C. TẠI SAO CHÚNG TA BỊ TRÓI?
I/ DO SANH TÂM DÍNH MẮC.
Ở Bình Thuận, có anh chàng nọ đời sống khá vất vả. Mỗi sáng phải thức dậy từ 3 giờ để chuẩn bị đi bộ qua một quãng đường dài lấy bánh mì về bán cho kịp. Trên đường, anh ta đi ngang qua một cái am. Nghe người ta nói cái am này rất linh, cầu gì được nấy. Anh nghĩ, từ nhỏ đến lớn khổ cũng đã khổ rồi, vô đây cầu đại, may ra trúng được thì đỡ cho cuộc sống của mình. Anh chạy vào van vái thần linh chỉ cho tôi mua vé số, nếu trúng thì tôi phát nguyện sẽ cạo trọc đầu để đền ơn. Đúng là linh thiệt, hôm đó mua vé số cũng trúng, nhưng trúng giải bảy được có 5 ngàn đồng. Đã lỡ hứa cạo tóc rồi thì phải cạo, nhưng tiền cạo đầu tốn hết 7 ngàn, vậy là lỗ mất 2 ngàn. Như vậy, ai đã trói anh chàng kia phải bị mất tiền như vậy? Có ông thần linh nào trói không? Hoàn toàn không mà chính là do tâm dính mắc. Thấy cái gì vừa lòng thích ý thì dính mắc. Chính cái tâm dính mắc đó nó đã trói buộc lấy mình chứ không ai khác.
Thời đức Phật còn tại thế, mỗi buổi sáng Ngài thường quán xét xem ngày hôm nay ai là người có duyên được độ. Hôm ấy, quán thấy con của Trưởng giả Punda nhân duyên đã chín muồi, ngài bèn đi thẳng đến đó khất thực để tìm phương tiện hóa độ. Nhà này chưa hiểu Phật pháp, có một con chó khá đặc biệt. Hằng ngày ông Punda chăm sóc nó rất kỹ lưỡng. Nằm trên giường nệm rộng rãi, ăn uống sang trọng hơn cả người. Đặc biệt là nó giống hệt như người vậy. Hễ nói nặng là giận liền. Mỗi khi ai chọc giận thì không thèm nằm trên giường mà nó ra ở ngoài bụi. Mỗi khi có ai làm cho chú chó này giận như thế thì ông Punda tức lắm. Hôm đức Phật đến, anh Punda đi vắng, con chó trong nhà vồ ra dữ tợn. Đức Phật đưa tay ra nói: “Thôi thôi, đã nhiều đời bám chấp chịu khổ rồi, sao bây giờ còn tiếc nuối, bám chấp quá vậy?”. Nói xong, ngài ra về. Con chó buồn giận và ra bờ rào nằm đó. Khi Punda về thấy như vậy liền biết có ai đó đã chọc giận con chó mình. Hỏi những người chung quanh thì mới biết hồi sáng có Sa môn Cù Đàm đến nhà. Ông vô cùng tức giận chạy đến chỗ đức Phật lớn tiếng nói: “Ngài đã làm gì cho con chó của tôi giận?”. Đức Phật nói: “Con chó đó là cha của ông. Do tiếc của nên cha ông phải làm thân chó. Ta từ bi thương cha ông nên nói để ông giác ngộ mà thoát kiếp làm súc sanh.” Nghe xong ông Trưởng giả càng tức giận hơn: “Con chó đó sao lại là cha của tôi được?”. Đức Phật nói: “Ông hãy về hỏi nó ngày xưa cha ông đã chôn cất, giấu vàng ở chỗ nào, khi đó ông sẽ tin”. Ông Punda về hỏi như vậy thì con chó đi đến bốn góc giường lấy chân cào cào dưới đất. Ông Punda đào lên thì thấy đúng là có bốn hũ vàng cất giấu ở dưới. Sau đó, con chó cũng hóa kiếp.
Như vậy, cái gì đã buộc ông trưởng giả này phải làm con chó mà không làm người được. Có phải hũ vàng trói không? Nếu đưa hũ vàng này cho con nít thì nó đâu có biết gì, đâu có trói được con nít? Nếu nhà mình đang có hũ vàng mà ai đó bảo mình phải coi như hũ rác và ném bỏ đi thì quý vị chịu không? Rất khó! Thế là mình đã bị dính chặt rồi. Rõ ràng, chính vì cái tâm dính mắc này nên chúng ta bị trói cột. Như vậy, lý dođầu tiên là vì sanh tâm dính mắc cho nên chúng ta bị trói buộc.
Nhưng mà mình khổ đau đã quá nhiều rồi, sao bây giờ lại dại dột, tự nhiên sanh tâm dính mắc làm chi để phải bị trói buộc cho khổ vậy? Tại sao chúng ta lại bị dính mắc? Đó là câu hỏi để phăng tìm cái gốc của nó. Tìm cho bằng được cội nguồn thì mình mới gỡ ra được. Có thế chúng ta mới được nhẹ nhàng và thấy rõ ý nghĩa giải thoát một cách thực tế.
II/ VÌ LẦM CHẤP, CHO CÁC PHÁP LÀ THẬT CÓ.
Xưa kia có hai người bạn rất thân, cả hai đều làm quan, khá giả. Những người làm quan ngày xưa thường trong nhà họ trang trí rất cầu kỳ, treo cung kiếm đủ thứ. Nhân lúc rảnh rỗi, anh A mời anh B sang nhà để uống rượu thuốc, hàn huyên tâm sự. Vào bàn tiệc, anh A mời anh B nâng ly. Anh B nhấc ly rượu lên thì bỗng thấy sao lại có con rắn con nằm loằn ngoằn trong đó cho nên không dám uống, đặt ly rượu xuống và làm thinh. Anh A không hiểu nên cố ép anh B uống. Vì tôn trọng bạn nên anh B không thể chối từ, đành uống. Khi uống con rắn vào trong bụng rồi thì không yên. Nó cồn cào như có con rắn đang bò trong bụng vậy. Không chịu nổi, muốn ói ra cũng không ói được, cố nén cơn cồn cào cho hết buổi tiệc. Khi về đến nhà thì anh B ói nhào rồi lâm bệnh nằm liệt suốt cả tuần lễ. Anh A nghe phong phanh, hỏi ra mới biết sự thể là như vậy. Vì chuyện chưa rõ ràng và do nể nang nhau nên chưa ai nói với ai điều gì hết. Đợi cho người bạn lành bệnh hẳn, anh A mới mời sang nhà uống rượu thêm lần nữa. Vì nể lòng bạn nên cũng nhận lời. Khi sang, người bạn vẫn mời anh B ngồi đúng ngay vị trí cũ hôm trước, cũng đặt ly rượu đúng ngay chỗ đó rồi trò chuyện, ép uống. Anh B nâng ly rượu lên thì lại thấy con rắn bò ngoằn ngoèo trong đó y hệt như hôm trước. Lần này là giận thiệt! Anh B dằn mạnh ly rượu xuống nói: “Bạn bè sao lại chơi nhau như vậy? Anh có biết một tuần liền tôi nằm liệt không ăn uống được là vì con rắn trong ly rượu của anh không?”. Khi đó anh A cười, chỉ lên trần nhà thì trên đó có treo cây cung trang trí. Anh A dời ly rượu sang chỗ khác thì bên trong không có con rắn nào hết, mà để lại chỗ cũ thì có. Té ra đó chỉ là cái bóng của cây cung rọi vào trong ly rượu chứ không có con rắn nào trong đó cả. Khi đó anh B mới vỡ lẽ, thông cảm và cười. Hai người hiểu nhau vui vẻ.
Vậy thì, anh B bị bệnh nằm liệt suốt một tuần là từ đâu? Là tưởng có một con rắn thật nằm trong ly rượu nên bị bệnh. Và bây giờ hết bệnh là từ đâu? Chỉ là biết rõ không có một con rắn thật nào trong ly rượu cả, đó chỉ là cái bóng thôi, thế là bao nhiêu bệnh tình đều tan biến. Rất đơn giản! Ngỡ nó là có thật thì bị bệnh trầm kha, biết rõ nó không ra gì thì liền lành bệnh.
Vấn đề tu hành cũng tương tự như vậy. Khi thấy thân này có thật, suy nghĩ này là thật, mọi thứ chung quanh có thật thì lầm chấp đủ thứ, phiền não sanh tử, mọi thứ rối rắm đau khổ có ra. Chỉ cần thấy rõ nó là đồ giả, vốn không thật có thì mọi thứ rắc rối khổ đau kia tự nhiên tan biến. Chúng ta nghe Hòa thượnggiảng đã biết thân này là giả, tâm này huyễn giả, ngoại cảnh cũng giả. Đang ngồi đây tỉnh táo thì thấy cái gì cũng là giả hết. Nếu có việc gì tới thì mình cũng bình thường, an ổn, không có vấn đề gì quan trọng. Nhưng hôm nào rộn ràng, trong gia đình có việc phiền phức thì chúng ta lại không kịp nhớ nó là đồ giả, và bị trói buộc, sanh ra phiền phức đủ thứ. Vừa thất niệm, vừa quên, không tỉnh giác thì bị mọi thứ trói buộcliền.
Có lẽ ai cũng biết, thân này tồn tại tối đa khoảng hơn trăm tuổi rồi cũng ra đi; hoặc bị tai nạn bất thường thì cũng không còn nữa; hoặc đang có đây thì cũng chỉ là các bộ phận ráp lại với nhau thì tạm gọi là có thân vậy thôi, tìm một cái là mình cũng không thể được; nay còn mai mất, không có gì quan trọng hết. Nếu chiêm nghiệm cho thấu đáo thì sẽ thấy rõ thân này không có gì chắc thật. Nhưng do chúng ta không soi xét cho tường tận nên không dám nhìn nhận một sự thật như vậy. Nhiều lúc mình cũng thấy nó là đồ giả, nhưng nếu bị ai mạt sát quá thì cũng thấy bị tổn thương, như vậy là mình đã thầm thầm chấp cho nó là thật rồi.
Tâm mình cũng thế. Quý vị làm việc cả ngày mệt mỏi rồi, nhưng lên đây nghe nói chuyện vui quá nên tâm trạng mệt mỏi tan biến đâu mất. Ở nhà đang có tâm sự buồn, lên đây nghe quý thầy nói chuyện liền hoan hỷ, thỏa mái thì cái buồn cũng không còn nữa. Vừa mới buồn đó, bây giờ lại vui. Cứ như thế, một ngày nó thay đổi liên tục không biết bao nhiêu lần mà kể. Vậy thì tâm đó là một cái bóng đổi thay sanh diệt liên tục, không có một thể thật gọi là mình, nó vốn là huyễn hóa, không thật.
Tất cả cảnh vật, của cải sinh hoạt hằng ngày cũng vô thường sanh diệt, không có gì chắc thật, lâu bền cả. Ông bà ta có câu: “Một đời ta ba đời nó”. Mình sống một đời mà mọi thứ nó đã sanh diệt đổi thay tới ba lần rồi, đâu có gì bền chắc?
Sự thật của thân, tâm sanh diệt và hoàn cảnh, vật chất, đều huyễn hóa, giả tạm, nhưng chúng ta không dám thấy nó là giả, luôn chấp cho là có thật. Mà một khi thấy mọi thứ là thật thì sẽ bị mắc bệnh trầm kha giống như anh chàng ngỡ mình đã uống phải con rắn kia.
Cụ thể, khi thấy thân này là thật của tôi thì sẽ quan trọng về nó. Từ đó bất chấp mọi thứ để lo cho nó tốt lành, ai đụng đến nó thì mình không chịu. Tất cả mọi thứ cuống cuồng lo cho thân, những phản ứng khi người khác xúc phạm đến thân… sẽ tạo nên mọi thứ rắc rối, khổ đau, đều do bắt nguồn ban đầu chấp thân là thật. Tâm cũng thế, cho tôi nghĩ là đúng nên người khác làm khác đi là không chịu, buồn tủi, tức giận, tạo nghiệp, khổ đau. Mọi thứ bên ngoài cũng thế, nghĩ nó là thật thì tham chấp, bị nó trói buộc, đưa đến khổ đau rất nhiều khía cạnh khác nhau. Cho nên, nếu chúng ta cho tất cả là thật thì sẽ bị căn bệnh trầm kha cột trói, chịu khổ trong sanh tử triền miên. Còn nếu chúng ta nhìn các pháp đúng như thật của nó là đồ giả, huyễn hóa, tạm có giống như cái bóng thôi, không có gì quan trọng thì mọi chuyện sẽ ổn, ngay đó là lành bệnh. Rất đơn giản, chỉ cần chuyển một cái nhìn.
Do chúng ta chưa có một cái nhìn đúng, chưa chịu nhìn đúng một cách triệt để nên chưa dám chuyển, chưa dám khẳng khái để nói mọi thứ đều là đồ giả cho nên còn nhiều vướn kẹt, còn bệnh trầm kha. Nếu đã thấu triệt, nhìn rõ tất cả chỉ là đồ giả thì mọi chuyện sẽ trở nên đơn giản, bình thường. Khi gặp việc vừa lòng thích ý mình cũng không thấy có gì là quan trọng. Khi gặp chuyện trái ý nghịch lòng mà thấy thân mình là giả, không ra gì hết, không có cái tôi thật cho nên mình không thấy có gì là bị xúc phạm… Chỉ cần nhìn lại cho đúng thì mọi việc được giải quyết ổn thỏa.
D. CỞI TRÓI (GIẢI THOÁT) BẰNG CÁCH NÀO?
I/ THẤY RÕ CÁI TRÓI BUỘC KHÔNG THẬT.
Tứ tổ Đạo Tín lúc còn là một vị sa di mười bốn tuổi, vừa mới xuất gia. Một hôm, ngài hỏi vị thầy của mình là Tam tổ Tăng Xán:
- Xin Hòa thượng từ bi ban cho con pháp môn giải thoát.
Ngài Tăng Xán bảo:
- Ai trói buộc ngươi?
Ngài Đạo Tín coi lại, không thấy cái gì trói hết nên nói:
- Không ai trói buộc cả.
Ngài Tăng Xán bảo:
- Đã không trói buộc, đâu cần cầu giải thoát!
Khi đó Ngài Đạo Tín liền đại ngộ và nối vị tổ thứ tư.
Lâu nay chúng ta cảm giác có một cái gì đó không được thỏa mái như là mình đang bị trói buộc cho nên trong lòng lúc nào cũng cảm thấy phiền phức lắm chuyện. Sao mà tôi bị cuộc đời trói cột hoài, không có lúc nào cảm thấy thoải mái hết, thấy như đang có cái gì đó trói buộc mình khổ sở lắm vậy. Nhưng khi ngồi lại tỉnh táo để nhìn cho thật kỹ thì sẽ nhận ra, cái gọi là trói buộc đó, nó chỉ là một khái niệm, một cái thầm thầm tưởng rằng mình đang có một cái gì đó trói buộc trong này vậy thôi. Nếu nhìn lại cho rõ, xét cho cùng cái đó từ đâu mà có, nó có thiệt hay không, hiện nay nó đang ở đâu, thì tự nó sẽ mất tăm dạng, không có cái trói buộc nào thật cả. Nếu cứ để miên man thì sẽ có cái niệm thầm ngỡ là có một cái gì đó đang trói mình, đó là do cái mê triền miên của mình nó trói buộc mình trong khổ não. Nếu một phen phấn chấn tinh thần, ngồi trấn tĩnh cho mạnh, nhìn trở lại tâm mình thì sẽ nhận ra không thật có cái gì trói buộc mình cả, mọi thứ tự vắng bóng, nhưng tâm chúng ta vẫn sáng biết rõ ràng. Do vắng bặt mọi thứ mà vẫn sáng biết nên cái biết rõ ràng lúc đó không động. Chính cái rõ ràng sáng biết tất cả mà không động đó là tâm chânthật đang hiện tiền. Chỉ cần khéo nhận, sống ngay đó thì được an ổn giải thoát liền. Ban đầu thì có thể thấy hơi khó, nhưng nếu hằng ngày biết sống về như vậy thì lâu ngày tự nó sẽ có sức sống, năng lực giải thoáttự nó có ra.
II/ NHẬN CHÂN CÁI THẤY BIẾT CHÂN THẬT THÌ KHÔNG CÒN BỊ CÁI GIẢ TRÓI.
Khi quý vị đã nghe, đã đọc thì được biết rõ thân này là giả, tâm này là giả, vật chất là giả, rồi cái trói buộccũng giả luôn. Nhưng với người chưa bao giờ nghe được điều này thì họ khó để dám biết mọi thứ này là giả. Như vậy, khi chúng ta nhận biết mọi thứ là giả, đó là mình đã dùng trí mà thấy, đó là cái thấy biết trí tuệrồi. Đó là một mức.
Giờ sang mức thứ hai. Đến đây quý vị đã nhận ra, khi biết tất cả là giả thì đó là chúng ta đang thấy biết bằng trí tuệ, vượt qua mọi thứ rắc rối trong đời. Nhưng trên thực tế, khi gặp việc thì mình vẫn còn thầm chấp là thật, chưa qua nổi, vậy lỗi này là ở chỗ nào? Phải phăng cho tới cùng thì mới gỡ ra được.
Khi nghe quý Thầy nói mọi thứ là huyễn hóa, quý vị có suy nghĩ và hiểu được. Chính cái tâm suy nghĩ đó là tâm sanh diệt, chưa rời huyễn hóa. Dùng tâm huyễn hóa để nghe về huyễn hóa thì mình vẫn còn nằm trong huyễn hóa, chưa thoát ra được. Mà cái huyễn hóa không thể đối trị được huyễn hóa. Đó là lý do mà chúng ta còn bị mọi thứ huyễn hóa chi phối, chưa thoát ra được các khổ đau.
Thêm nữa, khi đang ngồi nghe quý Thầy nói chuyện, tất cả mọi thứ là giả đây thì quý vị có chú ý lắng nghe không? Có chú ý lắng nghe từng lời. Khi chú ý như vậy thì quý vị đã bỏ mất bản vị của chính mình mà theo lời nói này rồi. Đây chính là cái mê vẫn còn cho nên chưa thoát khỏi sự chi phối của vô thường huyễn hóa. Nghe nói mọi thứ đều giả là hay, nhưng chú tâm, phóng tâm ra để nghe theo lời thì đó là bỏ mất chính mình mà đi ra rồi. Tâm đó chưa lìa sanh diệt, còn nằm trong tướng động tịnh đối đãi cho nên nó vẫn còn là cái giả huyễn hóa, chưa chắc thật. Dùng cái giả để học cái giả thì làm sao thoát ra khỏi được? Đây là cái vi tếkhiến người học đạo dễ bị lầm. Rõ ràng lâu nay mình nghe nói mọi thứ đều là giả, nhưng dùng cái tâm giả để học về cái giả cho nên chưa thoát khỏi sự chi phối, khổ đau. Đây là do cái lỗi của người không khéo học đạo.
Bây giờ quý vị cũng nghe quý thầy nói chuyện như vậy, nhưng đừng để ý theo lời nói nữa mà trở lại bản vị, cái đang lặng biết của mình thì khi đó tánh ấy nó tự nghe, nhưng không động. Mới biết, khi không bỏ lời này, không chú tâm theo lời này, cũng không khởi tâm để mặc kệ thì tánh kia tự nghe một cách rõ ràng. Tánh này không động, vượt lên vô thường sanh diệt, chính tánh này mới tiêu dung mọi thứ, tự nó giải thoát, không còn khổ não. Lâu nay chúng ta cứ ngỡ là phải chú ý mới nghe, đâu ngờ không cần chú ý, không tán loạn cũng không cần khởi tâm phân biệt thì tánh kia tự nghe suốt khắp, không động. Còn khi chú ý lắng nghe là đánh mất nguyên ủy ban đầu chính mình, là rơi vào tình thức, cái nhìn có hạn lượng nhỏ hẹp. Cái đó không đủ lớn để đối phó với nổi khổ lớn sanh tử, không đủ lớn để tiêu dung những cái chi phốicủa cuộc đời này.
Thí dụ khi nhìn cái bình hoa này, nếu quý vị chú ý nhìn lên nó thì sẽ không thấy được sự hiện diện của cái ly này. Bây giờ đừng để ý đến bình hoa nữa, trả lại cái thấy biết ban đầu không động, lặng sáng mà nhìn thì sẽ thấy hết mọi thứ một cách rõ ràng, không động. Cái thấy biết lúc này không còn bị hạn cuộc ở bình hoa nữa mà thấy suốt hết tất cả, thấy bình hoa, cái ly, thấy quý thầy đưa tay… Vẫn ở bản vị của mình mà thấy biết suốt tất cả thì những cái này tuy có dao động, nhưng vẫn là không động chút nào. Mới hay ra, rõ ràngtánh giác kia tính chất của nó vốn tự không động, vốn tự giải thoát. Cuộc đời tuy chảy, các pháp tuy động, nhưng sống trở về tự tánh thì cái động đó vốn tự không còn động nữa mà sẽ trở nên sống động. Đây là chỗ giải thoát đặc biệt nhưng thực tế, cảm nhận được chứ không phải là chuyện xa vời. Sống với cái thấy biết chân thật đó thì chính nó mới có năng lực đủ lớn để chúng ta làm chủ được những cái sanh diệt trong cuộc đời, không còn bị sanh tử chi phối, trói buộc.
III/ CHỈ CHUYỂN CÁI NHÌN, KHÔNG HOẠI CÁC PHÁP THẾ GIAN MÀ BÀN THỰC TƯỚNG.
Khi đã biết tất cả đều là giả, không có gì quan trọng thì chúng ta không cần làm gì cả, có phải vậy không? Nếu vậy thì đức Phật đâu có thị hiện làm gì? Đức Phật là người thấy rất rõ sự giả tạm mong manh của kiếp người và chỉ cho chúng ta, nhưng tại sao ngài lại thị hiện vào trong cảnh giả làm gì?
Nếu ngài không thị hiện để chỉ bày thì chúng ta có biết được mọi thứ là giả không? Không thể, chúng sanhchỉ chấp mọi thứ là thật có cho nên các khổ điên đảo từ đó có ra. Từ trí tánh thanh tịnh, ngài thương chúng sanh cho nên từ bi, dùng nguyện lực thị hiện, đem đạo lý chỉ dạy để giải khổ chứ không phải ngài dính chấp, đi vào ta bà này rồi cho là cảnh giới của mình.
Ngài chỉ rõ cho chúng ta thấy thân vô thường, tâm vô thường, vạn vật vô thường, tất cả đều là giả tạm, huyễn hóa, vậy mình phải bỏ nó sao? Nếu bỏ thì mọi thứ xa rời mình rồi, làm sao sống? Còn nếu không bỏ thì nó trói cột mình, phải làm sao bây giờ? Đây là một điểm rất quan trọng đối với đời sống của mình.
Ví dụ trong nhà có một đứa nhỏ, quý vị đưa cho nó một chiếc vòng bằng vàng giả tuyệt đẹp. Nó rất thích thú và chơi say sưa với cái vòng vàng đó. Khi đang say sưa như thế, quý vị giựt lấy cái vòng vàng cất đi thì nó không chịu, ré lên khóc liền. Ngược lại, với mình là người lớn có cả một kho vàng thật rồi thì đối với vòng vàng giả kia có còn quan trọng nữa không? Giả sử có ai đó đặt cái vòng vàng giả trên bàn chơi. Hôm nào bị lấy mất thì cũng không thấy có gì tiếc cả. Do đã có cả kho vàng thật rồi thì chúng ta không quan tâmcái vòng vàng giả nữa, còn hay mất đều không thành vấn đề. Không quan tâm thì đâu có bị trói cột, đâu có gì khổ đau. Cùng một vòng vàng giả, nhưng với đứa con nít thì do không biết nó là đồ giả nên dính mắc cho nên khi bị mất đi thì nó sẽ rất đau khổ, khóc và đòi lại cho bằng được. Nhưng với người lớn thì đã có vàng thật, biết chiếc vòng giả kia là đồ không thật thì khi mất đi lại thấy bình thường. Như vậy, khổ đau là tại cái vòng vàng giả đó nó làm cho mình khổ hay tại mình? Nếu tại vòng vàng giả làm cho mọi người khổ thì lẽ ra người lớn cũng phải khổ vì nó. Đằng này nó có mất đi mình cũng thấy bình thường thì rõ ràng cái vòng vàng giả kia không lỗi, nó không có khả năng làm cho chúng ta khổ mà khổ là tại cái nhìn của chúng ta chưa đúng, đồ giả mà tưởng nó là thật mà thôi. Lỗi đã không phải tại cái vòng vàng giả kia, hay cụ thểhơn là nó không có khả năng làm cho chúng ta đau khổ thì không cần đợi đến khi vứt bỏ nó đi mới được giải thoát. Có thì để đó chơi cho vui thôi chứ không dính dáng gì, bởi chúng ta đã nhận biết nó là đồ giả, đã có một thùng vàng thật. Tương tự, đối với công việc làm ăn sinh hoạt hằng ngày cũng giống như vòng vàng giả kia vậy, mọi thứ không có lỗi. Tùy theo từng hoàn cảnh cho phép, chúng ta sống thì phải làm, phải ăn, không có gì lỗi cả, nhưng lỗi ở chỗ quên mất mình mà dính mắc, chấp trước cho nên bị mọi thứ trói buộc, khổ não có ra. Nếu chúng ta biết trả lại cái toàn thể đang sáng biết không động để làm tất cả thì mình vốn không động trong cảnh đời đang động, ngay đó sáng biết rõ ràng, không có gì lỗi, mọi khổ não tự nó tiêu dung.
Như vậy, tất cả chúng ta bị trói buộc không phải do cảnh mà chính là do tâm mình, chỉ tại chỗ mình quên hay là nhớ lại chính mình thôi. Quên giác, quên mình thì ngay đó liền bị mọi thứ chi phối, dính mắc, trói buộc, khổ đau. Nhớ lại thì liền trả lại bản thể ban đầu, không có gì trói buộc cả. Vậy thì đâu có cần phải bỏ công ăn việc làm hiện tại để tìm đến một phương trời xa xôi nào đó mới được giải thoát? Chỉ tại nơi mình thôi!
Thông thường quý vị đang ngồi đây thì dễ tỉnh lắm, nhưng vừa đứng lên bước ra ngoài để lái xe thì ngay cái khoảng quý vị vừa đứng dậy là bị bỏ quên chính mình liền. Ngay khi mình vừa đổi từ tư thế này sang tư thế khác thì chúng ta thường hay bất giác, vọng động nảy sinh ngay đó liền. Do chúng ta xem thườngcái khoảng đó cho nên phát sinh ra lắm chuyện. Chư Tổ nói: “Cái họa hoạn của con người nó núp ở chỗ không nơi chốn, không thấy được, nhưng nó sẽ xuất hiện ngay chỗ mình xem thường, khinh suất.” Quý vị đang ngồi đây thì có thấy sân gì đâu, tìm không ra cái sân nó nằm ở đâu cả. Nhưng nếu xem thường, không giác tỉnh, ai đụng một chút là sân đùng đùng liền, cho nên nói “nó sẽ phát ra ngay chỗ mình xem thường”. Vừa coi thường, xem nhẹ thì họa hoạn nó nhảy vô liền, mà giác trở lại thì nó mất dạng. Công phutu tập cũng vậy. Cụ thể, hằng ngày trước khi chuẩn bị đi làm, quý vị vẫn nhớ trả lại toàn thể biết không động là đúng. Bước lên xe, khoan hãy tính chuyện gì khác, xem coi lúc này đang nhớ hay quên? Trở lạisáng suốt trước thì bắt đầu cầm vô-lăng lái. Vô công việc cũng vậy, khoan hãy nói làm việc gì mà trước tiên cần coi là đang mất mình hay đang giác tỉnh rồi bắt đầu làm. Cho đến khi nào nhận ra rằng, cái nhớ lại mình đó là sinh mạng sống và mất mình chính là đi xuống trầm luân khổ đau, coi như mình bị chết, không được sống trong khoảng đó thì chúng ta mới cảm nhận được giá trị và quý sức giác tỉnh, mới thực hànhmột cách mạnh mẽ và có hiệu quả được. Sống như vậy một thời gian sau quý vị sẽ thấy tâm mình có thay đổi. Khi đang làm việc nhưng tâm mình vẫn tỉnh, vẫn sáng, vẫn làm chủ, thấy rõ mình đang làm chứ không phải quên mình theo việc. Ví dụ quý vị đang ngồi đánh máy, trước tiên chỉnh tư thế ngay ngắn tỉnh táo rồi làm thì mình vẫn đang làm mà sức giác tỉnh vẫn rõ ràng. Làm mọi việc với sự giác tỉnh như vậy thì có làm cả buổi cũng không mệt, luôn cảm thấy sảng khoái, vui vẻ bình thường. Nếu không giác tỉnh, vừa bỏ quênmình lao ra theo công việc thì bị cuốn theo dòng miên man của công việc. Một lát rời cái máy ra thì người mình sẽ mệt lã. Ban đầu thì tập như vậy, thời gian sau thuần thục rồi thì sức giác tự hiển hiện. Chúng tasống, làm việc cũng như ngày xưa, nhưng cảm thấy an ổn và hoan hỷ vô cùng, thấy rõ tất cả mọi việcmình đang làm mà không cần phải phân biệt gì nữa.
Hoặc khi tụng kinh cũng vậy. Khi đã thuộc kinh văn rồi thì chỉ cứ tụng bình thường, đừng duyên theo tiếng. Khi quý vị trả lại tánh toàn thể tự sáng biết thì không còn phân biệt nữa, nhưng thấy mình đang tụng kinh rõ ràng. Từng tiếng mõ, từng tiếng chuông, từng tiếng khánh, tiếng tụng kinh của cả trăm người một lúc chúng ta đồng thời nghe hết, nhưng không động, không nghe theo tiếng, chỉ thấy mình đang trong lặng, sáng biết, mọi thứ tự nó hiển hiện một cách rất rõ ràng. Tụng suốt một thời kinh như vậy mới cảm nhận được Phật pháp sâu mầu như thế nào. Lúc này mới thấy, chúng ta vốn tự sáng biết không động, tất cả những cái dao động chung quanh không ra ngoài quỹ đạo của tâm mình. Tâm sáng thì mọi chuyện tự yên, không động. Theo thời gian công phu, sống về, năng lực này tự lớn mạnh. Chính năng lực sống này sẽ tiêu dung tất cả, dòng xoáy sanh tử không thể chi phối đến được.
Một ví dụ rất gần, dễ thấy. Hôm nào làm việc, đến giờ về rồi mà công việc chưa giải quyết xong, người làm bên cạnh không giúp đỡ mà còn quấy rầy nhiều thứ, lo lắng cho ngày mai lên họp có thể bị kiểm điểm vì công việc giải quyết chưa chu đáo. Bước vào nhà thì thấy mọi thứ bừa bãi, lộn xộn, không gọn gàng, chưa kịp cất cái túi xách thì nghe con cháu đi qua vô ý đóng mạnh cửa cái “rầm”, chúng ta sẽ bực bội lên liền. Lý trí thì biết rằng chỉ là một sự sơ xuất nhỏ của cháu con thôi, không có gì đáng giận. Biết là như thế, nhưng không biết vì sao trong lòng nó tự sôi sục, cứ bực bực rất khó chịu. Cho thấy chúng ta đã mất tự chủ, bị hành động đóng cửa kia ngự trị, chiếm lĩnh, chi phối, mất quyền kiểm soát, khiến chúng ta không thể dừng lại được mà phải tức bực, khổ đau.
Hôm khác đi làm mọi chuyện trong công ty được hanh thông, làm việc vui vẻ không thấy mệt, lại được tiền thưởng, được cho về sớm. Về nhà thấy mọi thứ ngăn nắp, gọn gàng, con cháu bước ra chào hỏi quan tâmvui vẻ, đem khăn mặt cho mình lau, mang nước ra mời uống, ngồi xuống thấy thoải mái vô cùng. Khi đó, con cháu đi quan lỡ đóng cửa cái “rầm”, chúng ta cảm thấy bình thường như không có gì xảy ra cả. Khi ấy, hành động đóng cửa kia có mà như không, không hề hấn gì đối với mình.
Như vậy, cùng một hành động đóng cửa, nhưng khi mất mình, không làm chủ thì chúng ta bị nó quấy rối, mà ngay khi rối thì tâm bị yếu, tâm yếu thì dễ sanh bực bội, khổ đau, vậy là đã bị sanh tử chi phối, trói buộc. Cũng một hành động đó, nhưng nếu khi đó tâm chúng ta đang an, đang sáng, đang có sức sống mạnh mẽ thì thấy chuyện đó rất bình thường, có cũng như không, không có gì cho chúng ta phải khởi tâmsuy nghĩ nó là như thế nào cả. Ngay đó, không muốn giải thoát thì nó cũng đã tự giải thoát, không có gì ràng buộc.
Chỉ một tâm an nhờ vào hoàn cảnh bên ngoài thuận lợi mà đã có tác dụng như thế. Huống nữa đối với một tâm thể giác tỉnh, bất động, ngập tràn lạc an, năng lực ấy rất lớn sẽ khiến chúng ta bình thường trên mọi hoàn cảnh một cách rất tự nhiên, không thể nghĩ bàn nổi thì giá trị của nó lớn lao biết dường nào! Đóng cửa là một ví dụ cho tất cả các hoàn cảnh bên ngoài. Sự sống, cảnh duyên, số phận… nó có đến như thế nào đi nữa, chỉ cần một tâm giác tỉnh này đủ mạnh, chúng ta sẽ thấy mọi thứ trở nên bình thường, không có gì đáng khởi tâm, bàn luận.
Giả sử quý vị đang rất khát nước, gần như không còn chịu nổi. Tình cờ có ai đó cho mình một ly nước lã thì chúng ta rất ghiền, uống vào đến đâu thấm tận tâm can đến đấy, quá ngon. Hôm khác đi ăn tiệm, được mọi người đãi toàn những đồ uống thượng vị, đúng món mình thích, chúng ta đã ăn uống no nê. Ra đường gặp người bạn thân mời ly nước suối, nể lòng thì cũng uống, nhưng không thấy ngon, chỉ là bình thường, uống và không uống giống nhau. Như vậy, cùng là một ly nước suối, khi khát nước thì thấy rất ngon, ưa thích, là bị dính mắc, chi phối. Nhưng khi no rồi thì thấy bình thường, không có gì quan trọng, là không bị dính mắc, trói buộc, được giải thoát. Mọi thứ buồn vui, mừng giận, thương ghét, được mất, hơn thua… trong đời chỉ là một ly nước lã, nhưng do chúng ta còn đói với nước thượng vị chánh pháp, thiếu sức giác tỉnh nên khát thèm vị nước lã đó, bị những thứ tào lao trong đời nó chi phối, đưa đến mọi khổ đau. Nếu khéo tu tập, luôn giác tỉnh, sức giác tỉnh càng cao thì đó là chúng ta đang uống loại nước thượng vị được nhiều. Khi sức giác tỉnh đủ lớn, niềm lạc an trào dâng, nước thượng vị đã no đủ thì nước lã của mọi thứ ngũ dục sẽ không còn tác dụng với mình nữa. Không còn có niệm lấy hay bỏ mà tự nó vô tác dụng với chính mình, ngay đó là đã giải thoát chứ không phải tìm cầu giải thoát ở đâu khác. Tính chất, năng lực của bản tâm chân thật chính mình vốn tự nó có khả năng làm cho các pháp trần không còn đủ giá trị chi phốichúng ta nữa. Cho nên tu tập chỉ là nhận ra và sống về với bản tâm chân thật chính mình. Nếu quý vị giáctỉnh liên tục, nâng cái sức giác này càng cao thì ngũ dục sẽ bớt chi phối mình. Đến lúc năng lực giác này đủ lớn thì ngũ dục nó mới đầu hàng mình, nó hoàn toàn vô hiệu hóa, vô tác dụng thì chúng ta sống giữa cõi đời này chỉ là an lạc, không còn bị khổ đau nữa.
Tóm lại, tự tánh mình vốn đủ tính chất giải thoát, tức là nó sẵn là giải thoát rồi, chúng ta không cần loại bỏhay tìm một cái gì xa xôi bên ngoài nữa, chỉ là hằng ngày đừng theo cảnh, luôn giác tỉnh, sống về bằng giác tánh thanh tịnh chính mình. Sống như vậy lâu ngày thuần thục thì chúng ta sẽ cảm nhận được năng lực giác tỉnh của mình mạnh lên. Chính năng lực này cho chúng ta một sức sống làm chủ cuộc đời và được giải thoát chứ không phải gạt bỏ mọi thứ bên ngoài để đi tìm một sự giác ngộ giải thoát gì khác ngoài tâm mình. Không gạt bỏ nhưng cũng không có quyền lao theo. Cũng làm, cũng ăn nhưng đừng lao theo mọi thứ. Chỉ là luôn giác lại và sáng tỏ rõ ràng trên mọi công việc, lấy đó làm sức sống. Theo thời gian, sức giác tỉnh đủ lớn, chúng ta sẽ cảm nhận được năng lực vĩ đại của tâm, mọi tính chất an lạc giải thoát vốn tự tròn đủ.
Để rõ được tinh thần trói buộc và giải thoát, chúng ta cần xác định lại mấy điểm chính.
- Ai trói buộc mình?
- Chính mình trói buộc mình.
- Tại sao chúng ta bị trói?
- Do tâm dính mắc nên bị trói.
- Tại sao lại dính mắc?
- Do lầm chấp cho các pháp là thật, cho thân tâm sanh diệt là thật nên bị dính mắc.
- Và chúng ta thực sự giải thoát khi nào?
- Khi đã nhận ra bản tâm chân thật nơi chính mình.
Là những bậc đã chứng ngộ, sống trọn vẹn bằng bản tâm thì các tính chất an lạc giải thoát tự tròn đủ. Chúng ta là những người còn đang mày mò công phu thì không cách nào hơn là luôn sống về bằng tâm giác tỉnh chính mình. Không phải mơ tưởng về một cái gì đó xa xôi, hằng ngày chỉ sống trở lại ngay tánh thấy biết rõ ràng không động nơi chính mình, lâu ngày sẽ có nội lực. Tuy chưa được trọn vẹn như quý ngài đã chứng ngộ, nhưng ngay khi giác tỉnh sống về như thế là quý vị đang sống về với phần giác của mình. Chính những phần đó, quý vị sống mạnh mẽ theo thời gian thì tự nó sẽ có năng lực, khiến cho mọi thứ không đủ sức chi phối mình nữa. Lúc này, quý vị sẽ nếm được hương vị giải thoát rất thực tế, rõ ràng. Theo đó công phu, phần giác đủ lớn, trong thoáng bất chợt tình cờ, tự mình nhảy thót vào chân trời toàn giác một cách rất bất ngờ, tự nhiên, mọi tác dụng tự vẹn đủ, phát huy một cách sinh động, đạo cả rõ ràng, không có sự trói buộc nào phải tháo bỏ, không có phương trời giải thoát nào cần thoát ra, mới cảm nhận được sự sâu mầu của Phật pháp.
E. KẾT LUẬN.
Một hôm, Thiền sư Pháp Nhãn hỏi đại chúng:
- Cổ cọp mang lục lạc, người nào mở ra được?
Đại chúng không đáp được. Khi đó, ngài Pháp Đăng hiệu Thái Khâm vừa đi ngang qua, Thiền sư Pháp Nhãn hỏi, Sư liền nói:
- Người cột mở được.
Người nào đã dám gan trời leo lên cổ con cọp để cột cái lục lạc kia thì chính người đó mới đủ can đảm mở nó ra được. Và hiện nay ai trói buộc mình? – Tự mình trói buộc mình. Ai mở ra được? – Cũng là tự mình thôi. Vậy là quá dễ. Tự mình trói và cũng chính mình tự mở. Rõ ràng mình là người trọn quyền tự giải quyếtcho mình, khỏi phải ký kết hợp đồng nhờ ai cả. Quý thầy chỉ có thể nói cho quý vị nhận biết, còn phần mở ra, phần giải thoát là của mỗi người tự thực hành, quý thầy không thể làm thay được cho nên phần của quý thầy đến đây cũng hết.
Thích Tâm Hạnh (Thiền Viện Trúc Lâm Bạch Mã TT Huế)
---------
www.vnkienthuc.comwww.vnkienthuc.comwww.baoboi.vn
www.songohan.vnwww.muatet.vn
Diễn Đàn Lập Nghiệp