Đề bài: Trong tác phẩm Một người Hà Nội, vì sao tác giả Nguyễn Khải lại gọi nhân vật bà Hiền là hạt bụi vàng của Hà Nội?
Truyện ngắn Một người Hà Nội sáng tác năm 1990 phát hiện vẻ đẹp trong chiều sâu tâm hồn, tính cách của người Việt Nam qua bao biến động thăng trầm của đất nước; đồng thời thể hiện cảm nhận của tác giả về những nét đáng quý của người Thủ đô, thông qua nhân vật cô Hiền, một người họ hàng xa mà ông trân trọng gọi là hạt bụi vàng của Hà Nội.
Tác giả với vai trò là người cháu họ xa đứng ra kể chuyện về cô Hiền. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình khá giả, cô Hiền có lối sống của tầng lớp trung lưu ở Hà Nội vào thời kì miền Bắc chưa giải phóng. Chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội đã chấm dứt gần trăm năm đô hộ của thực dân Pháp, mở ra một trang sử mới cho đất nước Việt Nam. Nhân dân miền Bắc nô nức, hăng hái bắt tay vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và tiếp tục đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Cuộc sống sau chiến tranh thật gian nan, thiếu thốn. Vì thế, cô Hiền phải tìm cách để thích nghi dần dần với chế độ mới. Cô vốn khéo tay nên đã chọn nghề làm hoa giấy và mở cửa hàng bán tại nhà. Theo cô thì cái nghề này không giàu nhưng cũng đủ ăn: Hoa làm rất đẹp, bán rất đắt, nhưng chịu thuế rất nhẹ, chỉ có một mình cô làm, các con thì chạy mua vật liệu, hoặc làm giúp phần cuống lá vào dịp Tết ta và Tết tây…
Người cháu tức tác giả khách quan nhận xét là cô khôn hơn các bà bạn của cô và cũng thức thời hơn chồng. Cô biết trong chế độ mới, việc gì làm được, việc gì không làm được nên đã khuyên chồng không nên mua máy in vì sẽ bị quy là thành phần tư sản. Cô Hiền đảm đang, tháo vát và rất có ý thức về vai trò của người vợ trong gia đình. Cô bảo với người cháu: …Người đàn bà không là nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chả ra sao. Việc giáo dục con cái vào nề nếp được cô rất quan tâm : Khi các con còn nhỏ, ngồi vào bàn ăn, cô thường chú ý sửa chữa cách ngồi, cách cầm bát cầm đũa, cách múc canh, cả cách nói chuyện trong bữa ăn, Cô vẫn răn lũ con tôi : “Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không được sống tuỳ tiện, buông tuồng”. Có lần, người cháu tranh luận với cô về cách dạy dỗ lớp trẻ. Chúng tôi là người của thời loạn, các cụ lại bắt dạy con cái theo thời bình là khó lắm. Cô ngồi ngẩn ra một lúc, rồi bảo: “Tao chỉ dạy chúng nó biết tự trọng, biết xấu hổ, còn sau này muốn ra sao là tùy". Theo cô thì lòng tự trọng là cơ sở của đạo đức, nó chi phối mọi suy nghĩ, hành động và làm nên giá trị, danh dự của mỗi con người.
Sự trung thực, lòng tự trọng và bản lĩnh cứng cỏi của cô Hiền khiến người cháu cảm phục. Khi cuộc chiến tranh chống Mĩ đến thời điểm gay go, ác liệt, anh con trai lớn của cô tình nguyện vào Nam chiến đấu. Người cháu hỏi cô : “Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu chứ ?" Cô trả lời: Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”. Anh Dũng vào chiến trường, ba năm liền gia đình không nhận được tin tức gì, đứa em kế lại làm đơn xin tòng quân. Người cháu lại hỏi: Cô cũng đồng ý cho nó đi à? Cô trả lời buồn bã : “Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó… Tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả hoặc chết cả, vui lẻ thì có hay ho gì ".
Đạo lí truyền thống là nền tảng giúp cô Hiền có thể sống tốt, sống đẹp ở mọi thời, trong mọi mối quan hệ gia đình và xã hội. Cô Hiền khôn ngoan mà tự trọng, thức thời mà chu đáo, linh hoạt mà trung thực, đôn hậu mà bản lĩnh, đảm đang trọn vẹn cả việc nước lẫn việc nhà. Tính cách cô Hiền vừa có những nét đặc trưng của người Hà Nội gốc, vừa có phẩm chất chung của người Việt Nam ; giản dị mà lịch lãm, thiết thực mà sang trọng, cần mẫn mà tài hoa, chân thực mà tinh tế, sâu sắc, Ngày thường, cô ăn mặc giản dị như bao phụ nữ khác, nhưng trong bữa tiệc mừng con trai lớn bình yên trở về sau chiến tranh, cô Hiền xuất hiện trước khách mời như diễn viên trên sân khấu, lược giát trâm cài hoa hột lấp lánh… Trong niềm vui đoàn tụ của cô còn có niềm tự hào to lớn của một người mẹ có đứa con xứng đáng với gia đình, xã hội vì đã làm tròn bổn phận công dân đối với đất nước.
Đất nước mở cửa được dăm năm, đời sống vật chất đã sung túc hơn hẳn thời bao cấp. Nhiều người giàu lên nhanh chóng nhờ thích ứng với cơ chế thị trường. Cách nghĩ, cách sống, cách ứng xử của người Hà Nội lúc này cũng thay đổi đáng kể. Sau một thời gian dài chuyển vào Nam sinh sống, người cháu, tức tác giả ra Hà Nội công tác và đến thăm cô Hiền. Lúc này, cô Hiền đã ngoài bảy mươi tuổi nhưng vẫn là người của hôm nay, một người Hà Nội của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn. Ngắm cô Hiền đang chăm chú lau đánh cái bát bày thủy tiên, người cháu thấy Tết quả, Hà Nội quả, muốn ở thêm ít ngày ăn lại một cái Tết Hà Nội. Quả là cô Hiền vẫn cố gắng gìn giữ những gì là tinh hoa trong nếp sống thanh lịch của người Hà Nội. Trong suy nghĩ của cô Hiền, Hà Nội thời nào cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho một lứa tuổi. Hà Nội đã thực sự trở thành máu thịt, thành không gian sống gắn bó với cô suốt cả cuộc đời.
Tác giả đã bỏ công phu tìm hiểu, phân tích chiều sâu đời sống tâm hồn của cô Hiền để rồi bất chợt nảy ra một hình ảnh so sánh vô cùng thú vị: cô Hiền là hạt bụi vàng của Hà Nội. Đây là sáng tạo nghệ thuật chứa đựng nhiều ý nghĩa. Hạt bụi vàng là hình ảnh một sự vật nhỏ bé, khiêm nhường mà đẹp đẽ, quý báu. Nhưng nhiều hạt bụi vàng hợp lại sẽ thành ánh vàng chói sáng. Đó là phẩm giá, là bản sắc truyền thống của người Hà Nội nghìn năm vân hiến.
Hạt bụi vàng là ẩn dụ nghệ thuật đặc sắc có ý nghĩa khái quát cao, thể hiện thái độ trân trọng và tự hào của tác giả đối với nhân vật của mình. Nguyễn Khải cô đúc toàn bộ phẩm chất tốt đẹp của nhân vật vào một hình ảnh giàu ý nghĩa tượng trưng : Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hay mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ảnh vàng! Nhân vật cô Hiền đã chiếm được thiện cảm của người đọc qua cách kể chuyện, miêu tả tự nhiên, linh hoạt và tinh tế của tác giả. Đọc tác phẩm, chúng ta hiểu thêm về tính cách thanh lịch, hào hoa của con người và lối sống Hà Nội, từ đó càng yêu mến, tự hào về Thủ đô – trái tim của Tổ quốc Việt Nam yêu dấu.
Bài làm
Nét đẹp của văn hóa kinh kì xưa và nay đã và đang làm rung động bao trái tim người nghệ sĩ, trở thành nguồn cảm hứng nghệ thuật của thơ văn, họa và nhạc... Nguyễn Khải cũng là một nhà văn nhiều duyên nợ với mảnh đất nghìn năm văn hiến ấy. Nhà văn từng tâm sự, ông đã sống với Hà Nội qua nhiều thời đoạn, nhiều chặng đường của hiện thực đất nước, thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mỗi lứa tuổi...”. Đặc biệt, với Nguyễn Khải, Hà Nội đẹp nhất ở những con người hào hoa, có bản lĩnh, tinh tế trong ứng xử, nhưng cũng đầy nghị lực kiên cường, thiết tha yêu Thủ đô, đất nước thân thương.
Truyện ngắn Một người Hà Nội sáng tác năm 1990 phát hiện vẻ đẹp trong chiều sâu tâm hồn, tính cách của người Việt Nam qua bao biến động thăng trầm của đất nước; đồng thời thể hiện cảm nhận của tác giả về những nét đáng quý của người Thủ đô, thông qua nhân vật cô Hiền, một người họ hàng xa mà ông trân trọng gọi là hạt bụi vàng của Hà Nội.
Tác giả với vai trò là người cháu họ xa đứng ra kể chuyện về cô Hiền. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình khá giả, cô Hiền có lối sống của tầng lớp trung lưu ở Hà Nội vào thời kì miền Bắc chưa giải phóng. Chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội đã chấm dứt gần trăm năm đô hộ của thực dân Pháp, mở ra một trang sử mới cho đất nước Việt Nam. Nhân dân miền Bắc nô nức, hăng hái bắt tay vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và tiếp tục đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Cuộc sống sau chiến tranh thật gian nan, thiếu thốn. Vì thế, cô Hiền phải tìm cách để thích nghi dần dần với chế độ mới. Cô vốn khéo tay nên đã chọn nghề làm hoa giấy và mở cửa hàng bán tại nhà. Theo cô thì cái nghề này không giàu nhưng cũng đủ ăn: Hoa làm rất đẹp, bán rất đắt, nhưng chịu thuế rất nhẹ, chỉ có một mình cô làm, các con thì chạy mua vật liệu, hoặc làm giúp phần cuống lá vào dịp Tết ta và Tết tây…
Người cháu tức tác giả khách quan nhận xét là cô khôn hơn các bà bạn của cô và cũng thức thời hơn chồng. Cô biết trong chế độ mới, việc gì làm được, việc gì không làm được nên đã khuyên chồng không nên mua máy in vì sẽ bị quy là thành phần tư sản. Cô Hiền đảm đang, tháo vát và rất có ý thức về vai trò của người vợ trong gia đình. Cô bảo với người cháu: …Người đàn bà không là nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chả ra sao. Việc giáo dục con cái vào nề nếp được cô rất quan tâm : Khi các con còn nhỏ, ngồi vào bàn ăn, cô thường chú ý sửa chữa cách ngồi, cách cầm bát cầm đũa, cách múc canh, cả cách nói chuyện trong bữa ăn, Cô vẫn răn lũ con tôi : “Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không được sống tuỳ tiện, buông tuồng”. Có lần, người cháu tranh luận với cô về cách dạy dỗ lớp trẻ. Chúng tôi là người của thời loạn, các cụ lại bắt dạy con cái theo thời bình là khó lắm. Cô ngồi ngẩn ra một lúc, rồi bảo: “Tao chỉ dạy chúng nó biết tự trọng, biết xấu hổ, còn sau này muốn ra sao là tùy". Theo cô thì lòng tự trọng là cơ sở của đạo đức, nó chi phối mọi suy nghĩ, hành động và làm nên giá trị, danh dự của mỗi con người.
Sự trung thực, lòng tự trọng và bản lĩnh cứng cỏi của cô Hiền khiến người cháu cảm phục. Khi cuộc chiến tranh chống Mĩ đến thời điểm gay go, ác liệt, anh con trai lớn của cô tình nguyện vào Nam chiến đấu. Người cháu hỏi cô : “Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu chứ ?" Cô trả lời: Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”. Anh Dũng vào chiến trường, ba năm liền gia đình không nhận được tin tức gì, đứa em kế lại làm đơn xin tòng quân. Người cháu lại hỏi: Cô cũng đồng ý cho nó đi à? Cô trả lời buồn bã : “Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó… Tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả hoặc chết cả, vui lẻ thì có hay ho gì ".
Đạo lí truyền thống là nền tảng giúp cô Hiền có thể sống tốt, sống đẹp ở mọi thời, trong mọi mối quan hệ gia đình và xã hội. Cô Hiền khôn ngoan mà tự trọng, thức thời mà chu đáo, linh hoạt mà trung thực, đôn hậu mà bản lĩnh, đảm đang trọn vẹn cả việc nước lẫn việc nhà. Tính cách cô Hiền vừa có những nét đặc trưng của người Hà Nội gốc, vừa có phẩm chất chung của người Việt Nam ; giản dị mà lịch lãm, thiết thực mà sang trọng, cần mẫn mà tài hoa, chân thực mà tinh tế, sâu sắc, Ngày thường, cô ăn mặc giản dị như bao phụ nữ khác, nhưng trong bữa tiệc mừng con trai lớn bình yên trở về sau chiến tranh, cô Hiền xuất hiện trước khách mời như diễn viên trên sân khấu, lược giát trâm cài hoa hột lấp lánh… Trong niềm vui đoàn tụ của cô còn có niềm tự hào to lớn của một người mẹ có đứa con xứng đáng với gia đình, xã hội vì đã làm tròn bổn phận công dân đối với đất nước.
Đất nước mở cửa được dăm năm, đời sống vật chất đã sung túc hơn hẳn thời bao cấp. Nhiều người giàu lên nhanh chóng nhờ thích ứng với cơ chế thị trường. Cách nghĩ, cách sống, cách ứng xử của người Hà Nội lúc này cũng thay đổi đáng kể. Sau một thời gian dài chuyển vào Nam sinh sống, người cháu, tức tác giả ra Hà Nội công tác và đến thăm cô Hiền. Lúc này, cô Hiền đã ngoài bảy mươi tuổi nhưng vẫn là người của hôm nay, một người Hà Nội của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn. Ngắm cô Hiền đang chăm chú lau đánh cái bát bày thủy tiên, người cháu thấy Tết quả, Hà Nội quả, muốn ở thêm ít ngày ăn lại một cái Tết Hà Nội. Quả là cô Hiền vẫn cố gắng gìn giữ những gì là tinh hoa trong nếp sống thanh lịch của người Hà Nội. Trong suy nghĩ của cô Hiền, Hà Nội thời nào cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho một lứa tuổi. Hà Nội đã thực sự trở thành máu thịt, thành không gian sống gắn bó với cô suốt cả cuộc đời.
Tác giả đã bỏ công phu tìm hiểu, phân tích chiều sâu đời sống tâm hồn của cô Hiền để rồi bất chợt nảy ra một hình ảnh so sánh vô cùng thú vị: cô Hiền là hạt bụi vàng của Hà Nội. Đây là sáng tạo nghệ thuật chứa đựng nhiều ý nghĩa. Hạt bụi vàng là hình ảnh một sự vật nhỏ bé, khiêm nhường mà đẹp đẽ, quý báu. Nhưng nhiều hạt bụi vàng hợp lại sẽ thành ánh vàng chói sáng. Đó là phẩm giá, là bản sắc truyền thống của người Hà Nội nghìn năm vân hiến.
Hạt bụi vàng là ẩn dụ nghệ thuật đặc sắc có ý nghĩa khái quát cao, thể hiện thái độ trân trọng và tự hào của tác giả đối với nhân vật của mình. Nguyễn Khải cô đúc toàn bộ phẩm chất tốt đẹp của nhân vật vào một hình ảnh giàu ý nghĩa tượng trưng : Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hay mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ảnh vàng! Nhân vật cô Hiền đã chiếm được thiện cảm của người đọc qua cách kể chuyện, miêu tả tự nhiên, linh hoạt và tinh tế của tác giả. Đọc tác phẩm, chúng ta hiểu thêm về tính cách thanh lịch, hào hoa của con người và lối sống Hà Nội, từ đó càng yêu mến, tự hào về Thủ đô – trái tim của Tổ quốc Việt Nam yêu dấu.