nguyệt linh lung,
Gương võ vàng soi luống thẹn thùng.
Cách trúc gối tiên vừa khẽ chợp,
Non xa đưa rộn tiếng chuông đồng.
VII
Phù phù thụy ái nhiễu kim khuê,
Phương trượng huề nam Nhược thủy tê.
Xướng bãi đà canh thiên dục thự,
Hương tâm hà xứ nhất thanh kê.
Dịch:
Khí lành quanh quất phủ buồng xuân,
Phương trượng (26) non xa, Nhược thủy (27) gần
Dứt tiếng canh đà (28) trời sắp sáng,
Lòng quê theo rõi áng mây Tần.
VIII
Yên lam như kế liễu như điền,
Tỏa thát tình khuy hải bạc thuyền.
Vũ khách khứ thời vô xứ mịch,
Bộ hư thanh ngoại bích liên thiên.
Dịch:
Hơi lam: mái tóc, liễu: hoa cài,
Thuyền bể xa trông thấp thoáng ngoài.
Đạo sĩ một đi tìm khó thấy,
Trong không tản mác tiếng ngân dài.
IX
Tứ diện ba đào nhất kế sơn,
Dạ lai hà xứ mộng hương quan.
Mang mang trần giới hồi đầu viễn,
Thân tại hồng vân bích thủy gian.
Dịch:
Sóng nước bao quanh núi một vùng,
Mộng về quê cũ lối không thông.
Mây vàng nước biếc thân nương đậu,
Trần giới xa coi ngút mịt mùng.
X
Đào hoa nhiễu giản xuất Thiên thai,
ủy địa tàn hồng bán lục đài.
Khước tiếu Lưu lang khinh xuất động,
Lâm phong kỷ bả ngọc thư khai.
Dịch:
Mặt suối hoa đào lặng lẽ trôi,
Rêu trùm sắc thắm uổng pha phôi.
Lưu Lang biệt động sao khờ mấy,
Thư ngọc buồn tênh giở mấy hồi. (29)
Như Từ, từ khi bỏ nhà đi thấm thoát đã được một năm, ao sen đã đổi thay mầu biếc. Những đêm gió thổi, những sáng sương sa, bóng trăng sáng dòm qua cửa sổ, tiếng thủy triều nghe vẳng đầu giường, đối cảnh chạnh lòng, một mối buồn bâng khuâng, quấy nhiễu khiến không sao ngủ được. Một hôm trông ra bể, thấy một chiếc tàu buôn đi về phương Nam. Từ trỏ bảo Giáng Hương rằng:
- Nhà tôi đi về phía kia kìa, song biển cả trời xa, chẳng biết là ở tận đâu.
Rồi nhân lúc rỗi, chàng nói với nàng rằng:
- Tôi bước khách bơ vơ, lòng quê bịn rịn, lệ hoa thánh thót, lòng cỏ héo hon, dám xin thể tình mà cho được tạm về, chẳng hay ý nàng nghĩ thế nào?
Giáng Hương bùi ngùi không nỡ dứt. Từ lang nói:
- Tôi xin hẹn trong một thời kỳ bao nhiêu lâu, để về cho bạn bè gặp mặt và thu xếp việc nhà cho yên, sẽ lại đến đây để với nàng cùng già ở chốn làng mây bến nước.
Giáng Hương khóc mà nói:
- Thiếp chẳng dám vì tình phu phụ mà ngăn cản mối lòng quê hương của chàng. Song cõi trần nhỏ hẹp, kiếp trần ngắn ngủi, dù nay chàng về nhưng chỉ e liễu sân hoa vườn, không còn đâu cảnh tượng như ngày trước nữa.
Nàng nhân thưa với phu nhân, phu nhân nói:
- Không ngờ chàng lại mắc mớ vì mối lòng trần như vậy.
Nhân cho một cỗ xe cẩm vân để chàng cưỡi về. Nàng cũng đưa cho chàng một bức thư viết vào lụa mà nói:
- Ngày khác trông thấy vật này, xin đừng quên mối tình ngày cũ.
Rồi tràn nước mắt mà chia biệt.
Chàng đi chỉ thoắt chốc đã về đến nhà, thì thấy vật đổi sao dời, thành quách nhân gian, hết thảy đều không như trước nữa, duy có những cảnh núi khe là vẫn không thay đổi sắc biếc mầu xanh thủa nọ. Bèn đem tên họ mình hỏi thăm những người già cả thì thấy có người nói:
- Thuở bé tôi nghe nói ông cụ tam đại nhà tôi cũng cùng tên họ như ông, đi vào núi mất đến nay đã hơn 80 năm, nay đã là năm thứ 5 niên hiệu Diên Ninh là đời ông vua thứ ba của triều Lê rồi. (30)
Chàng bấy giờ mới hậm hực bùi ngùi; muốn lại lên xe mây để đi, nhưng xe đã hóa làm một con chim loan mà bay mất. Mở thư ra đọc, thấy có câu: "Kết lứa phượng ở trong mây, duyên xưa đã hết, tìm non tiên ở trên bể dịp khác còn đâu!" mới biết là Giáng Hương đã nói trước với mình những lời ly biệt. Chàng bèn mặc áo cừu nhẹ, đội nón lá ngắn, vào núi Hoành Sơn, (30) rồi sau không biết đi đâu mất.


Lời bình:
Than ôi, nói chuyện quái sợ loạn chuyện thường, cho nên thánh hiền không nói. Nhưng việc Từ Thức lấy vợ tiên, cho là thực không ư ? Chưa hẳn là không; Cho là thực có ư? Chưa hẳn là có. Có không lờ mờ, câu chuyện tựa hồ quái đản. Nhưng có âm đức thì tất có dương báo, cũng là lẽ thường. Những bậc quân tử sau này khi để mắt đến sẽ liệu mà thêm bớt, bỏ chỗ quái mà để chỗ thường thì phỏng có gì là hại.
Chú thích:
* Nguyên văn: Từ Thức tiên hôn lục.
(1) Quang Thái: niên hiệu Trần Thuận Tông, từ 1388-1398.
(2) Hóa châu: Thanh Hóa ngày nay (theo nguyên chú Hóa Châu là châu Thanh Hóa cổ).
(3) Tiên Du: nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.
(4) Năm Bính Tý: dưới thời Thuận Tông là năm 1396.
(5) Huyện Tống Sơn: khoảng đời Trần là vùng đất tương đương với miền bắc huyện Nga Sơn và miền đông bắc huyện Hà Trung; thời Lê là vùng đất huyện Hà Trung, Thanh Hóa ngày nay.
(6) Đào Uyên Minh: năm sinh có ba thuyết: 365; 372; 376, mất 427, tên là Tiềm, là thi gia đời Đông Tấn. Từng làm Huyện lệnh Bành Trạch, sau vì không chịu luồn cúi nên treo ấn từ quan. Ông có câu nói nổi tiếng: "Lẽ nào vì năm đấu gạo lương mà phải khom lưng!". Thơ văn của ông giản phác mà tinh luyện, có phong cách riêng, phần lớn thể hiện tư tưởng ẩn dật.
(7) Núi Chích Trợ... cửa Nga: đều là những thắng cảnh của Thanh Hóa.
(8) Thần Phù: Theo Lịch triều hiến chương loại chí, phần Dư địa chí: cửa Thần Phù là cửa sông ra bể, thuộc huyện Nga Sơn, nay thuộc tỉnh Thanh Hóa.
(9) Núi Thứu: xưa Tây vực có núi Thứu Lĩnh, vì núi hình chim Thứu nên thành tên. Nguồn đào: theo Đào hoa nguyên ký của Đào Tiềm thì đời Tấn có một người đánh cá ở Vũ Lăng đi thuyền lạc vào rừng đào. ở đấy người đánh cá gặp một thôn xóm rất yên bình, hỏi thì là những người lánh nạn nhà Tần, họ không biết gì về thời cuộc hiện tại. Người đánh cá ở mấy hôm rồi ra về. Câu chuyện đến tai viên quan quận, ông ta muốn người đánh cá đưa đi, nhưng khi trở lại, người đánh cá không tìm được dấu vết gì nữa. Sau những từ Vũ Lăng, nguồn Đào, thôn đào vừa chỉ nơi ẩn dật cũng vừa chỉ cõi tiên.
(10) Câu: cái móc để vén rèm, màn.
(11) Kim tiên: tức Tây Vương mẫu.
(12) Sách Loại tụ nói vua Chu Mục Vương ham thích thần tiên rồi gặp bà Vương mẫu ở Dao Trì.
(13) Lời chua ở sách Đường thi, nói vua Hán Vũ Đế ngồi ở điện Thừa Hoa, chợt có hai con chim xanh từ phương tây bay lại, đậu ở trước điện. Vua hỏi Đông Phương Sóc. Sóc nói: "Đó là bà Vương mẫu sắp đến chơi đấy". Một lát quả nhiên bà Vương mẫu đến, có hai người thị nữ áo xanh tức là hai con chim xanh lúc trước.
(14) Chuyện Ngưu Tăng Nhụ đời Đường gặp các nàng tiên ở đền Bạc thái hậu; xem thêm chú thích 5 Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây.
(15) Sở vương chơi ở quán Cao Đường, gặp một nàng thần nữ, cùng chung chăn gối. Xem thêm chú thích 11 Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu.
(16) Thần nữ ở Lạc Phố tên là Bật Phi, con gái vua Phục Hy. Sách Quần ngọc có chép chuyện Trần Tư Vương gặp thần nữ ở Lạc Phố.
(17) Hai nàng tiên Giáng Phi chơi ở bên sông gặp Trịnh Giao Phủ, cởi ngọc minh châu mà tặng cho. Trịnh nhận được ngọc đi được mấy chục bước thì ngọc không còn nữa mà những nàng kia cũng biến mất.
(18) Chàng Tiêu Sử giỏi thổi ống tiêu, vua Tần Mục Công đem con gái là Lộng Ngọc gả cho. Chàng dạy nàng thổi tiêu, chim phượng hoàng nghe tiếng bay đến. Sau vợ chồng cùng cưỡi phượng mà bay lên trời.
(19) Chàng Văn Tiêu gặp nàng tiên Thái Loan ở núi Tây tại đất Chung Lăng, hai người lấy nhau.
(20) Ngọc nữ Đỗ Lan Hương lấy Trương Thạc. Sau nàng về trời, Trương Thạc rất thương nhớ.
(21) Phong Trắc đọc sách ở trong núi sâu, bà tiên Thượng Nguyên phu nhân đêm đến ve vãn (xuất ở sách Thiên hạ dị kỷ).
(22) Chuyện Ngưu Tăng Nhu. Xem chú thích 5 Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây.
(23) Lý Quần Ngọc qua miếu Nhị phi ở Sầm Dương có đề một bài thơ câu đầu là: "Hoàng Lăng miếu tiền xuân dĩ không" chợt có hai người con gái hiện lên tự xưng là hai nàng Nga Hoàng, Nữ Anh hẹn sau hai năm sẽ cùng Lý gặp gỡ.
(24) Tần nữ: xem chú thích 18 cùng truyện.
(25) Mân, Quế: nguyên chú: Mân thuộc vùng đất Bách Việt giáp với Ngao Sơn biển Đông; Quế là Quế Châu, Quảng Tây. Ngày nay Mân là tỉnh Phúc Kiến.
(26) Phương trượng: tăng phòng. Nguyên do là Vương Huyền Sách đời Đường sang sứ Tây vực, vào chỗ ở của nhà sư Duy Ma, thấy căn buồng của sư vuông vắn, mỗi bề mười hốt, bèn gọi là phương trượng.
(27) Nhược thủy: theo Sơn hải kinh, là một dòng sông ở vùng cực tây của Trung Quốc, sức nước rất yếu, dù một hạt cải cũng không thể nổi trên mặt nước: tương truyền là nơi tiên ở.
(28) Đà: tên một giống cá có chân, dài vài trượng, da bền có thể bưng trống được; tiếng kêu rất vang, mỗi lần kêu rất đúng với một trống canh.
(29) Bài thơ này lấy ý từ câu chuyện Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai. Đời Hán, Lưu Thần, Nguyễn Triệu vào núi hái thuốc. Hai chàng đi mãi lạc vào Thiên Thai, gặp tiên nữ, lấy làm vợ. Được một thời gian, nhớ nhà đòi về, tiên nữ tiễn đưa đến cửa động. Lưu Nguyễn về đến nhà thì đã qua bảy đời, bạn bè họ hàng không còn ai, hai người muốn trở lại nơi cũ nhưng không tìm được lối xưa nữa. Nhà thơ Tào Đường (đời Đường) có năm bài thơ "kể" chuyện này rất được nhiều người ưa thích.
(30) Năm thứ 5 niên hiệu Diên Ninh: Diên Ninh là niên hiệu của Lê Nhân Tông từ 1454 đến 1459; năm thứ 5 là: 1458.


Hết chương 9 mời các bạn đọc tiếp chương 10
Chương 10: Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi thiên tào
 
Sửa lần cuối:
Bút nghiên xin chia sẻ giới thiệu với các bạn đọc Chương 10 - Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ

Chương 10: Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi thiên tào (*)
Phạm Tử Hư quê ở Cẩm Giàng, (1) là một người tuấn sảng hào mại không ưa kiềm thúc. Theo học nhà xử sĩ Dương Trạm; Trạm thường răn Tử Hư về cái tính hay kiêu căng. Từ đấy chàng cố sức sửa đổi, trở nên người có đức tính tốt.
Khi Dương Trạm chết, các học trò đều tản đi cả, duy Tử Hư làm lều ở mả để chầu chực, sau ba năm rồi mới trở về. Năm 40 tuổi, Tử Hư đi thi vẫn chưa đỗ, đời Trần, sang du học ở kinh, ngụ ở trong một nhà dân bên bờ hồ Tây.
Một buổi sáng, ở nhà trọ đi ra, trong áng sương mù thấy có một đám những tán vàng kiệu ngọc bay lên trên không; kế lại có một cỗ xe nạm hạt châu, kẻ theo hầu cũng rất chững chạc. Tử Hư khẽ dòm trộm xem thì người ngồi trong xe, chính thầy học mình là Dương Trạm. Chàng toan đến gần sụp lạy nhưng Trạm xua tay nói:
- Giữa đường không phải chỗ nói chuyện, tối mai nên đến đền Trấn Vũ cửa Bắc, thầy trò ta sẽ hàn huyên một hôm Tử Hư bèn sắm rượu và thức nhắm, đúng hẹn mà đến. Thầy trò gặp nhau vui vẻ lắm, chàng nhân hỏi rằng:
- Thầy mới từ trần chưa bao lâu, thoắt đã trở nên hiển hách khác hẳn ngày trước, xin thầy cho biết rõ duyên do để con được vui mừng.
Dương Trạm nói:
- Ta thuở sống không có một điều thiện nào đáng khen, chỉ có hay giữ điều tín thực đối với thầy bạn, quý trọng những tờ giấy có chữ, hễ thấy rơi vãi liền nhặt mà đốt đi. Đức Đế quân đây ngài khen là có bụng tốt tâu xin cho làm chức trực lại ở cửa Tử đồng (2). Hôm qua ta hầu lính giá ngài lên chầu Thiên cung, tình cờ lại gặp nhà ngươi, đó cũng là vì thầy trò mình có cái mối duyên.
Tử Hư nói:
- Thầy được lĩnh chức trọng quyền cao như vậy, chẳng hay sự sống chết thọ yểu của con, thầy có được rõ không?
- Việc đó không phải thuộc về chức vụ của ta.
- Vậy thế thầy giữ về việc gì?
- Ta trông coi về việc văn chương thi cử, khoa danh cao thấp của những học trò trong thiên hạ.
Tử Hư mừng mà rằng:
- Nếu thế thì tiền trình của con cùng đạt thế nào chắc thầy biết rõ?
- Cứ như văn chương tài nghệ của anh, đương đời này không ai bì kịp, huống anh lại còn có tính trung hậu thành thực; có điều lúc thiếu thời thường lấy văn tài mà kiêu ngạo với người khác, cho nên trời mới bắt đỗ muộn để phải chùn nhụt cài nết ngông ngáo đi. Nếu không thì cướp thẻ trước của Mông Chính (3), lặt cỏ rác của Hạ Hầu (4) phỏng anh còn khó khăn gì nữa. Cho nên xưa nay người ta bàn về kẻ sĩ, tất trước hết xét đến đức hạnh là vì thế. Ngày nay những người mặc áo nhà nho, đeo dải nhà nho thì lại khác hẳn. Họ thường đổi họ để đi học, thay tên để đi thi; hễ trượt đỗ thì đổ lỗi mờ quáng cho quan chấm trường, hơi thành danh thì hợm mình tài giỏi hơn cả tiền bối, chí khí ngông ngáo, tính tình tráo trở, thấy thầy nghèo thì lảng tránh, gặp bạn nghèo thì làm ngơ, không biết rằng ngày thường dắt dẫn rèn cặp phần nhiều là cái công đức của thầy bạn. Vả như ta ngày xưa, dạy có đến mấy nghìn học trò, giao du ở kinh đô rất nhiều bè bạn thế mà sau ta mất, nghe có người đai vàng, mũ bạc, có người quan cả ngôi cao, nhưng không hề một ai tìm đến thăm viếng mồ ta mà tưới lên một vài chén rượu. Nhân thế ta vẫn để ý đến anh lắm.
Tử Hư nhân đem những người làm quan bấy giờ, nhất nhất hỏi về từng người một:
- Thưa thầy, ông mỗ ở ngôi trọng thần mà tham lam không chán, ông mỗ làm chức sư tư (5) mà mô phạm không đủ, ông mỗ coi lễ mà lễ nhiều thiếu thốn, ông mỗ chăn dân mà dân bị tai hại, ông mỗ chấm văn mà lấy đỗ thiên vị, ông mỗ trị ngục mà buộc tội oan uổng; lại còn những người lúc thường bàn nói thì môi mép bẻo lẻo, đến lúc trù tính, quyết định kế lớn của quốc gia thì mờ mịt như ngồi trong đám mây mù, thậm đến không nói theo danh, không xét theo thực, không trung với đấng quân thượng, lớn thì làm việc bán nước của lưu Dự (6), nhỏ thì làm việc dối vua của Diên Linh (7). Bọn ấy sau khi chết có phải luận tội gì không, hay là cứ được hưởng tôn vinh mãi thế?
Trạm cười mà rằng:
- Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Lưới trời thênh thang, thưa nhưng chẳng lọt. Chỉ bởi rằng thời gian chưa đến mà thôi. Nay ta bảo rõ anh nghe: trong khoảng trời đất báo ứng luân hồi, chỉ có hai loài thiện ác. Người chăm làm thiện, tuy hãy còn sống, tên đã ghi ở Đế đình; người hay làm ác, không đợi đến chết, án đã thành ở Địa phủ. Cho nên Nhan Hồi lúc sống ở trong ngõ hẻm mà chết làm chức Tu văn (8), Vương Bàng ngày thường có nết kiêu ngoan mà chết phải máu rây mặt đất (9). Không phải như người ở cõi đời, có thể mượn thế mà được làm quan, có thể nhờ tiền mà được khỏi vạ, hình phạt thì quá lạm, tước thưởng thì quá thiên tư, cúi đầu khom cật, dù hèn hạ cũng cất nhắc lên, đứa đoạt thằng gian, nhờ đút lót mà được thoát khỏi. Anh nên cố gắng, đừng gieo cái nghiệp báo ở kiếp sau này.
Tử Hư nói:
- Cái cửa họa phúc đã được nghe đại khái. Nhưng nay những người học trò thường đến đền Đế quân làm lễ cầu mộng, xin ngài báo ứng cho biết những sự nghiệp về sau. Việc đó có quả thực không?
Trạm cười mà rằng:
- Đấng Đế quân ngài nuốt nhà nguyên khí, chu du tám phương, ngày xét giấy tờ, đêm chầu Thượng đế, còn lúc nào rỗi để làm cái việc vụn vặt ấy. Song những người một lòng chay sạch thành kính, thì trong lúc bập bùng, tựa như có thấy. Người đời không hiểu bèn cho là sự thực, thật đáng buồn cười.
- Thưa thầy, nếu thế thì chuyện phóng bảng cửa trời, cũng là câu chuyện truyền ngoa chăng?
- Không, việc đó thì thật đấy.
Trạm bèn giơ ra một cuộn giấy phong dán rất kỹ bảo Tử Hư rằng:
- Đây là bảng xuân sang năm đây. Ta vâng mệnh Đế quân đi tra xét kỹ lưỡng để giao lên cửa trời biên vào cho đủ. Vì có anh đến chơi đây nên ta chưa đi được.
Dương Trạm lại kể cho Tử Hư nghe những thú vui ở trên Thiên tào, hơn ở cõi trần nhiều lắm, và bảo nhà ngươi nên cố gắng sửa mình chuốt nết, tự nhiên có ngày được lên ở trên ấy; như ta đây cũng là một cái duyên may mắn khác thường. Tử Hư nói:
- Mình trần vóc tục, còn biết do lối nào mà ngoi lên được! Chỉ mong theo đòi xe gió, được tạm lên chơi xem một chuyến, chẳng hay thầy có thể giúp cho được không?
- Sự đó cũng không khó. Để ta bẩm với đức Đế quân đem tên họ anh điền vào.
Bèn lấy bút son viết vào cuốn giấy hơn mười chữ, rồi bảo cất bỏ tiệc rượu. Tử Hư được theo thầy lên ngồi ở một bên xe, rồi cỗ xe thẳng đường bay lên. Lên đến trên trời, Tử Hư thấy một khu có những bức tường bạc bao quanh, cái cửa lớn khảm trai lộng lẫy, hai bên có những tòa lầu châu điện ngọc, vằng vặc sáng như ban ngày, sông Ngân bến Sao, ôm ấp sau trước, gió thơm phưng phức, đượm ngát quanh hiên, hơi lạnh thấu da, ánh sáng chói mắt, trông xuống cõi trần, thấy mọi cảnh vật đều bé nhỏ tủn mủn.
Dương Trạm nói:
- Anh có biết đây là đâu không? Tức là kinh đô Bạch Ngọc ở trên trời mà người đời vẫn thường nói đó. ở chính giữa kia có một đám mây hồng che phủ, tức là cung Tử Vi của đức Thượng đế ngài ngự. Anh nên đứng chờ ta ở ngoài cửa thành để ta vào tâu xin cho anh.
Nói rồi Dương Trạm cầm cuộn giấy đi vào, sau một lúc lâu mới ra. Chợt nghe ở trên thành có tiếng hô vang, nói người đỗ đầu bảng sang năm, đã kén được viên trạng nguyên họ Phạm rồi.
Dương Trạm bèn dẫn Tử Hư đi chơi thăm khắp cả các tòa. Trước hết đến một tòa có cái biển đề ngoài là "Cửa tích đức" trong có chừng hơn nghìn người mũ hoa dải huệ, kẻ ngồi người đứng, Tử Hư hỏi thì Dương Trạm nói:
- Đó là những vị tiên thuở sống có lòng yêu thương mọi người, tuy không phải dốc hết tiền của để làm việc bố thí, nhưng biết tùy thời mà chu cấp, đã không keo bẩn, lại không hợm hĩnh. Thượng đế khen là có nhân, liệt vào thanh phẩm nên họ được ở đây.
Lại đi qua một tòa sở có cái biển đề ở ngoài là "Cửa Thuận hạnh", trong đó độ hơn nghìn người, áo mây lọng mưa, kẻ hát người múa. Tử Hư lại hỏi, Dương Trạm nói:
- Đó là những vị tiên thuở sống hiếu thuận, hoặc trong lưu ly biết bao bọc lấy nhau, hoặc đem đất cát mà san sẻ cho nhau, mấy đời ở chung không nỡ chia rẽ. Thượng đế khen là có lòng, cho vào cung mây nên họ được ở đây.
Lại đến một tòa sở có cái biển đề là "Cửa Nho thần" người ở đấy đều áo dài đai rộng, cũng có tới số một nghìn, trong có hai người mặc áo lụa, đội mũ sa.
Dương Trạm trỏ bảo Tử Hư rằng:
- Ấy là ông Tô Hiến Thành (10) triều Lý và ông Chu Văn An (11) triều Trần đó. Ngoài ra thì là những danh thần đời Hán, đời Đường, không sung vào quan vị hay chức chưởng gì cả, chỉ ngày sóc ngày vọng thì vào tham yết Đế quân, như những viên tản quan đời nay thỉnh thoảng vào chầu vua mà thôi. Cứ cách năm trăm năm lại cho giáng sinh, cao thì làm đến khanh tướng, thấp cũng làm được sĩ phu, hiệu doãn. Ngoài ra còn đến hơn trăm tòa sở nữa, nhưng trời gần sáng không đi xem khắp được, vội cưỡi gió mà bay xuống trần. Xuống đến cửa Bắc, thấy trăm quan đã lục tục vào triều chầu vua.
Tử Hư từ biệt thầy trở về, sang năm đi thi quả đỗ tiến sĩ. Phàm những việc cát hung họa phúc nhà Tử Hư, thường được thầy về báo cho biết.


Lời bình:
Than ôi, những chuyện huyền hoặc Tề Hài, những lời ngụ ngôn Trang Chu, (12) người quân tử vốn chẳng nên ham chuộng. Nhưng nếu là chuyện quan hệ đến luân thường, là lời ký ngụ ý khuyên giới thì chép ra và truyền lại, có hại gì đâu.
Nay như câu chuyện Tử Hư, có thể để khuyên cho những người ăn ở trung hậu với thầy, lại có thể làm răn cho những người ăn ở bạc bẽo với thầy, có quan hệ đến luân thường của người ta lớn lắm. Còn như việc lên chơi Thiên tào, có hay không có, hà tất phải gạn gùng đến nơi đến chốn làm gì?


Chú thích:
* Nguyên văn: Phạm Tử Hư du Thiên tào lục.
(1) Cẩm Giàng: nay vẫn là huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.
(2) Tử đồng: vốn là tên một huyện ở Trung Quốc, nơi thờ Đế quân Văn Xương, trông coi về văn học, thường có tục cầu tiên giáng bút. ở đây tác giả chỉ dùng với nghĩa là nơi ở của Đế quân.
(3) Lã Mông chính là người đời Tống, thi đỗ trạng nguyên. Khi nghe tin Mông Chính đỗ, Hồ Đán Phủ phàn nàn rằng: "Thôi thế là sang năm ta đỗ, lại phải sau hắn một thẻ rồi". Quả nhiên sang năm Hồ đỗ thật.
(4) Hạ hầu Thắng là một danh nho đời Hán. Ông thường nói: "Kẻ sĩ chỉ sợ không sáng nghĩa kinh, nếu sáng thì lấy áo xanh áo tía dễ dàng như lặt cỏ rác ở dưới đất vậy".
(5) Sư tư: chỉ các học quan. Theo lời sớ của Cốc lương truyện (kinh Xuân thu), vì thầy học là dạy cho người ta những điều thiếu hụt nên gọi là "sư tư" (tư là của cải, ý nói vốn kiến thức).
(6) Lưu Dự làm tôi vua Khâm Tông đời Tống, đầu hàng nhà Kim, Kim lập làm Tề đế.
(7) Diên Linh làm tôi vua Đức Tông đời Đường, làm nhiều sự gian dối, mỗi khi ứng đối, toàn là những lời dối trá cả.
(8) Nhan Hồi là học trò bậc cao của Khổng Tử, nghèo khó ở trong ngõ hẹp mà vẫn vui vẻ, năm 32 tuổi mất sớm. Sau đến đời Tấn có Tô Thiều chết đi rồi lại hồi tỉnh. Người em là Tiết hỏi chuyện dưới đất thì Thiều nói: "Hai ông Nhan Hồi và Bốc Thượng hiện được làm chức Tu văn lang ở dưới đất" (Văn uyển).
(9) Vương Bàng là con Kinh công Vương An Thạch, một lần ban ngày Kinh công ở Kinh Lăng thấy một kẻ lại cũ của mình đã chết từ lâu hiện đến. Kinh công hỏi có biết Vương Bàng ở đâu không. Kẻ lại dẫn ông đến một chỗ thấy Bàng đương bị ngục tốt cùm kẹp, máu vấy ra đầy đất (Loại tụ).
(10) Tô Hiến Thành (?-1179): làm quan dưới triều Lý Anh Tông và Lý Cao Tông, được sử khen là cao minh chính trực.
(11) Chu Văn An (1312-1370): người xã Thanh Liệt, huyện Thanh Đàm, nay là xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Thời Trần ông được giao chức Tư nghiệp Quốc tử giám, là một vị thầy học trung tín cương trực, không sợ quyền thế, không ham tước vị; từng dâng sớ xin chém bảy kẻ lộng thần, được triều đình và kẻ sĩ đương thời nể trọng.
(12) Trang Chu: nhà triết học cổ đại Trung Quốc. Tề hài là nhân vật hay khôi hài, được Trang Tử chép truyện trong sách của ông. Cũng có thuyết nói Tế Hài là tên sách, trong gồm nhiều truyện khôi hài, ngụ ý.


Hết chương 10 mời các bạn đọc tiếp chương 11
Chương 11: Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang
 
Sửa lần cuối:

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top