Hỏi Trói buộc từ đâu ?

Khi công tử A -Nậu- Lầu -Đà thưa với thân mẫu là cậu muốn xuất gia thì bà mẹ không ngạc nhiên nhưng rất lo lắng và buồn khổ. Không ngạc nhiên vì bà biết lâu nay hai người con trai của bà rất siêng năng tìm đến nơi Đức Phật thuyết pháp khi Ngài cùng tăng đoàn dừng chân tại thị trấn nơi họ cư ngụ. Chính bản thân bà, khi đến nghe Phật thuyết, bà cũng cảm thấy rung động vì những lời dạy từ bi, và dáng vẻ uy nghiêm, thanh thoát toát ra từ Đức Phật.

Phật cùng tăng đoàn đã rời vương quốc này, đi về hướng Câu -Tát-La mấy ngày nay rồi mà bà còn tưởng nhớ tới những lời Phật dạy. Nhưng bà chỉ có hai người con trai mà bà yêu quý nhất trên đời, nếu con bà xuất gia theo Phật, bà sẽ nương tựa vào đâu? Công tử A-Nậu-Lầu-Đà đã trấn an hiền mẫu là, nếu được theo Phật tu học cậu sẽ trở thành một người giác ngộ, một người giải thoát khỏi mọi phiễn não thế gian. Đó có phải là điều mà người mẹ nào cũng mong muốn cho con mình đạt được hay không? Tận đáy thâm tâm, người mẹ cũng biết như thế, nhưng chưa thoát ra khỏi tình yêu vị kỷ. Bà vớt vát bằng một điều kiện, là bà bằng lòng cho cậu xuất gia nếu cậu rủ được Tổng trấn Bạt-Đề cùng đi. Khi ra điều kiện đó, bà có nhiều hy vọng giữ được con, vì Tổng trấn Bạt-Đề - bạn thân thiết của con bà - là người giầu sang, quyền thế tột bực, làm sao có thể rũ bỏ tất cả để cùng con bà xuất gia theo Phật?

Ấy thế mà ba ngày sau công tử A-Nậu -Lầu -Đà về nhà, hớn hở nói với mẹ rằng Tổng trấn Bạt-Đề chỉ cần bẩy ngày để thu xếp công việc rồi sẽ cùng cậu xuất gia! Trên đường tìm đến nơi Phật đang thuyết giảng, họ rủ thêm được mấy người bạn nữa, cũng thuộc giòng dõi quý tộc và cùng trang lứa thanh xuân.

Chiếc xe tứ mã đưa nhóm người trẻ đi cầu đạo, rộn rã tiếng cười vui hòa cùng nhịp vó loóc coóc như nhạc đệm của bản trường ca ngân vang bất tận…..
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
phật pháp ứng dụng trong cuộc sống
Con người sinh ra và sống trong đời có ai là không từng mắc vào tội lỗi, trong đó, nếu mắc phải tội này, quả báo sẽ rất nặng nề, chính là bất hiếu.
Hãy cùng đọc câu chuyện dưới đây

Ở huyện bên có một thôn tên là Thượng Liễu, có một gia đình gồm hai vợ chồng chàng trai trẻ và mẹ già sống cùng nhau. Bởi vì bà lão đã già không làm được việc gì giúp hai vợ chồng người con trai, hơn nữa, bà lại thường xuyên đau ốm nên người con dâu cảm thấy rất bực bội trong lòng. Cô thường xuyên đối xử không tốt với bà, bà lão cũng biết rõ nhưng đều chịu đựng cho qua.

Vào ngày gia đình tổ chức lễ mừng thọ cho mẹ, người con trai mua một ít thịt heo về và bảo vợ làm sủi cảo cho mẹ ăn. Ai ngờ người con dâu vì oán giận mẹ chồng nên đã giấu miếng thịt heo đi, rồi lấy thứ khác thế vào trong bánh làm nhân để cho mẹ chồng ăn.
Bà cụ không hay biết gì nên khi ăn cứ nói mãi: “Nhân bánh dai thế, mẹ nhai không nổi!” Bởi vì răng lợi của bà cụ không còn được tốt nên ăn bánh mãi mà không nuốt được. Về sau sự thật bị bại lộ, rất nhiều người đều biết chuyện này. Ai cũng bàn luận về việc người con dâu này bất hiếu đến nhường nào.





ducphat3.jpg



Một hôm, người con dâu ra đồng làm cỏ, bỗng nhiên mây đen kéo đến đen kịt, sấm sét ầm ầm. Cô liền vội vàng cùng với một người phụ nữ khác cũng đang làm việc ngoài đồng chạy đến núp vào trong một lò gạch ở gần đó. Tuy nhiên, tiếng sấm sét cứ không ngừng nổ vang ngay trên đầu họ.



úc đó, người phụ nữ kia đứng tựa vào vách cửa, còn cô con dâu đứng ở bên trong. Sấm sét cứ như có mắt, không chịu rời khỏi họ. Hai người họ sợ đến hồn bay phách lạc.

Tiếng sét thứ nhất vang lên, đánh trúng ngay người phụ nữ đứng ở cửa, đẩy bà ấy ngã sang một bên nhưng chỉ là cổ bà bị thương nhẹ. Tiếng sét thứ hai lại đến, đánh trúng ngay vào người con dâu bất hiếu kia khiến cô ngã nhào xuống đất bất tỉnh.

Người con dâu ấy không chết ngay mà sống được thêm bảy ngày nữa. Nhưng chỉ có cặp mắt là cử động được, bảy ngày sau thì mất. Mọi người ở các nơi đều kéo đến xem, ai cũng bảo rằng đây là ông trời báo ứng.

Người xưa có câu: “Trong trăm cái thiện thì hiếu đứng đầu!” khuyên bảo chúng ta phải hiếu thảo với cha mẹ, với bề trên. Là phận làm con không chăm sóc cha mẹ khi về già đã là không tròn bổn phận, là bất hiếu và trời đất sẽ không dung tha.

Đức Phật có dạy rằng: “Từ vô lượng kiếp đến nay, chúng sanh lang thang trong nẻo luân hồi, bỏ thân này nhận thân khác, sinh đi sinh lại bao lần, sữa mẹ mà chúng ta đã uống còn nhiều hơn nước trong bốn biển”, rồi công ơn dưỡng dục của cha, đời này kiếp nay làm sao trả hết.

Chữ hiếu là nền tảng của đạo đức. Gia đình là nền tảng của xã hội. Trong gia đình chữ hiếu là nền tảng để xây dựng hạnh phúc, đem đến sự an vui, an lạc cho tất cả mọi người.

Con cái có hiếu với cha mẹ, ngoài việc mang lại niềm hạnh phúc chung trong gia đình, còn mang đến cho chính mình sự an lạc, bình an. Mỗi cá nhân, mỗi gia đình trong xã hội, mỗi công dân của một quốc gia có an lạc, bình an thì xã hội, quốc gia đó mới có an lạc bình an, và mỗi xã hội, mỗi quốc gia có an lạc bình an thì thế giới của chúng ta mới được an lạc, bình an.

Đức Phật đã đã đưa ra tiêu chuẩn đối với một người con được gọi là hiếu đạo thì phải hội đủ cả hai mặt sự và lý. Sự là hình thức báo đáp bên ngoài, là lo lắng, chăm nom phụng dưỡng cha mẹ khỏi mọi điều thiếu thốn về vật chất; luôn tôn trọng kính lễ cha mẹ và không được làm cho cha mẹ phiền lòng. Lý là chăm lo đời sống tâm linh cho cha mẹ. Hướng cha mẹ phát khởi thiện tâm, gieo tạo phước lành, tu theo chánh đạo; là làm sao cho cha mẹ hiểu rõ đường lành, tin sâu nhơn quả, thoát ngoài vòng mê tín, ra khỏi luân hồi nghiệp báo, đạt được an lạc giải thoát trong hiện tại và tương lai.

Còn đối với những người ngược đãi cha mẹ sẽ chịu quả báo, phúc báo có gây dựng bao nhiêu cũng mất hết, kiếp này không chịu hết thì sang đến tận kiếp sau. Hiếu thảo và bất hiếu đều không nằm ngoài phạm vi nhân quả.

“Cùng tột điều thiện không gì hơn hiếu
Cùng tột điều ác không gì hơn bất hiếu”.


Xem thêm các bài mới khác về phật pháp ứng dụng

Xem thêm các tin tức mới nhất tại trang thông tin trực tuyến : vnol.vn
 
phật pháp ứng dụng trong cuộc sống
Những sai lầm này nếu mắc phải sẽ làm mất hết công đức cuộc đời... gánh hậu quả rất nặng.
sai-lam01-2321.jpg
1. Phát tâm sân hận

Theo Phật giáo, lúc phiền não nghiêm trọng nhất là lúc sinh tâm sân hận. Tâm sân hận nổi lên thì hủy hoại cả trăm kiếp tích lũy thiện nghiệp. Tích lũy công đức từ những việc nhỏ, trải qua lâu dài mà chỉ vì một phút nóng nảy, thiếu kiên nhẫn là hủy diệt hết. Vừa giận lên là trăm ngàn nghiệp chướng kéo đến, thiêu đốt công đức.

2. Tự xưng là công đức

Cố ý khoe khoang với người khác về công đức của mình, khoe khoang việc tu hành của mình, tuyên truyền về điểm tốt của mình thì thiện nghiệp tiêu tán. Thiện từ tâm, chân tâm thì có thiện. Nếu hành thiện để khoe, để oai thì thiện ấy là gian dối, biến thành ác mất rồi.

3. Hối hận vì làm thiện

Làm thiện mà hối hận, ví như bố thí hay tiến tu công đức nhưng rồi lại tiếc tiền, nghĩ là lãng phí thì lại mất hết nghiệp. Thiện nghiệp chỉ được tích lũy khi bản thân tự nguyện làm, cảm thấy thoải mái khi làm, hiểu được mục đích ý nghĩa của việc mình làm mà thôi.

4. Hướng đi sai lầm

Nhiều người cho rằng, mình hành thiện để mong được hồi báo, đó là con đường sai lầm. Mong dựa vào thiện căn để trở nên mạnh mẽ, áp chế người khác, là sai trái. Lấy tham, sân, si là mục tiêu thì hướng đi không thể đúng đắn được. Bất cứ khi nào bản thân làm thiện vì cái “tôi” chứ không phải cái “tâm” đều sẽ phá hủy thiện nghiệp. Cuộc đời có nhân quả, dẫu trong ý nghĩ cũng có nhân quả, nên làm gì, nghĩ gì để sẽ nhận được điều tương ứng.

5. Tức giận, oán giận, cáu kỉnh

Đại sư Ấn Quang khuyên bảo: Người phụ nữ không hay tức giận thì con cháu sống thọ hơn. Phụ nữ thường xuyên tức giận cáu kỉnh, sinh con sẽ khó nuôi.

Phát giận là điều cứu không được. Tức giận chính là “lửa thiêu rừng công đức.” Chỉ một cơn lửa giận có thể thiêu cháy hết cả phúc đức. Người xưa thường khuyên rằng: Oán giận một lần đối với một người bình thường sẽ làm tiêu tan phúc đức tích lũy trong 100 kiếp. Oán giận một lần đối với cha mẹ, người lớn tuổi, người đại đức, sẽ làm tiêu tan phúc đức tích lũy trong 1000 kiếp. Oán giận cha mẹ hậu quả rõ ràng nhất là “phúc mỏng mệnh nông”.


6. Oán trời trách người, bàn lộng thị phi, ghen ghét người khác

Những điều này làm tổn hại đức khí và hòa khí của trời đất, tài vận sẽ bị hủy diệt. Nếu như không có của cải của tổ tiên che chở thì nhất định sẽ bần cùng, làm việc không thuận. Oán trời trách người một lần sẽ làm tiêu tan ba thiện. Đại sư Ấn Quang nói: “Người gặp nghịch cảnh mà không oán trời trách người thì nhất định sẽ có hậu phúc và con cháu thịnh vượng.”

Ghen ghét châm chọc, nói xấu người khác cái gì thì tương lai cũng sẽ phải chịu như thế.

7. Xung đột với cha mẹ, người bề trên

Chống đối, mâu thuẫn với cha mẹ là việc đứng đầu trong những việc làm “tổn phúc bại lộc.” Vô luận là cầu cái gì cũng đều không đạt được, ngàn vạn lần cầu cũng uổng công bởi vì tích phúc không có mà tổn phúc lại nhanh. Sự việc, nhân duyên, làm việc đều không thuận…Nếu như công việc không thuận lợi, cảm tình thống khổ lập tức hiếu thuận với cha mẹ, cha mẹ vui mừng thì hết thảy thiên nhân, quỷ thần đều sẽ đến bảo hộ. Người không chống đối, không có mâu thuẫn với cha mẹ thì công việc sẽ thuận lợi, có nhân duyên tốt đẹp. Nếu như từ nhỏ đã không có mâu thuẫn gì với cha mẹ thì cho dù xuất thân trong gia đình nghèo khó sau này lớn nên cũng có thể trờ thành người có sự nghiệp.

Người dùng tiền tài nuôi dưỡng cha mẹ, tương lai tất sẽ giàu có, khá giả. Hiếu thuận nhưng không dùng vật phẩm tiền tài nuôi dưỡng cha mẹ thì cho dù làm đại quan cũng sẽ thiếu hụt tài phú.

Nói xấu xuyên tạc bậc thánh hiền, đại đức, một câu làm tổn hại 100 thiện, làm hỏng hết huyết mạch phúc báo của gia đình.

Xem thêm các bài mới khác về phật pháp ứng dụng

Xem thêm các tin tức mới nhất tại trang thông tin trực tuyến : vnol.vn
 
TRÓI BUỘC VÀ GIẢI THOÁT

Thích Tâm Hạnh


A/ DẪN NHẬP.

Trải qua nhiều gian nan vất vả, lận đận lao đao khiến con người ta mất phương hướng sống, ngày càng thấy mình trở nên lạnh lẽo, cô đơn. Cuộc sống lẻ loi giữa trường đờinhư đang bị ngục tù vô hình của thế gian giam nhốt. Có vị Phật tử thấm thía những trắc trở cõi đời mình đã sống qua và viết nên thành thơ:

Hồn con lạnh buốt sương mù
Đêm đêm trở giấc ngục tù thế gian.


Sống giữa dòng đời với rất nhiều người, với bao nhiêu thứ bận rộn, nhưng không biết tại sao lại cảm thấytâm hồn mình quạnh quẽ, lẻ loi, dường như không thể có người hiểu mình để cùng san sẻ bớt phần nào cho nhau vậy. Đêm đêm trở giấc, thoạt thức giấc ngủ thì cảm thấy mình như bị giam nhốt trong ngục tù thế gian. Đó là tâm trạng của người làm thơ và có lẽ cũng là tâm trạng của nhiều người đang sống trong cuộc đời còn nhiều gian khổ. Khi thấy cuộc sống ngoài thế gian quá rộn ràng, mệt mỏi, ai cũng đang bị nhiều thứ chung quanh ràng buộc nên có người đã tìm đến chùa học đạo, tu tập để mong cởi bớt ra những thứ trói buộc kia, trong nhà Phật gọi là giải thoát. Gần là để giải thoát bớt những ràng buộc của thế gian, dần dần tu tập cao hơn thì được giải thoát rốt ráo. Giải thoát có nghĩa là cởi trói ra. Ví như tay mình đang bị cột gọi là bị trói buộc, và khi được mở ra thì gọi là giải thoát. Như vậy, khi muốn cầu giải thoát có nghĩa là chúng tađang bị trói buộc. Vậy ai trói mình? Tại sao mình bị trói? Chúng ta cùng phăng tìm ra manh mối cho tường tận, rõ ràng thì việc thực hành của mình mới có kết quả thiết thực. Vì vậy hôm nay trao đổi cùng quý vị đề tài “Trói buộc và giải thoát”.

B/ AI TRÓI BUỘC MÌNH?

Nhìn lại xem, có vị nào cảm thấy mình hoàn toàn không bị bất cứ một cái gì trói buộc không? Ai cũng bị trói hết. Vậy cái gì trói chúng ta? Đúng ra hôm nay tan sở, đi làm về là mình đã có chương trình riêng ở nhà rồi. Thình lình không biết từ đâu ông Thầy tới Chùa Hoa Nghiêm khiến mình phải lên đây. Ngồi nghe nói chuyện đây thì chắc quý vị cũng hoan hỷ, nhưng giả sử nhỡ ở nhà có chuyện chi đó gọi điện thoại lên thì trong lòng mình không dễ được yên tâm, ít nhất cũng có lo một chút. Ngay niệm lo lắng đó thì biết là mình đã bị cái nhà nó cột trói rồi. Nếu không bị nó cột thì đâu có gì phải lo âu? Cho đến các mối quan hệ chung quanh như vợ chồng, cha mẹ, anh em ràng rịt lẫn nhau. Thêm nữa, trong cuộc sống vì kế sinh nhai bắt buộc mình phải lo lắng. Cuối tháng lỡ không có tiền trả hóa đơn thì chúng ta đã lo lắng ăn không ngon ngủ không yên, từ đó bị nhiều thứ nó trói mình chằn chịt không tả nổi:

Ngược xuôi mấy dặm thương trường
Cuộc vui tao ngộ cuộc vương đọa đày.
Áo đời mấy lượt sờn vai,
Con còn đếm bước tháng ngày lao đao.


Thương trường là nơi làm ăn. Chúng ta đôn đáo chạy ngược chạy xuôi trong đó để tranh đấu kiếm tiền sinh sống. Bao nhiêu quan hệ, gặp gỡ… có khi tưởng chừng như vui, nhưng do mỗi người chưa làm chủ chính mình cho nên sẽ đến lúc vướng víu, rắc rối rồi phải vương khổ đọa đày. Lúc này mới biết mình đã bị trói buộc thì quá muộn, đã bị khổ rồi. Tỉnh táo một chút để nhìn lại thì thấy sự trói buộc nó đang diễn ra ngay từng sự tiếp xúc, từng quan niệm hằng ngày.

I/ ĐIỀU THUẬN TRÓI BUỘC.

1/ VẬT CHẤT TRÓI BUỘC.

Khi đi làm về trễ, thấy nhà cửa lộn xộn thì trong lòng không vui. Ngược lại, hôm nào về thấy nhà cửa sạch sẽ, con cái lịch sự dâng nước, lấy khăn cho mình lau mặt thì cảm thấy hài lòng, dễ chịu. Như vậy là đã bị dính mắc, trói buộc, mới thấy tâm mình rất vi tế. Chỉ cần có một niệm hài lòng, ngay đó đã bị nó trói cột rồi. Cho nên trong cuộc sống hằng ngày, khi vừa cảm thấy thích ý hay hài lòng về một cái gì đó thì coi chừng, ngay đó đã bị trói. Một khi bị trói rồi thì nó khiển đi đâu mình phải theo đấy, không làm chủ được.

2/ Ý TƯỞNG TRÓI BUỘC.

Ở một góc độ khác, trong cuộc sống, có nhiều người có vẻ như không màng tới vật chất, tiền bạc hay các quan hệ chung quanh mà họ chỉ sống theo một ý tưởng của riêng của họ. Người thích sống với lý tưởngnhư thế xem ra dường như không bị vật chất thế gian chi phối, thấy như là thanh thoát, nhưng chính họ có bị cái gì trói buộc không?

Thời xưa có anh chàng thư sinh khi học hết chữ của thầy rồi lên đường đi thi. Trên đường đi qua một dòng sông, gặp cô lái đò thì anh ta có ý chọc ghẹo. Cô lái đò nghiêm túc nói: “Tôi có một câu đối, nếu anh đối được thì tôi nguyện đi theo nâng khăn xách túi, còn không đối được thì xin trả tiền đò gấp đôi”. Anh thư sinh nghĩ, một người nghèo chèo đò bên sông thì có gì cao siêu, nên anh ta gật đầu chấp nhận. Cô lái đò ra câu đối:

Hỏa tại thạch trung, trầm tích thủy thiên niên bất tuyệt.

Có nghĩa là, lửa ở trong đá, nhấn chìm xuống dưới nước cả ngàn năm sau cũng không bao giờ mất. Khi cầm hai viên đá ma sát mạnh với nhau thì có lửa. Bây giờ chọi cục đá đó chìm xuống đáy biển một ngàn năm sau cầm lên ma sát thì vẫn có lửa, lửa đó vẫn không mất. Thấy cô gái có vẻ quê mùa mà đưa ra vế đối quá siêu xuất, chặt chẽ, anh thư sinh không thể nghĩ ra câu nào để đối lại. Buồn cho sở học bao lâu của mình không đủ để đối lại câu đối của một cô gái nhà quê. Sau khi trả tiền gấp đôi, anh ta đã nhảy xuống sông tự tử. Do không nghĩ ra được vế đối, ôm ấp nổi khắc khoải, buồn bã mà chết nên hóa thànhhồn ma bên bờ sông, đêm đêm hiện lên lầm nhầm đọc câu đối cô gái. Lần nọ, có vị Thiền sư hành cước đi ngang qua đây nghe mọi người kể câu chuyện như vậy nên đêm đó Ngài quyết định ở lại bên bờ sông. Đêm đến, hồn ma xuất hiện lầm nhầm câu đối:

Hỏa tại thạch trung, trầm tích thủy thiên niên bất tuyệt.

Liền khi ấy Thiền sư đối lại:

Nguyệt tại thiên không, chiếu nhân gian vạn cổ trường tồn.

Có nghĩa là, trăng ở trên trời, soi rọi thế gian không bao giờ mất. Nghe được câu đối xuất sắc, tương xứng, lòng thư sinh phấn khởi, liền được siêu thoát. Từ đó, mọi người quanh vùng không còn thấy bóng ma xuất hiện nữa.

Vậy thì ai đã trói cột anh chàng thư sinh đó không thoát được mà phải làm bóng ma bên bờ sông? Là một ý tưởng. Vì cho đó là một ý tưởng cao thượng, câu đối quá hay cho nên đã bị buộc vào đó, muốn đối lại cho bằng được. Không đối được thì buồn tức và chết, ôm theo ý tưởng đó để phải làm hồn ma không siêu thoát nỗi. Nhờ vị thiền sư nói cho một câu đối lại, thấy xứng ý, trong lòng thỏa mãn cho nên mới siêu thoát. Sự trói buộc ở đây không phải là vật chất mà là một lý tưởng. Và khi cái tâm tưởng đeo đuổi kia không còn nữa thì được giải thoát.

Nhìn lại, nhà cửa chúng ta cũng bị trói, quan hệ bạn bè mình cũng bị trói, vật chất mình cũng bị trói, có người không màng đến vật chất, sống theo lý tưởng cũng bị trói… Như vậy, chúng ta đang sống trong một cái vòng bị trói một cách chằng chịt. Hễ một điều gì chúng ta sanh tâm vừa lòng, thích ý thì liền bị trói. Đó là chúng ta đã thấy những cái vừa lòng thích ý nó trói mình, còn những điều trái ý nghịch lòng nó có trói chúng ta không?

II/ ĐIỀU NGHỊCH TRÓI BUỘC.

Xưa kia, vua A Dục là một người có công rất lớn đối với Phật giáo. Công việc lợi ích của ông đối với Phật pháp không thể kể hết. Một trong những công việc quan trọng là Vua đã tạo điều kiện và khuyến khích chư tăng ra ngoài nước Ấn Độ để hoằng hóa đạo, giảng dạy Phật pháp. Sau này, khi Phật giáo tại Ấn Độ gần như bị diệt vong thì chính những vị tăng này đã trở về phục hưng lại. Mới một khía cạnh như thế thôi đã thấy công lao của vua đối với Phật giáo quan trọng và lớn lao như thế nào. Thế mà khi lâm bệnh, vị quanhầu cận dâng bát cháo không đúng cách, làm trái ý mình nên vua nổi giận và băng hà. Do ôm lòng tức giận nên thần thức đã nhập vào con rắn độc nằm ngay khe cửa, chờ ông quan đó đi ngang qua cắn lại để trả thù cho hả dạ. Có một thầy Tỳ kheo trước đây là thái tử con vua A Dục đã chứng A la hán có thần thôngnên nhìn thấy, biết con rắn ở khe cửa đó chính là thần thức của cha mình. Vị Tỳ kheo này đến bên con rắn và nhắc lại những việc tốt lúc sinh tiền vua cha đã làm: “Bệ hạ còn nhớ không? Hằng ngày bệ hạ xây dựngrất nhiều trụ đá ở nhiều nơi trên thế giới để đánh dấu nơi Phật pháp được truyền đến cho mọi người biết. Bệ hạ đã khuyến khích những vị Tỳ kheo đi giáo hóa nước ngoài, bây giờ quay trở về phục hưng nên Phật giáo Ấn Độ mới còn tồn tại…”. Khi nghe kể như vậy thì thần thức vua nhớ lại những việc lành cả đời mình đã làm nên trong lòng phấn khởi, vui mừng, quên giận, thần thức thanh thoát. Con rắn đã tự nhịn ăn rồi chết, thần thức sanh lên cõi trời.

Cả đời làm lành, khi lâm chung lẽ ra phải sanh lên cõi lành. Nhưng vua A Dục thì thác sanh vào thân rắn. Vì sao như vậy? Ai đã buộc vua A Dục không sanh vào được cõi lành? Do một hành động trái ý nghịch lòng khiến vua nổi giận và bị trói buộc phải làm thân rắn độc hôi hám. Nghe qua chữ trói thấy như tầm thường, nhưng nó có thể khiến cho con người mấy chục ký này phải đi theo nó không thể cưỡng lại. Cứ nghĩ cả đời làm lành, lúc chết chắc chắn sẽ được sanh vào đường lành. Nhưng nếu quên tu, không có tỉnh lực, quen chìu theo lòng tham sân khiến nó trở thành sức mạnh. Khi sắp lâm chung, chỉ thoáng một việc trái ý nghịch lòng, sân tâm sôi sục trỗi dậy và đưa chúng ta đi vào các đường xấu ác, phải chịu rất nhiều đau khổ. May mắn cho vua A Dục có vị Tỳ kheo chứng A la hán cứu cho. Nếu không thì làm thân con rắn tạo nghiệp lộn đi lộn lại mãi trong đó để chịu khổ, biết khi nào mới thoát ra được! Mới thấy, những thứ nghịch ý trái lòng trói mình cũng không phải là ít.

Xưa kia về đời Đường dưới triều vua Ý tông, có ngài Ngộ Đạt Quốc sư pháp danh Tri Huyền. Khi chưa làm quốc sư, tình cờ ngài gặp một vị tăng nhân bị bệnh cùi, ai cũng gớm, chỉ có Ngài Tri Huyền luôn gần gũi chăm sóc, chưa có một vẻ nhờm gớm bao giờ. Vì vậy khi chia tay, vị tăng cảm cái nghĩa đó nên nói: “Sau này Ngài sẽ bị nạn, nếu cần thì tìm nhau tại núi Trà Lũng, huyện Bành Thành thuộc đất Tây Thục, nơi có hai cây tùng làm dấu”. Theo thời gian, ngài Ngộ Đạt lớn dần lên và rất tài giỏi, được vua mời làm quốc sư. Vua rất kính trọng nên ban cho ngài tòa ngồi làm bằng trầm hương. Bước lên tòa, ngài Ngộ Đạt phấn khởi sanh tâm hãnh diện về chỗ ngồi của mình thì tự nhiên đầu gối ngài nổi lên một cái mụt ghẻ mặt người hành hạ đau đớn dữ dội. Các danh y được vua mời đến nhưng đều bó tay, không có cách gì trị được. Hằng ngày phải đút thịt cho nó ăn thì mới đỡ bớt đau nhứt. Ngài nhớ lại và tin lời hẹn trước nên tìm đến chỗ hai cây tùng. Đến nơi thì trời cũng vừa sụp tối, vị tăng ngày trước đã đợi sẵn, bước ra chào và bảo rằng: “Không cần kể gì cả, ta biết hết mọi chuyện rồi. Vào đây nghỉ, sáng mai xuống dưới núi có dòng suối, lấy nước từ bi tam muội rửa sạch vết thương thì sẽ hết”. Sáng hôm sau, vị tăng sai chú tiểu đồng dẫn xuống suối. Khi Ngài Ngộ Đạt vừa toan lấy tay vốc nước để rửa thì cái mụt ghẻ mặt người nói: “Khoan rửa đã! Ngài là người học nhiều hiểu rộng, vậy ngài đã đọc chuyện Viên Án và Triệu Thố trong Tây Hán chưa?” Ngài nói: “Đọc rồi”. Mụt ghẻ nói: “Đọc rồi mà ngài không biết sao? Viên Án chính là Ngài và Triệu Thố chính là tôi đây. (Viên Án làm quan chém oan Triệu Thố). Triệu Thố bị chém ngang lưng tại chợ phía đông, oan ức đến mức nào. Tôi mười đời đi theo tìm cách báo hại, nhưng do mười đời Ngài là vị cao tăngđạo cao đức trọng, tu hành nghiêm chỉnh nên tôi không thể báo được. Ngày hôm nay, nhân khi ngồi lên tòa trầm hương, ngài vừa khởi tâm cao ngạo, ngã mạn thì cái đức có phần thương tổn cho nên tôi mới có cơ hội để báo lại Ngài. Hôm nay, mọi chuyện đã rõ, ngài nguyện tu hành tôi cũng nguyện tu hành, xin lấy nước từ bi tam muội để rửa sạch oan khiên nhiều đời. Từ nay trở đi, tôi không còn oán hại Ngài nữa”. Nghe xong, ngài Ngộ Đạt bàng hoàng vốc nước lên rửa, đau đến tận xương, ngất đi hồi lâu mới tỉnh, nhìn lại thì mụt ghẻ không còn. Định lên cảm tạ vị tăng, nhưng nhìn lại thì cảnh và người đều không còn nữa. Hỏi chú đồng tử mới biết vị tăng đó chính là Tôn giả Ca Nặc Ca, một vị Thánh tăng. Nói xong thì đồng tử cũng biến mất.

Như vậy, ai đã buộc ông Triệu Thố mười đời phải đi theo ngài Ngộ Đạt mà không thoát được? Đó là niệm phẫn uất, tức giận, là cái nghĩ cho rằng quan Viên Án làm mình oan ức quá, phải đi theo trả thù cho bằng được mới hả dạ. Chúng ta vẫn thường nghe những người khi sân hận nói: “Chọc vậy mà không giận sao được? Tôi phải trả thù cho hả dạ”. Nghe qua thì như là có lý, nhưng đó là đã theo cái sân hận và bị nó trói cột mình rồi. Một người bị cột như vậy và người khác không thèm chấp, không vướn bận thì ai sướng hơn? Gặp cảnh oan ức chúng ta nổi sân có khi thấy như là hợp lý, nhưng ôm lòng sân này lâu ngày thành thói quen, nuôi lớn nó để rồi chúng ta phải bị nó trói cột, chịu khổ đau, thật là oan uổng cho mình. Nếu cứ để tâm tưởng mình lờ mờ trôi qua thì khó nhận ra tai hại của lòng sân, nhưng khi ngồi lại soi xét cho thật kỹ thì mới thấy giựt mình.

III/ TỰ MÌNH TRÓI BUỘC MÌNH.

Khi gặp cảnh trái lòng, chúng ta vừa sanh tâm là bị trói buộc. Trong đời, cảnh trái ý nghịch lòng đó nó có quyền đến với bất cứ người nào, nhưng nếu chúng ta vừa sanh tâm tức tối, dính mắc thì liền bị trói. Nếu việc đáng giận mà mình không giận thì không ai trói mình được hết. Như vậy cái tâm oán hận đó nó nằm ở nơi chính mình, do mình. Ra chợ, thấy giỏ hoa đẹp, thích quá và bị trói. Cũng là do mình, nơi mình. Không có giỏ hoa nào tự nói tôi đẹp lắm, cô mua về để chưng cả, mà do mình khởi tâm dính mắc cho nên mới bị trói buộc. Mọi thứ có quyền đến với mình bất cứ lúc nào, nhưng nếu không để ý thì đâu có gì trói buộcđược! Như vậy, cái tâm oán hận cũng từ nơi mình, cái tâm ưa thích dính mắc cũng từ nơi mình. Cuối cùng, không ai khác mà chính mình tự trói buộc mình. Nhưng lâu nay con người chúng ta ít có ai chịu chấp nhận sự thật này mà luôn tìm cách đổ thừa cho một người hay hoàn cảnh nào đó. Tại anh đó làm tôi giận chứ tôi đâu có đến nỗi tệ. Có người khuyên, thôi, mình tu thì phải nhịn bớt, liền đáp: “Anh nghĩ coi, cũng vừa phải thôi chứ nhịn quá mức ai mà chịu nổi?” Do chưa biết sự nguy hiểm của cái giận nên mới thấy giận là phải. Nếu đã ý thức được sự tai hại của nó thì chúng ta sẽ không bao giờ dám sân giận. Người xưa nói: “Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai”, một niệm sân vừa dấy khởi thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng mở ra. Hoặc là “Một đốm lửa sân, thiêu rụi cả rừng công đức”. Trường hợp của vua A Dụclà một bài học cho mình. Chỉ một chút sân tâm thôi mà đã trói cột mình đi làm rắn độc hôi hám, tạo nghiệp đọa lạc và phải chịu khổ mãi biết khi nào mới thoát ra? Nghiệm lại để thấy cho tường tận thì mới sợ cho cái tâm sân giận của mình, mới thoát ly được.

Như vậy, việc mình tự trói mình quý vị thấy đã có lý. Nhưng xét lại cũng thấy rất là vô lý, tại sao mình lại trói mình? Trên đời này có ai muốn mình bị trói không? Không hề. Vậy thì tại sao mình lại đi trói buộc lấy mình? Phải phăng tận gốc rễ để giải quyết cái vô lý này chứ không thể chấp nhận như vậy được.

--------
www.vnkienthuc.com www.vnkienthuc.com www.baoboi.vn
www.songohan.vn www.muatet.vn
Diễn Đàn Lập Nghiệp
 
C. TẠI SAO CHÚNG TA BỊ TRÓI?

I/ DO SANH TÂM DÍNH MẮC.

Ở Bình Thuận, có anh chàng nọ đời sống khá vất vả. Mỗi sáng phải thức dậy từ 3 giờ để chuẩn bị đi bộ qua một quãng đường dài lấy bánh mì về bán cho kịp. Trên đường, anh ta đi ngang qua một cái am. Nghe người ta nói cái am này rất linh, cầu gì được nấy. Anh nghĩ, từ nhỏ đến lớn khổ cũng đã khổ rồi, vô đây cầu đại, may ra trúng được thì đỡ cho cuộc sống của mình. Anh chạy vào van vái thần linh chỉ cho tôi mua vé số, nếu trúng thì tôi phát nguyện sẽ cạo trọc đầu để đền ơn. Đúng là linh thiệt, hôm đó mua vé số cũng trúng, nhưng trúng giải bảy được có 5 ngàn đồng. Đã lỡ hứa cạo tóc rồi thì phải cạo, nhưng tiền cạo đầu tốn hết 7 ngàn, vậy là lỗ mất 2 ngàn. Như vậy, ai đã trói anh chàng kia phải bị mất tiền như vậy? Có ông thần linh nào trói không? Hoàn toàn không mà chính là do tâm dính mắc. Thấy cái gì vừa lòng thích ý thì dính mắc. Chính cái tâm dính mắc đó nó đã trói buộc lấy mình chứ không ai khác.

Thời đức Phật còn tại thế, mỗi buổi sáng Ngài thường quán xét xem ngày hôm nay ai là người có duyên được độ. Hôm ấy, quán thấy con của Trưởng giả Punda nhân duyên đã chín muồi, ngài bèn đi thẳng đến đó khất thực để tìm phương tiện hóa độ. Nhà này chưa hiểu Phật pháp, có một con chó khá đặc biệt. Hằng ngày ông Punda chăm sóc nó rất kỹ lưỡng. Nằm trên giường nệm rộng rãi, ăn uống sang trọng hơn cả người. Đặc biệt là nó giống hệt như người vậy. Hễ nói nặng là giận liền. Mỗi khi ai chọc giận thì không thèm nằm trên giường mà nó ra ở ngoài bụi. Mỗi khi có ai làm cho chú chó này giận như thế thì ông Punda tức lắm. Hôm đức Phật đến, anh Punda đi vắng, con chó trong nhà vồ ra dữ tợn. Đức Phật đưa tay ra nói: “Thôi thôi, đã nhiều đời bám chấp chịu khổ rồi, sao bây giờ còn tiếc nuối, bám chấp quá vậy?”. Nói xong, ngài ra về. Con chó buồn giận và ra bờ rào nằm đó. Khi Punda về thấy như vậy liền biết có ai đó đã chọc giận con chó mình. Hỏi những người chung quanh thì mới biết hồi sáng có Sa môn Cù Đàm đến nhà. Ông vô cùng tức giận chạy đến chỗ đức Phật lớn tiếng nói: “Ngài đã làm gì cho con chó của tôi giận?”. Đức Phật nói: “Con chó đó là cha của ông. Do tiếc của nên cha ông phải làm thân chó. Ta từ bi thương cha ông nên nói để ông giác ngộ mà thoát kiếp làm súc sanh.” Nghe xong ông Trưởng giả càng tức giận hơn: “Con chó đó sao lại là cha của tôi được?”. Đức Phật nói: “Ông hãy về hỏi nó ngày xưa cha ông đã chôn cất, giấu vàng ở chỗ nào, khi đó ông sẽ tin”. Ông Punda về hỏi như vậy thì con chó đi đến bốn góc giường lấy chân cào cào dưới đất. Ông Punda đào lên thì thấy đúng là có bốn hũ vàng cất giấu ở dưới. Sau đó, con chó cũng hóa kiếp.

Như vậy, cái gì đã buộc ông trưởng giả này phải làm con chó mà không làm người được. Có phải hũ vàng trói không? Nếu đưa hũ vàng này cho con nít thì nó đâu có biết gì, đâu có trói được con nít? Nếu nhà mình đang có hũ vàng mà ai đó bảo mình phải coi như hũ rác và ném bỏ đi thì quý vị chịu không? Rất khó! Thế là mình đã bị dính chặt rồi. Rõ ràng, chính vì cái tâm dính mắc này nên chúng ta bị trói cột. Như vậy, lý dođầu tiên là vì sanh tâm dính mắc cho nên chúng ta bị trói buộc.

Nhưng mà mình khổ đau đã quá nhiều rồi, sao bây giờ lại dại dột, tự nhiên sanh tâm dính mắc làm chi để phải bị trói buộc cho khổ vậy? Tại sao chúng ta lại bị dính mắc? Đó là câu hỏi để phăng tìm cái gốc của nó. Tìm cho bằng được cội nguồn thì mình mới gỡ ra được. Có thế chúng ta mới được nhẹ nhàng và thấy rõ ý nghĩa giải thoát một cách thực tế.

II/ VÌ LẦM CHẤP, CHO CÁC PHÁP LÀ THẬT CÓ.

Xưa kia có hai người bạn rất thân, cả hai đều làm quan, khá giả. Những người làm quan ngày xưa thường trong nhà họ trang trí rất cầu kỳ, treo cung kiếm đủ thứ. Nhân lúc rảnh rỗi, anh A mời anh B sang nhà để uống rượu thuốc, hàn huyên tâm sự. Vào bàn tiệc, anh A mời anh B nâng ly. Anh B nhấc ly rượu lên thì bỗng thấy sao lại có con rắn con nằm loằn ngoằn trong đó cho nên không dám uống, đặt ly rượu xuống và làm thinh. Anh A không hiểu nên cố ép anh B uống. Vì tôn trọng bạn nên anh B không thể chối từ, đành uống. Khi uống con rắn vào trong bụng rồi thì không yên. Nó cồn cào như có con rắn đang bò trong bụng vậy. Không chịu nổi, muốn ói ra cũng không ói được, cố nén cơn cồn cào cho hết buổi tiệc. Khi về đến nhà thì anh B ói nhào rồi lâm bệnh nằm liệt suốt cả tuần lễ. Anh A nghe phong phanh, hỏi ra mới biết sự thể là như vậy. Vì chuyện chưa rõ ràng và do nể nang nhau nên chưa ai nói với ai điều gì hết. Đợi cho người bạn lành bệnh hẳn, anh A mới mời sang nhà uống rượu thêm lần nữa. Vì nể lòng bạn nên cũng nhận lời. Khi sang, người bạn vẫn mời anh B ngồi đúng ngay vị trí cũ hôm trước, cũng đặt ly rượu đúng ngay chỗ đó rồi trò chuyện, ép uống. Anh B nâng ly rượu lên thì lại thấy con rắn bò ngoằn ngoèo trong đó y hệt như hôm trước. Lần này là giận thiệt! Anh B dằn mạnh ly rượu xuống nói: “Bạn bè sao lại chơi nhau như vậy? Anh có biết một tuần liền tôi nằm liệt không ăn uống được là vì con rắn trong ly rượu của anh không?”. Khi đó anh A cười, chỉ lên trần nhà thì trên đó có treo cây cung trang trí. Anh A dời ly rượu sang chỗ khác thì bên trong không có con rắn nào hết, mà để lại chỗ cũ thì có. Té ra đó chỉ là cái bóng của cây cung rọi vào trong ly rượu chứ không có con rắn nào trong đó cả. Khi đó anh B mới vỡ lẽ, thông cảm và cười. Hai người hiểu nhau vui vẻ.

Vậy thì, anh B bị bệnh nằm liệt suốt một tuần là từ đâu? Là tưởng có một con rắn thật nằm trong ly rượu nên bị bệnh. Và bây giờ hết bệnh là từ đâu? Chỉ là biết rõ không có một con rắn thật nào trong ly rượu cả, đó chỉ là cái bóng thôi, thế là bao nhiêu bệnh tình đều tan biến. Rất đơn giản! Ngỡ nó là có thật thì bị bệnh trầm kha, biết rõ nó không ra gì thì liền lành bệnh.

Vấn đề tu hành cũng tương tự như vậy. Khi thấy thân này có thật, suy nghĩ này là thật, mọi thứ chung quanh có thật thì lầm chấp đủ thứ, phiền não sanh tử, mọi thứ rối rắm đau khổ có ra. Chỉ cần thấy rõ nó là đồ giả, vốn không thật có thì mọi thứ rắc rối khổ đau kia tự nhiên tan biến. Chúng ta nghe Hòa thượnggiảng đã biết thân này là giả, tâm này huyễn giả, ngoại cảnh cũng giả. Đang ngồi đây tỉnh táo thì thấy cái gì cũng là giả hết. Nếu có việc gì tới thì mình cũng bình thường, an ổn, không có vấn đề gì quan trọng. Nhưng hôm nào rộn ràng, trong gia đình có việc phiền phức thì chúng ta lại không kịp nhớ nó là đồ giả, và bị trói buộc, sanh ra phiền phức đủ thứ. Vừa thất niệm, vừa quên, không tỉnh giác thì bị mọi thứ trói buộcliền.

Có lẽ ai cũng biết, thân này tồn tại tối đa khoảng hơn trăm tuổi rồi cũng ra đi; hoặc bị tai nạn bất thường thì cũng không còn nữa; hoặc đang có đây thì cũng chỉ là các bộ phận ráp lại với nhau thì tạm gọi là có thân vậy thôi, tìm một cái là mình cũng không thể được; nay còn mai mất, không có gì quan trọng hết. Nếu chiêm nghiệm cho thấu đáo thì sẽ thấy rõ thân này không có gì chắc thật. Nhưng do chúng ta không soi xét cho tường tận nên không dám nhìn nhận một sự thật như vậy. Nhiều lúc mình cũng thấy nó là đồ giả, nhưng nếu bị ai mạt sát quá thì cũng thấy bị tổn thương, như vậy là mình đã thầm thầm chấp cho nó là thật rồi.

Tâm mình cũng thế. Quý vị làm việc cả ngày mệt mỏi rồi, nhưng lên đây nghe nói chuyện vui quá nên tâm trạng mệt mỏi tan biến đâu mất. Ở nhà đang có tâm sự buồn, lên đây nghe quý thầy nói chuyện liền hoan hỷ, thỏa mái thì cái buồn cũng không còn nữa. Vừa mới buồn đó, bây giờ lại vui. Cứ như thế, một ngày nó thay đổi liên tục không biết bao nhiêu lần mà kể. Vậy thì tâm đó là một cái bóng đổi thay sanh diệt liên tục, không có một thể thật gọi là mình, nó vốn là huyễn hóa, không thật.

Tất cả cảnh vật, của cải sinh hoạt hằng ngày cũng vô thường sanh diệt, không có gì chắc thật, lâu bền cả. Ông bà ta có câu: “Một đời ta ba đời nó”. Mình sống một đời mà mọi thứ nó đã sanh diệt đổi thay tới ba lần rồi, đâu có gì bền chắc?

Sự thật của thân, tâm sanh diệt và hoàn cảnh, vật chất, đều huyễn hóa, giả tạm, nhưng chúng ta không dám thấy nó là giả, luôn chấp cho là có thật. Mà một khi thấy mọi thứ là thật thì sẽ bị mắc bệnh trầm kha giống như anh chàng ngỡ mình đã uống phải con rắn kia.

Cụ thể, khi thấy thân này là thật của tôi thì sẽ quan trọng về nó. Từ đó bất chấp mọi thứ để lo cho nó tốt lành, ai đụng đến nó thì mình không chịu. Tất cả mọi thứ cuống cuồng lo cho thân, những phản ứng khi người khác xúc phạm đến thân… sẽ tạo nên mọi thứ rắc rối, khổ đau, đều do bắt nguồn ban đầu chấp thân là thật. Tâm cũng thế, cho tôi nghĩ là đúng nên người khác làm khác đi là không chịu, buồn tủi, tức giận, tạo nghiệp, khổ đau. Mọi thứ bên ngoài cũng thế, nghĩ nó là thật thì tham chấp, bị nó trói buộc, đưa đến khổ đau rất nhiều khía cạnh khác nhau. Cho nên, nếu chúng ta cho tất cả là thật thì sẽ bị căn bệnh trầm kha cột trói, chịu khổ trong sanh tử triền miên. Còn nếu chúng ta nhìn các pháp đúng như thật của nó là đồ giả, huyễn hóa, tạm có giống như cái bóng thôi, không có gì quan trọng thì mọi chuyện sẽ ổn, ngay đó là lành bệnh. Rất đơn giản, chỉ cần chuyển một cái nhìn.

Do chúng ta chưa có một cái nhìn đúng, chưa chịu nhìn đúng một cách triệt để nên chưa dám chuyển, chưa dám khẳng khái để nói mọi thứ đều là đồ giả cho nên còn nhiều vướn kẹt, còn bệnh trầm kha. Nếu đã thấu triệt, nhìn rõ tất cả chỉ là đồ giả thì mọi chuyện sẽ trở nên đơn giản, bình thường. Khi gặp việc vừa lòng thích ý mình cũng không thấy có gì là quan trọng. Khi gặp chuyện trái ý nghịch lòng mà thấy thân mình là giả, không ra gì hết, không có cái tôi thật cho nên mình không thấy có gì là bị xúc phạm… Chỉ cần nhìn lại cho đúng thì mọi việc được giải quyết ổn thỏa.

D. CỞI TRÓI (GIẢI THOÁT) BẰNG CÁCH NÀO?

I/ THẤY RÕ CÁI TRÓI BUỘC KHÔNG THẬT.

Tứ tổ Đạo Tín lúc còn là một vị sa di mười bốn tuổi, vừa mới xuất gia. Một hôm, ngài hỏi vị thầy của mình là Tam tổ Tăng Xán:

- Xin Hòa thượng từ bi ban cho con pháp môn giải thoát.

Ngài Tăng Xán bảo:

- Ai trói buộc ngươi?

Ngài Đạo Tín coi lại, không thấy cái gì trói hết nên nói:

- Không ai trói buộc cả.

Ngài Tăng Xán bảo:

- Đã không trói buộc, đâu cần cầu giải thoát!

Khi đó Ngài Đạo Tín liền đại ngộ và nối vị tổ thứ tư.

Lâu nay chúng ta cảm giác có một cái gì đó không được thỏa mái như là mình đang bị trói buộc cho nên trong lòng lúc nào cũng cảm thấy phiền phức lắm chuyện. Sao mà tôi bị cuộc đời trói cột hoài, không có lúc nào cảm thấy thoải mái hết, thấy như đang có cái gì đó trói buộc mình khổ sở lắm vậy. Nhưng khi ngồi lại tỉnh táo để nhìn cho thật kỹ thì sẽ nhận ra, cái gọi là trói buộc đó, nó chỉ là một khái niệm, một cái thầm thầm tưởng rằng mình đang có một cái gì đó trói buộc trong này vậy thôi. Nếu nhìn lại cho rõ, xét cho cùng cái đó từ đâu mà có, nó có thiệt hay không, hiện nay nó đang ở đâu, thì tự nó sẽ mất tăm dạng, không có cái trói buộc nào thật cả. Nếu cứ để miên man thì sẽ có cái niệm thầm ngỡ là có một cái gì đó đang trói mình, đó là do cái mê triền miên của mình nó trói buộc mình trong khổ não. Nếu một phen phấn chấn tinh thần, ngồi trấn tĩnh cho mạnh, nhìn trở lại tâm mình thì sẽ nhận ra không thật có cái gì trói buộc mình cả, mọi thứ tự vắng bóng, nhưng tâm chúng ta vẫn sáng biết rõ ràng. Do vắng bặt mọi thứ mà vẫn sáng biết nên cái biết rõ ràng lúc đó không động. Chính cái rõ ràng sáng biết tất cả mà không động đó là tâm chânthật đang hiện tiền. Chỉ cần khéo nhận, sống ngay đó thì được an ổn giải thoát liền. Ban đầu thì có thể thấy hơi khó, nhưng nếu hằng ngày biết sống về như vậy thì lâu ngày tự nó sẽ có sức sống, năng lực giải thoáttự nó có ra.

II/ NHẬN CHÂN CÁI THẤY BIẾT CHÂN THẬT THÌ KHÔNG CÒN BỊ CÁI GIẢ TRÓI.

Khi quý vị đã nghe, đã đọc thì được biết rõ thân này là giả, tâm này là giả, vật chất là giả, rồi cái trói buộccũng giả luôn. Nhưng với người chưa bao giờ nghe được điều này thì họ khó để dám biết mọi thứ này là giả. Như vậy, khi chúng ta nhận biết mọi thứ là giả, đó là mình đã dùng trí mà thấy, đó là cái thấy biết trí tuệrồi. Đó là một mức.

Giờ sang mức thứ hai. Đến đây quý vị đã nhận ra, khi biết tất cả là giả thì đó là chúng ta đang thấy biết bằng trí tuệ, vượt qua mọi thứ rắc rối trong đời. Nhưng trên thực tế, khi gặp việc thì mình vẫn còn thầm chấp là thật, chưa qua nổi, vậy lỗi này là ở chỗ nào? Phải phăng cho tới cùng thì mới gỡ ra được.

Khi nghe quý Thầy nói mọi thứ là huyễn hóa, quý vị có suy nghĩ và hiểu được. Chính cái tâm suy nghĩ đó là tâm sanh diệt, chưa rời huyễn hóa. Dùng tâm huyễn hóa để nghe về huyễn hóa thì mình vẫn còn nằm trong huyễn hóa, chưa thoát ra được. Mà cái huyễn hóa không thể đối trị được huyễn hóa. Đó là lý do mà chúng ta còn bị mọi thứ huyễn hóa chi phối, chưa thoát ra được các khổ đau.

Thêm nữa, khi đang ngồi nghe quý Thầy nói chuyện, tất cả mọi thứ là giả đây thì quý vị có chú ý lắng nghe không? Có chú ý lắng nghe từng lời. Khi chú ý như vậy thì quý vị đã bỏ mất bản vị của chính mình mà theo lời nói này rồi. Đây chính là cái mê vẫn còn cho nên chưa thoát khỏi sự chi phối của vô thường huyễn hóa. Nghe nói mọi thứ đều giả là hay, nhưng chú tâm, phóng tâm ra để nghe theo lời thì đó là bỏ mất chính mình mà đi ra rồi. Tâm đó chưa lìa sanh diệt, còn nằm trong tướng động tịnh đối đãi cho nên nó vẫn còn là cái giả huyễn hóa, chưa chắc thật. Dùng cái giả để học cái giả thì làm sao thoát ra khỏi được? Đây là cái vi tếkhiến người học đạo dễ bị lầm. Rõ ràng lâu nay mình nghe nói mọi thứ đều là giả, nhưng dùng cái tâm giả để học về cái giả cho nên chưa thoát khỏi sự chi phối, khổ đau. Đây là do cái lỗi của người không khéo học đạo.

Bây giờ quý vị cũng nghe quý thầy nói chuyện như vậy, nhưng đừng để ý theo lời nói nữa mà trở lại bản vị, cái đang lặng biết của mình thì khi đó tánh ấy nó tự nghe, nhưng không động. Mới biết, khi không bỏ lời này, không chú tâm theo lời này, cũng không khởi tâm để mặc kệ thì tánh kia tự nghe một cách rõ ràng. Tánh này không động, vượt lên vô thường sanh diệt, chính tánh này mới tiêu dung mọi thứ, tự nó giải thoát, không còn khổ não. Lâu nay chúng ta cứ ngỡ là phải chú ý mới nghe, đâu ngờ không cần chú ý, không tán loạn cũng không cần khởi tâm phân biệt thì tánh kia tự nghe suốt khắp, không động. Còn khi chú ý lắng nghe là đánh mất nguyên ủy ban đầu chính mình, là rơi vào tình thức, cái nhìn có hạn lượng nhỏ hẹp. Cái đó không đủ lớn để đối phó với nổi khổ lớn sanh tử, không đủ lớn để tiêu dung những cái chi phốicủa cuộc đời này.

Thí dụ khi nhìn cái bình hoa này, nếu quý vị chú ý nhìn lên nó thì sẽ không thấy được sự hiện diện của cái ly này. Bây giờ đừng để ý đến bình hoa nữa, trả lại cái thấy biết ban đầu không động, lặng sáng mà nhìn thì sẽ thấy hết mọi thứ một cách rõ ràng, không động. Cái thấy biết lúc này không còn bị hạn cuộc ở bình hoa nữa mà thấy suốt hết tất cả, thấy bình hoa, cái ly, thấy quý thầy đưa tay… Vẫn ở bản vị của mình mà thấy biết suốt tất cả thì những cái này tuy có dao động, nhưng vẫn là không động chút nào. Mới hay ra, rõ ràngtánh giác kia tính chất của nó vốn tự không động, vốn tự giải thoát. Cuộc đời tuy chảy, các pháp tuy động, nhưng sống trở về tự tánh thì cái động đó vốn tự không còn động nữa mà sẽ trở nên sống động. Đây là chỗ giải thoát đặc biệt nhưng thực tế, cảm nhận được chứ không phải là chuyện xa vời. Sống với cái thấy biết chân thật đó thì chính nó mới có năng lực đủ lớn để chúng ta làm chủ được những cái sanh diệt trong cuộc đời, không còn bị sanh tử chi phối, trói buộc.

III/ CHỈ CHUYỂN CÁI NHÌN, KHÔNG HOẠI CÁC PHÁP THẾ GIAN MÀ BÀN THỰC TƯỚNG.

Khi đã biết tất cả đều là giả, không có gì quan trọng thì chúng ta không cần làm gì cả, có phải vậy không? Nếu vậy thì đức Phật đâu có thị hiện làm gì? Đức Phật là người thấy rất rõ sự giả tạm mong manh của kiếp người và chỉ cho chúng ta, nhưng tại sao ngài lại thị hiện vào trong cảnh giả làm gì?

Nếu ngài không thị hiện để chỉ bày thì chúng ta có biết được mọi thứ là giả không? Không thể, chúng sanhchỉ chấp mọi thứ là thật có cho nên các khổ điên đảo từ đó có ra. Từ trí tánh thanh tịnh, ngài thương chúng sanh cho nên từ bi, dùng nguyện lực thị hiện, đem đạo lý chỉ dạy để giải khổ chứ không phải ngài dính chấp, đi vào ta bà này rồi cho là cảnh giới của mình.

Ngài chỉ rõ cho chúng ta thấy thân vô thường, tâm vô thường, vạn vật vô thường, tất cả đều là giả tạm, huyễn hóa, vậy mình phải bỏ nó sao? Nếu bỏ thì mọi thứ xa rời mình rồi, làm sao sống? Còn nếu không bỏ thì nó trói cột mình, phải làm sao bây giờ? Đây là một điểm rất quan trọng đối với đời sống của mình.

Ví dụ trong nhà có một đứa nhỏ, quý vị đưa cho nó một chiếc vòng bằng vàng giả tuyệt đẹp. Nó rất thích thú và chơi say sưa với cái vòng vàng đó. Khi đang say sưa như thế, quý vị giựt lấy cái vòng vàng cất đi thì nó không chịu, ré lên khóc liền. Ngược lại, với mình là người lớn có cả một kho vàng thật rồi thì đối với vòng vàng giả kia có còn quan trọng nữa không? Giả sử có ai đó đặt cái vòng vàng giả trên bàn chơi. Hôm nào bị lấy mất thì cũng không thấy có gì tiếc cả. Do đã có cả kho vàng thật rồi thì chúng ta không quan tâmcái vòng vàng giả nữa, còn hay mất đều không thành vấn đề. Không quan tâm thì đâu có bị trói cột, đâu có gì khổ đau. Cùng một vòng vàng giả, nhưng với đứa con nít thì do không biết nó là đồ giả nên dính mắc cho nên khi bị mất đi thì nó sẽ rất đau khổ, khóc và đòi lại cho bằng được. Nhưng với người lớn thì đã có vàng thật, biết chiếc vòng giả kia là đồ không thật thì khi mất đi lại thấy bình thường. Như vậy, khổ đau là tại cái vòng vàng giả đó nó làm cho mình khổ hay tại mình? Nếu tại vòng vàng giả làm cho mọi người khổ thì lẽ ra người lớn cũng phải khổ vì nó. Đằng này nó có mất đi mình cũng thấy bình thường thì rõ ràng cái vòng vàng giả kia không lỗi, nó không có khả năng làm cho chúng ta khổ mà khổ là tại cái nhìn của chúng ta chưa đúng, đồ giả mà tưởng nó là thật mà thôi. Lỗi đã không phải tại cái vòng vàng giả kia, hay cụ thểhơn là nó không có khả năng làm cho chúng ta đau khổ thì không cần đợi đến khi vứt bỏ nó đi mới được giải thoát. Có thì để đó chơi cho vui thôi chứ không dính dáng gì, bởi chúng ta đã nhận biết nó là đồ giả, đã có một thùng vàng thật. Tương tự, đối với công việc làm ăn sinh hoạt hằng ngày cũng giống như vòng vàng giả kia vậy, mọi thứ không có lỗi. Tùy theo từng hoàn cảnh cho phép, chúng ta sống thì phải làm, phải ăn, không có gì lỗi cả, nhưng lỗi ở chỗ quên mất mình mà dính mắc, chấp trước cho nên bị mọi thứ trói buộc, khổ não có ra. Nếu chúng ta biết trả lại cái toàn thể đang sáng biết không động để làm tất cả thì mình vốn không động trong cảnh đời đang động, ngay đó sáng biết rõ ràng, không có gì lỗi, mọi khổ não tự nó tiêu dung.

Như vậy, tất cả chúng ta bị trói buộc không phải do cảnh mà chính là do tâm mình, chỉ tại chỗ mình quên hay là nhớ lại chính mình thôi. Quên giác, quên mình thì ngay đó liền bị mọi thứ chi phối, dính mắc, trói buộc, khổ đau. Nhớ lại thì liền trả lại bản thể ban đầu, không có gì trói buộc cả. Vậy thì đâu có cần phải bỏ công ăn việc làm hiện tại để tìm đến một phương trời xa xôi nào đó mới được giải thoát? Chỉ tại nơi mình thôi!

Thông thường quý vị đang ngồi đây thì dễ tỉnh lắm, nhưng vừa đứng lên bước ra ngoài để lái xe thì ngay cái khoảng quý vị vừa đứng dậy là bị bỏ quên chính mình liền. Ngay khi mình vừa đổi từ tư thế này sang tư thế khác thì chúng ta thường hay bất giác, vọng động nảy sinh ngay đó liền. Do chúng ta xem thườngcái khoảng đó cho nên phát sinh ra lắm chuyện. Chư Tổ nói: “Cái họa hoạn của con người nó núp ở chỗ không nơi chốn, không thấy được, nhưng nó sẽ xuất hiện ngay chỗ mình xem thường, khinh suất.” Quý vị đang ngồi đây thì có thấy sân gì đâu, tìm không ra cái sân nó nằm ở đâu cả. Nhưng nếu xem thường, không giác tỉnh, ai đụng một chút là sân đùng đùng liền, cho nên nói “nó sẽ phát ra ngay chỗ mình xem thường”. Vừa coi thường, xem nhẹ thì họa hoạn nó nhảy vô liền, mà giác trở lại thì nó mất dạng. Công phutu tập cũng vậy. Cụ thể, hằng ngày trước khi chuẩn bị đi làm, quý vị vẫn nhớ trả lại toàn thể biết không động là đúng. Bước lên xe, khoan hãy tính chuyện gì khác, xem coi lúc này đang nhớ hay quên? Trở lạisáng suốt trước thì bắt đầu cầm vô-lăng lái. Vô công việc cũng vậy, khoan hãy nói làm việc gì mà trước tiên cần coi là đang mất mình hay đang giác tỉnh rồi bắt đầu làm. Cho đến khi nào nhận ra rằng, cái nhớ lại mình đó là sinh mạng sống và mất mình chính là đi xuống trầm luân khổ đau, coi như mình bị chết, không được sống trong khoảng đó thì chúng ta mới cảm nhận được giá trị và quý sức giác tỉnh, mới thực hànhmột cách mạnh mẽ và có hiệu quả được. Sống như vậy một thời gian sau quý vị sẽ thấy tâm mình có thay đổi. Khi đang làm việc nhưng tâm mình vẫn tỉnh, vẫn sáng, vẫn làm chủ, thấy rõ mình đang làm chứ không phải quên mình theo việc. Ví dụ quý vị đang ngồi đánh máy, trước tiên chỉnh tư thế ngay ngắn tỉnh táo rồi làm thì mình vẫn đang làm mà sức giác tỉnh vẫn rõ ràng. Làm mọi việc với sự giác tỉnh như vậy thì có làm cả buổi cũng không mệt, luôn cảm thấy sảng khoái, vui vẻ bình thường. Nếu không giác tỉnh, vừa bỏ quênmình lao ra theo công việc thì bị cuốn theo dòng miên man của công việc. Một lát rời cái máy ra thì người mình sẽ mệt lã. Ban đầu thì tập như vậy, thời gian sau thuần thục rồi thì sức giác tự hiển hiện. Chúng tasống, làm việc cũng như ngày xưa, nhưng cảm thấy an ổn và hoan hỷ vô cùng, thấy rõ tất cả mọi việcmình đang làm mà không cần phải phân biệt gì nữa.

Hoặc khi tụng kinh cũng vậy. Khi đã thuộc kinh văn rồi thì chỉ cứ tụng bình thường, đừng duyên theo tiếng. Khi quý vị trả lại tánh toàn thể tự sáng biết thì không còn phân biệt nữa, nhưng thấy mình đang tụng kinh rõ ràng. Từng tiếng mõ, từng tiếng chuông, từng tiếng khánh, tiếng tụng kinh của cả trăm người một lúc chúng ta đồng thời nghe hết, nhưng không động, không nghe theo tiếng, chỉ thấy mình đang trong lặng, sáng biết, mọi thứ tự nó hiển hiện một cách rất rõ ràng. Tụng suốt một thời kinh như vậy mới cảm nhận được Phật pháp sâu mầu như thế nào. Lúc này mới thấy, chúng ta vốn tự sáng biết không động, tất cả những cái dao động chung quanh không ra ngoài quỹ đạo của tâm mình. Tâm sáng thì mọi chuyện tự yên, không động. Theo thời gian công phu, sống về, năng lực này tự lớn mạnh. Chính năng lực sống này sẽ tiêu dung tất cả, dòng xoáy sanh tử không thể chi phối đến được.

Một ví dụ rất gần, dễ thấy. Hôm nào làm việc, đến giờ về rồi mà công việc chưa giải quyết xong, người làm bên cạnh không giúp đỡ mà còn quấy rầy nhiều thứ, lo lắng cho ngày mai lên họp có thể bị kiểm điểm vì công việc giải quyết chưa chu đáo. Bước vào nhà thì thấy mọi thứ bừa bãi, lộn xộn, không gọn gàng, chưa kịp cất cái túi xách thì nghe con cháu đi qua vô ý đóng mạnh cửa cái “rầm”, chúng ta sẽ bực bội lên liền. Lý trí thì biết rằng chỉ là một sự sơ xuất nhỏ của cháu con thôi, không có gì đáng giận. Biết là như thế, nhưng không biết vì sao trong lòng nó tự sôi sục, cứ bực bực rất khó chịu. Cho thấy chúng ta đã mất tự chủ, bị hành động đóng cửa kia ngự trị, chiếm lĩnh, chi phối, mất quyền kiểm soát, khiến chúng ta không thể dừng lại được mà phải tức bực, khổ đau.

Hôm khác đi làm mọi chuyện trong công ty được hanh thông, làm việc vui vẻ không thấy mệt, lại được tiền thưởng, được cho về sớm. Về nhà thấy mọi thứ ngăn nắp, gọn gàng, con cháu bước ra chào hỏi quan tâmvui vẻ, đem khăn mặt cho mình lau, mang nước ra mời uống, ngồi xuống thấy thoải mái vô cùng. Khi đó, con cháu đi quan lỡ đóng cửa cái “rầm”, chúng ta cảm thấy bình thường như không có gì xảy ra cả. Khi ấy, hành động đóng cửa kia có mà như không, không hề hấn gì đối với mình.

Như vậy, cùng một hành động đóng cửa, nhưng khi mất mình, không làm chủ thì chúng ta bị nó quấy rối, mà ngay khi rối thì tâm bị yếu, tâm yếu thì dễ sanh bực bội, khổ đau, vậy là đã bị sanh tử chi phối, trói buộc. Cũng một hành động đó, nhưng nếu khi đó tâm chúng ta đang an, đang sáng, đang có sức sống mạnh mẽ thì thấy chuyện đó rất bình thường, có cũng như không, không có gì cho chúng ta phải khởi tâmsuy nghĩ nó là như thế nào cả. Ngay đó, không muốn giải thoát thì nó cũng đã tự giải thoát, không có gì ràng buộc.

Chỉ một tâm an nhờ vào hoàn cảnh bên ngoài thuận lợi mà đã có tác dụng như thế. Huống nữa đối với một tâm thể giác tỉnh, bất động, ngập tràn lạc an, năng lực ấy rất lớn sẽ khiến chúng ta bình thường trên mọi hoàn cảnh một cách rất tự nhiên, không thể nghĩ bàn nổi thì giá trị của nó lớn lao biết dường nào! Đóng cửa là một ví dụ cho tất cả các hoàn cảnh bên ngoài. Sự sống, cảnh duyên, số phận… nó có đến như thế nào đi nữa, chỉ cần một tâm giác tỉnh này đủ mạnh, chúng ta sẽ thấy mọi thứ trở nên bình thường, không có gì đáng khởi tâm, bàn luận.

Giả sử quý vị đang rất khát nước, gần như không còn chịu nổi. Tình cờ có ai đó cho mình một ly nước lã thì chúng ta rất ghiền, uống vào đến đâu thấm tận tâm can đến đấy, quá ngon. Hôm khác đi ăn tiệm, được mọi người đãi toàn những đồ uống thượng vị, đúng món mình thích, chúng ta đã ăn uống no nê. Ra đường gặp người bạn thân mời ly nước suối, nể lòng thì cũng uống, nhưng không thấy ngon, chỉ là bình thường, uống và không uống giống nhau. Như vậy, cùng là một ly nước suối, khi khát nước thì thấy rất ngon, ưa thích, là bị dính mắc, chi phối. Nhưng khi no rồi thì thấy bình thường, không có gì quan trọng, là không bị dính mắc, trói buộc, được giải thoát. Mọi thứ buồn vui, mừng giận, thương ghét, được mất, hơn thua… trong đời chỉ là một ly nước lã, nhưng do chúng ta còn đói với nước thượng vị chánh pháp, thiếu sức giác tỉnh nên khát thèm vị nước lã đó, bị những thứ tào lao trong đời nó chi phối, đưa đến mọi khổ đau. Nếu khéo tu tập, luôn giác tỉnh, sức giác tỉnh càng cao thì đó là chúng ta đang uống loại nước thượng vị được nhiều. Khi sức giác tỉnh đủ lớn, niềm lạc an trào dâng, nước thượng vị đã no đủ thì nước lã của mọi thứ ngũ dục sẽ không còn tác dụng với mình nữa. Không còn có niệm lấy hay bỏ mà tự nó vô tác dụng với chính mình, ngay đó là đã giải thoát chứ không phải tìm cầu giải thoát ở đâu khác. Tính chất, năng lực của bản tâm chân thật chính mình vốn tự nó có khả năng làm cho các pháp trần không còn đủ giá trị chi phốichúng ta nữa. Cho nên tu tập chỉ là nhận ra và sống về với bản tâm chân thật chính mình. Nếu quý vị giáctỉnh liên tục, nâng cái sức giác này càng cao thì ngũ dục sẽ bớt chi phối mình. Đến lúc năng lực giác này đủ lớn thì ngũ dục nó mới đầu hàng mình, nó hoàn toàn vô hiệu hóa, vô tác dụng thì chúng ta sống giữa cõi đời này chỉ là an lạc, không còn bị khổ đau nữa.

Tóm lại, tự tánh mình vốn đủ tính chất giải thoát, tức là nó sẵn là giải thoát rồi, chúng ta không cần loại bỏhay tìm một cái gì xa xôi bên ngoài nữa, chỉ là hằng ngày đừng theo cảnh, luôn giác tỉnh, sống về bằng giác tánh thanh tịnh chính mình. Sống như vậy lâu ngày thuần thục thì chúng ta sẽ cảm nhận được năng lực giác tỉnh của mình mạnh lên. Chính năng lực này cho chúng ta một sức sống làm chủ cuộc đời và được giải thoát chứ không phải gạt bỏ mọi thứ bên ngoài để đi tìm một sự giác ngộ giải thoát gì khác ngoài tâm mình. Không gạt bỏ nhưng cũng không có quyền lao theo. Cũng làm, cũng ăn nhưng đừng lao theo mọi thứ. Chỉ là luôn giác lại và sáng tỏ rõ ràng trên mọi công việc, lấy đó làm sức sống. Theo thời gian, sức giác tỉnh đủ lớn, chúng ta sẽ cảm nhận được năng lực vĩ đại của tâm, mọi tính chất an lạc giải thoát vốn tự tròn đủ.

Để rõ được tinh thần trói buộc và giải thoát, chúng ta cần xác định lại mấy điểm chính.

- Ai trói buộc mình?

- Chính mình trói buộc mình.

- Tại sao chúng ta bị trói?

- Do tâm dính mắc nên bị trói.

- Tại sao lại dính mắc?

- Do lầm chấp cho các pháp là thật, cho thân tâm sanh diệt là thật nên bị dính mắc.

- Và chúng ta thực sự giải thoát khi nào?

- Khi đã nhận ra bản tâm chân thật nơi chính mình.

Là những bậc đã chứng ngộ, sống trọn vẹn bằng bản tâm thì các tính chất an lạc giải thoát tự tròn đủ. Chúng ta là những người còn đang mày mò công phu thì không cách nào hơn là luôn sống về bằng tâm giác tỉnh chính mình. Không phải mơ tưởng về một cái gì đó xa xôi, hằng ngày chỉ sống trở lại ngay tánh thấy biết rõ ràng không động nơi chính mình, lâu ngày sẽ có nội lực. Tuy chưa được trọn vẹn như quý ngài đã chứng ngộ, nhưng ngay khi giác tỉnh sống về như thế là quý vị đang sống về với phần giác của mình. Chính những phần đó, quý vị sống mạnh mẽ theo thời gian thì tự nó sẽ có năng lực, khiến cho mọi thứ không đủ sức chi phối mình nữa. Lúc này, quý vị sẽ nếm được hương vị giải thoát rất thực tế, rõ ràng. Theo đó công phu, phần giác đủ lớn, trong thoáng bất chợt tình cờ, tự mình nhảy thót vào chân trời toàn giác một cách rất bất ngờ, tự nhiên, mọi tác dụng tự vẹn đủ, phát huy một cách sinh động, đạo cả rõ ràng, không có sự trói buộc nào phải tháo bỏ, không có phương trời giải thoát nào cần thoát ra, mới cảm nhận được sự sâu mầu của Phật pháp.

E. KẾT LUẬN.

Một hôm, Thiền sư Pháp Nhãn hỏi đại chúng:

- Cổ cọp mang lục lạc, người nào mở ra được?

Đại chúng không đáp được. Khi đó, ngài Pháp Đăng hiệu Thái Khâm vừa đi ngang qua, Thiền sư Pháp Nhãn hỏi, Sư liền nói:

- Người cột mở được.

Người nào đã dám gan trời leo lên cổ con cọp để cột cái lục lạc kia thì chính người đó mới đủ can đảm mở nó ra được. Và hiện nay ai trói buộc mình? – Tự mình trói buộc mình. Ai mở ra được? – Cũng là tự mình thôi. Vậy là quá dễ. Tự mình trói và cũng chính mình tự mở. Rõ ràng mình là người trọn quyền tự giải quyếtcho mình, khỏi phải ký kết hợp đồng nhờ ai cả. Quý thầy chỉ có thể nói cho quý vị nhận biết, còn phần mở ra, phần giải thoát là của mỗi người tự thực hành, quý thầy không thể làm thay được cho nên phần của quý thầy đến đây cũng hết.

Thích Tâm Hạnh (Thiền Viện Trúc Lâm Bạch Mã TT Huế)
---------
www.vnkienthuc.comwww.vnkienthuc.comwww.baoboi.vn
www.songohan.vnwww.muatet.vn
Diễn Đàn Lập Nghiệp
 
Ba hay đổ rác

Sáng nay, mặt trời chưa ló dạng và những tiếng chim vẫn ríu rít ngoài sân. Như thường lệ tôi ra bàn thờ Mẹ nhìn hình người, xá Mẹ, xá Phật và Ông Bà tổ tiên, rồi vào phòng của Ba trông nom giấc ngủ và đo máu tiểu đường.



Hôm nay Ba ngủ ngon, nhưng vẫn đánh thức người để đo máu. Đường trong máu lại xuống chỉ còn 57mM, tôi vội lo cho Ba ăn uống xong và vào bàn làm việc. Mở điện thư ra, có nhà thơ Nguyễn Hoàng Lãng Du chia sẻ một bài thơ lạ của thi sĩ Ngu Yên, bài thơ Âm Thầm Đổ Rác Trùng Ngày Sinh Nhật có đoạn cuối như sau:

...Sáng nay thứ năm, kéo thùng rác ra đường, đi vào tay không. Sống chỉ cần không khí, những thứ khác, càng ít càng tốt.
Ông ấy ăn ít, một mình, làm gì có rác. Kéo thùng không.
Chiều nay thứ năm, kéo thùng vào, sau khi đổ hết rác trong óc.

Đúng là một bài thơ đầy tư tưởng, mà lạ. Bồng bềnh. Như nhà thơ Nguyên Lương nhận xét: “Thơ của Ngu Yên thả vào không gian, không tiếng dội lại. Cứ thế bay bay, cứ thế bồng bềnh. Rồi một hôm thơ trở về lại với chính chủ, như chiếc diều khi không còn gió. Ngày hôm sau, gió lên, thơ của Ngu Yên lại bay bổng, bềnh bồng.”

Có lẽ cái bồng bềnh đó là 5 chữ cuối, “đổ hết rác trong óc” vì hơn ai hết tất cả chúng ta cũng cần đổ rác rưởi trong mình. Chợt nhận ra là ông Cụ thân sinh ngày nào cũng làm việc ‘đổ rác’ này, mà trong cuộc đời này ai cũng tự đổ rác của chính mình thì hay biết mấy. Ông Cụ thân sinh đã và đang làm như vậy. Nhìn Ba ngày càng già mà vẫn hằng ngày đổ rác trong 'tâm.' Ôi đó cũng là bài học thân giáo quý báu cho mình. Ba ngồi thiền hoặc niệm Phật mỗi sáng, chỉ khi nào đường trong máu xuống thấp hay đau ốm, thì Ba mới nghỉ ngơi.

Mỗi ngày thấy Ba
Thảnh thơi niệm Phật
Tịnh cõi Ta Bà.
Every day seeing our Daddy
Leisurely, chanting and meditating
Purifying the earthy realm.

Mấy ngày nay, đường xuống thấp nên tôi thường thức sớm trông nôm Ba. Từ khi Ba vào bệnh viện trước Tết, Ba lại càng muốn về thăm quê, tôi nghiệm ra rằng: Quê hương là những gì thiêng liêng lắm, mà Ba luôn ấp ủ muốn qua về thăm lại nơi chôn nhau cắt rốn—trở về với nguồn cội tổ tông. Và Ba cũng mong mỏi con cháu như thế. Từ đó, chúng tôi hiểu rằng trong cuộc đời này:

Giữa đến và đi
Thấy ta hạt bụi
Tan vào hư vô.

Between coming and going
Realizing we are a powder of dirt
Dissolving in the immense emptiness.

Cái còn lại là mình đang làm gì trong cuộc đời này, giữa khoảng thời gian còn lại cho mình, cho người, và cho tha nhân cũng như cho quê hương, dân tộc, và giống nòi?


xem thêm :

Màu da đen

Sáng thức dậy

Kiếp dã tràng

tại : https://truonghaitin.blogspot.com
 
phật pháp ứng dụng trong cuộc sống

Phong thủy tốt xấu phụ thuộc vào chính phúc phận của con người. Người có phúc phận, nếu sống ở nơi có phong thủy xấu nhưng rồi cũng sẽ chuyển biến tốt đẹp.

Trái lại, nếu sống nơi phong thủy tốt đẹp nhưng bản thân lại không hướng về điều đó, thế rồi phong thủy tốt cũng sẽ tự bị phá vỡ.


Nói như vậy để thấy rằng, không phải cứ ở nơi có phong thủy tốt, cuộc sống của chúng ta khắc sẽ thuận lợi viên mãn. Thế mới nói phong thủy tốt hay xấu phụ thuộc vào phúc phận của con người. Và để có phúc phận, con người cần phải tu thân, dưỡng đức.
.
Dưới đây là 5 điều thực sự cần thiết mà mỗi người cần có, cần làm trong đời để có được cuộc sống nhàn hạ về tinh thần, đầy đủ về vật chất.

Điều thứ nhất: Không sát sinh

Phong thủy tốt xấu phụ thuộc vào đức độ của mỗi người. Mảnh đất có thế phong thủy tốt là mảnh đất mà ở đó, sinh khí vượng nhất. Sát sinh sẽ khiến các sinh linh sợ hãi, tìm cách tránh xa, đồng thời nhớ kỹ những trường hợp không nên sát sinh để không phạm phải. Bạn hãy thử nghĩ xem nơi nào không có sinh linh? Đó chính là sa mạc.

Trên sa mạc khô cằn, hầu như chẳng có thứ gì có thể sinh sống, vậy làm sao nó có thể mang đến vinh hoa phú quý, niềm vui, an khang cho chúng ta?

Điều thứ hai: Không nói xấu người khác

Ngay cả người thân trong nhà, chúng ta cũng không nên nói xấu. Bởi lẽ một khi vạn vật đều có sinh linh, nghĩa là chúng có thể nghe chúng ta nói. Khi ta nói xấu ai đó, không phải là một hay hai người có thể nghe mà vạn vật đều sẽ biết và chúng không phục ta.

Vì điều này mà nhiều thầy tướng chỉ cần nhìn qua đồ của người khác là biết ngay đó là người thế nào. Những đồ vật này tự nó đã nói lên tính cách, con người của chủ nhân.
Thứ thứ ba: Hiếu thuận với cha mẹ

Tôn trọng người lớn tuổi, yêu thương trẻ nhỏ, đó là truyền thống của người Á Đông. Hiếu thuận với cha mẹ là cách cải thiện số mệnh tốt nhất, không hỗn hào với bậc sinh thành cũng là một nguyên tắc cơ bản có thể thay đổi hoàn toàn vận mệnh một con người.

Hiếu thuận với người sinh thành là nguyên tắc cơ bản để thay đổi vận mệnh đời người theo hướng tốt đẹp.

Điều thứ tư: Tự đặt mình ở vị trí thấp nhất

Biển cả vì ở nơi thấp nhất mà trở thành nơi quy tụ của trăm sông. Vì thế mỗi chúng ta nếu tự đặt bản thân ở vị trí thấp nhất, trí tuệ, phúc đức của vạn vật sẽ đổ về hội tụ.

Thông qua cách nói chuyện, làm việc của một con người là đã có thể thấy được phúc phận của người đó. Những người ăn nói hòa nhã, biết nghĩ cho người khác, thường xuyên giúp đỡ người khác, vận khí trong người sẽ tự nhiên mà hanh thông.

Hãy bao dung với khuyết điểm của người khác, để bản thân có thể nâng đỡ vạn vật. Làm được việc đó, mọi chuyện sẽ trở nên dễ dàng, cuộc sống vì thế mà trở nên thanh thản, phú quý tự tại.

Hãy khiêm nhường, đặt bản thân ở vị trí thấp nhất, nghĩ cho người khác, chúng ta sẽ hội tụ được phúc đức và trí tuệ cho bản thân.

Điều thứ năm: Đức hạnh không đủ, tất có tai ương

Chúng sinh phúc mỏng, cũng bởi sự tôn trọng, cung kính dành cho nhau ngày một ít. Bạn kính trọng ai, tôn trọng cái gì, người đó, vật đó sẽ sẵn lòng bao bọc lấy bạn, giúp đỡ bạn.

Người xưa có thể bắt mạch để phán đoán phúc lộc của một con người. Điều này là có cơ sở và là một thực tế không thể phủ nhận.

Của cải, tài sản chỉ có thể dùng đức dày mà duy trì, nếu ngược lại, có khi của cải sẽ trở thành tai họa. Lấy một ví dụ dễ hiểu, có người sở hữu tài sản vài trăm tỷ đồng cũng không sợ hãi, có người sở hữu vài tỷ đồng đã lo lắng sợ hãi, sợ rằng sẽ bị người khác trộm, cướp mất…

Nếu là người không có đức, vài tỷ đồng rồi cũng sẽ bị phung phí hết vào những thói chơi bời trác táng, cuối cùng lại tự hại bản thân, tâm hồn, sức khỏe đều trở nên tàn tạ. Đây chính là đạo lý không dùng đức dày mà duy trì sự giàu có thì sẽ gặp phải tai ương.

Xem thêm các bài mới khác về phật pháp ứng dụng

Xem thêm các tin tức mới nhất tại trang thông tin trực tuyến : vnol.vn
 
phật pháp ứng dụng trong cuộc sống
Khi nghe ai đó biết sống một mình chúng ta thường chỉ nghĩ rằng người này sống tự lập, không có gia đình bên cạnh, hoặc ở thành phố hay ở một nơi nào đó hoang vu ít người qua lại.
Song kỳ thực kể cả khi chúng ta có sống tự lập không ở bên người thân đi nữa hay trốn đến sinh sống tại một hoang đảo không người ở đi nữa thì cũng không có nghĩa là chúng ta là những người biết sống một mình. Dưới lời dạy của Đức Thế Tôn chúng ta sẽ thấy dịp được học thêm một điều hoàn toàn mới từ người. Và đoạn kinh Người biết sống một mình là sẽ cho chúng ta những lời dạy vô cùng quý giá trong cuộc sống giúp chúng ta có thể hạnh phúc ngay trong thực tại mà không cần tìm đâu xa xôi

Tin rằng không ít lần chúng ta nghe những người bạn sống tự lập của mình than vãn rằng sao mà thấy cô đơn hay buồn tẻ quá, và chính bản thân chúng ta cũng từng có không ít tự mình trải qua những trải nghiệm này, ngay cả khi chúng ta ở một mình, chúng ta không hẳn hoàn toàn hạnh phúc với việc đó, ngược lại chúng ta cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết và mong muốn có một ai đó có thể hiểu được mình, lắng nghe nghe những cảm xúc trong lòng của mình. Và như vậy là chúng ta thực sự vẫn chưa học được cách biết sống một mình thực sự. Thậm chí ngay cả khi chúng ta sống trong không gian có nhiều người hay ở một mình, thì sự cô đơn vẫn cứ dễ dàng quy chụp lấy chúng ta. Một người biết cách sống một mình là một người có nội tâm mạnh mẽ, độc lập, và luôn cảm thấy hạnh phúc. Và đây là đoạn kinh mà Đức Phật dạy về người biết sống một mình là như thế nào:

Ðừng tìm về quá khứ

Ðừng tưởng tới tương lai

Quá khứ đã không còn

Tương lai thì chưa tới

Hãy quán chiếu sự sống

Trong giờ phút hiện tại

Kẻ thức giả an trú

Vững chãi và thảnh thơi.

Phải tinh tấn hôm nay

Kẻo ngày mai không kịp

Cái chết đến bất ngờ

Không thể nào mặc cả.

Người nào biết an trú

Ðêm ngày trong chánh niệm

Thì Mâu Ni gọi là

Người Biết Sống Một Mình

Xem thêm các bài mới khác về phật pháp ứng dụng

Xem thêm các tin tức mới nhất tại trang thông tin trực tuyến : vnol.vn
 
Đừng chê ai hết

1. Ngó thấy lỗi người thật dễ, nhìn lỗi mình mới khó. Câu này nghe quen quen nhưng ta cứ... quên quên hoài, nên ta cứ hoài nói lỗi, chê bai hết người này tới người nọ, hết tổ chức này tới đất nước kia.

Chê là một tập khí dễ vận hành hơn khen, thừa nhận những giá trị của người khó hơn là tìm ra lỗi (dù nhỏ nhất, khó thấy nhất). Tất nhiên, nếu chúng ta hành xử theo tập khí này thì chắc chắn ta cũng sẽ bị đối lại như thế, trong trường hợp tương tự hoặc một trường hợp khác.

Làm người vì thế cứ phải... đấu đá nhau, để rồi lấy đi hạnh phúc của mình, của người mà cứ nghĩ như thế mới đem tới hạnh phúc hoặc bảo vệ những thành quả mà mình đang có.

Hôm qua, hôm kia gì đó, tôi đọc được đoạn ngắn trên Facebook của đồng đạo, câu chuyện kể rằng, có người hỏi vị thiền sư, làm hại người khác có tội không? Thiền sư trả lời: không.

Người đó thắc mắc quá, hỏi, làm hại người khác mà không tội, kỳ vậy? Thiền sư đáp, tội phước trong Phật giáo - trong đôi mắt của người học Phật không phải là quyền năng ban tặng hay trừng trị, vì tội phước được quy về chỗ nhân quả. Anh hại người thì anh gieo nhân xấu, anh sẽ chịu quả xấu theo tiến trình nhân quả của riêng anh, không ai có quyền bắt anh phải chịu hay không ai có quyền xóa nhân đó cho anh cả, nên trả lời không có tội là vì vậy.

2. Bạn tôi hồi tối nhắn tin, nói, tớ nghĩ kỹ rồi, điều tuyệt vời nhứt của một con người là mình nhận ra được cái sai, cái dở của bản thân để sửa chứ không phải mình sẽ làm cho mọi người thấy mình tốt đẹp như thế nào.

Câu ấy thật hay nếu mình đọc cho kỹ. Thực ra, mỗi ngày và mỗi người chúng ta đang diễn vai tốt đẹp cho mọi người thấy hơn là chỉnh sửa từ bên trong. Quan trọng là nhận ra những điểm chưa tốt của mình để mình thực sự tốt lên dù cho họ có nhận ra hay không. Diễn cho người ta hiểu mình tốt là ta đang cố tốt, biểu hiện (khoe) cái tốt cho người ta thấy mà không dám nói cái chưa tốt để sám hối là ta đang chạy theo tiếng khen, không dám đối mặt với sự thật cái dở còn đó trong mình - thì ngay đó ta đã không tốt rồi.

Cái đó là giả vờ có đạo đức, một kiểu bị kẹt mà hầu như ai cũng mắc phải, trong đó có người viết những dòng này. Tôi vẫn còn tham, vẫn còn sân, còn si mê dữ lắm. Nói thế để biết mình còn dở, như đứa em của tôi nói với tôi hồi chiều này: thiệt sự em vẫn còn háo sắc lắm!

Đó là một lời bộc bạch chân thành, một sự giãi bày để người kia hiểu được mình và thương mình, có cơ hội sẽ giúp mình, nâng đỡ mình.

3. Thật thà mà nói, tôi là người còn nhiều tham-sân-si, còn dính mắc đủ thứ trên trời dưới đất, còn buông lung, còn nghĩ, làm những điều mà nếu có một máy quay ghi lại hết tất cả thì... chắc kỳ cục lắm. Tôi đang cố gắng để sửa dần, bỏ bớt, để xin được làm người hiền.

Thầy dặn, đừng có chê ai hết nghe. Chê người khác là đem cái xấu bỏ vô tàng thức của mình, đem năng lượng không hay về tưới tẩm hạt giống tương tự trong ta. Điều này rất đúng, nói theo kiểu dân gian là “nói trước bước không khỏi”, nghĩa là ta sẽ vấp lại cái ta đã chê, đã nói người khác.

Họa tùng khẩu xuất còn ở chính nghĩa này - cái nghĩa ta sẽ rơi vào tình huống khóc dở khi ta mở miệng ra là lên mặt chê trách đủ thứ chuyện, với tất cả mọi người... Nhớ thế để tịnh ý, tịnh khẩu thì nhìn đâu cũng sẽ tịnh hết, cũng thấy được cái dễ thương của đất trời, cây cỏ và muôn loại. Được vậy thì ta sẽ kết thiện duyên, trở thành thân bằng quyến thuộc của số đông, ngược lại thì thành chống báng, thành oán thù.
xem thêm : Học cách hiểu thất bại

hoặc tại : https://anhsangchantam.blogspot.com
 
phật pháp ứng dụng trong cuộc sống

Đã từ rất xa xưa, ở một vương quốc nọ, một vị Hoàng tử trẻ tuổi đến gặp sư phụ của mình, vốn là một vị thiền sư và hỏi: “Thưa sư phụ, điều gì sẽ đợi con trong tương lai?”.

Vì thiền sư trả lời: “Con sẽ gặp 3 cánh cửa trên hành trình cuộc đời của mình. Tại mỗi cánh cửa, con sẽ nhìn thấy một vài từ. Khi đọc, con sẽ hiểu. Ta sẽ đứng đợi con khi con đã đi qua cánh cửa thứ 3”.

Thay đổi chính mình dễ hơn hy vọng thay đổi người khác

Ngay sau đó, Hoàng tử quyết định bó chốn nguy nga lộng lẫy nơi cung điện để bước vào cuộc hành trình khám phá thế giới. Khi Hoàng tử đi qua cánh cửa đầu tiên, chàng nhìn thấy hàng chữ “Thay đổi thế giới”.

Chàng nghĩ: “Ta sẽ bắt đầu thay đổi thế giới như những gì ta cho là phù hợp, và ta sẽ bắt đầu bằng cách loại bỏ tất cả những gì ta không thích”.

Một vài năm sau đó, hoàng tử đi qua cánh cửa thứ hai và một hàng chữ khác đã ở đó sẵn đợi chàng: “Thay đổi người khác”.

Hoàng tử nghĩ: “Ta sẽ bắt đầu thấm nhuần tư tưởng công bình trong người dân, để họ có thể cải thiện tính cách”.

Lại một vài năm nữa qua đi, khi hoàng tử tìm đến cánh cổng thứ ba, lần này chàng đọc được hàng chữ : “Thay đổi bản thân”.

Khi ấy chàng nhận ra: “Đây chính là thời gian để ta thay đổi chính mình”.

Lúc này, sư phụ xuất hiện, chàng nói:

“Sau khi đi qua ba cánh cửa, bây giờ con biết nó tốt hơn để thay đổi người khác thay vì thay đổi thế giới, và nó tốt hơn để thay đổi chính mình thay vì thay đổi người khác”.



Vị thiền sư mỉm cười nói: “Có lẽ con nên quay lại ba cánh cổng một lần nữa”.

Chấp nhận và nắm lấy

Hoàng tử vâng lời sư phụ quay trở lại con đường mình đã đi trước đó, chàng nhìn thấy cánh cửa thứ ba, nhưng nó trông khác so với trước đây. Trên đó viết: “Chấp nhận chính mình”.

Chàng chợt hiểu ra lý do tại sao chàng vẫn thường tự khinh thường, nhục mạ và dằn vặt chính mình mỗi khi bản thân không vượt qua được cái nạn hay đạt được những thành công mà chàng mong muốn trong cuộc sống. Đó là vì chàng đã từ chối thừa nhận và chấp nhận những thiếu sót của mình.

Hoàng tử luôn tập trung vào những gì mình không thể làm, qua đó đã bỏ qua những thế mạnh của mình. Chàng quyết định tìm cách đánh giá đúng và chấp nhận chính mình.

Khi bước đến cánh cửa thứ 2, một dòng chữ hiện ra: “Chấp nhận người khác”.

Chàng hiểu tại sao trước nay mình luôn sinh tâm oán giận và cảm thấy bất bình đối với người khác. Đó là bởi vì chàng đã từ chối chấp nhận sự khác biệt giữa bản thân và những người khác, khiến chàng không thể hiểu được những khó khăn mà họ phải đối mặt trong cuộc sống. Vì vậy, chàng quyết định học cách tha thứ cho người khác.

Một vài ngày sau đó, hoàng tử đi đến cánh cửa đầu tiên và đọc hàng chữ: “Chấp nhận thế giới” .

Hoàng tử nhận ra mình đã thất bại trong việc thay đổi thế giới vì chàng đã từ chối thừa nhận rằng: “Thật sự, trong cuộc đời này có những điều cơ bản là không thể thay đổi”.

Chàng nhận ra mình luôn áp đặt quan điểm của mình lên người khác mà đã không nhìn thấy điểm tốt của họ.

Khi này, sư phụ của chàng xuất hiện và nói:

“Giờ thì con đã hiểu được ý nghĩa của hài hòa và bình yên”.

Xem thêm các bài mới khác về phật pháp ứng dụng

Xem thêm các tin tức mới nhất tại trang thông tin trực tuyến : vnol.vn
 
Làm việc tốt, không phải là chỉ để người khác khen ngợi, mà sâu xa hơn là để chính mình ghi nhận. vị chúng ta còn sống, xét đến cùng là sống cho mình xem, mà không phải cho người khác xem


“Cháu tự mình biết là được rồi!”

Sau cơn mưa, cậu bé phát hiện một con ốc sên nhỏ ở bên đường, cậu ngồi xuống nhặt nó lên, nhẹ nhõm đặt vào trong bụi cỏ“Đừng có chạy sứ nhé!, bà nội gọi cậu.

Cậu bé ngẩng khuôn mặt bầu bĩnh lên, hưng phấn nói: “Cháu đang giải cứu ốc sên. Nó nằm ở giữa đường đi ạ, rất là hiểm, cháu đưa nó về nhà”.

Bà nội cảm thấy khó hiểu: “Ốc sên biết cháu cứu nó sao?”.

Cậu bé đáp: “Nó chắc là không biết”.

Bà nội nói: “Vậy cháu làm chuyện tốt này chẳng phải là không công sao. Ai mà biết cháu cứu ốc sên chứ?”.

Cậu bé ngay lập tức nói: “Cháu tự mình biết là được rồi! Cháu cứu một con ốc sên, cháu thấy rất vui!”.

Câu nói đơn giản này của đứa trẻ, lại ẩn chứa ẩn ý triết học nhân sinh sâu xa: Ta làm việc tốt, không phải vì để cho người khác biết, thậm chí người được giúp cũng không cần biết, tự mình ta biết là được rồi.

vì làm việc tốt, khiến ta cảm nhận được bản thân mình tồn tại, cũng khiến ta xác thực tin bản thân mình là một người lương thiện, điều này đúng với kỳ vọng của ta, thành ra ta càng cho phép bản thân mình làm việc tốt. Chỉ bởi thế thôi là ta tự cảm thấy mình hạnh phúc!

Đây chính là ý nghĩa lớn nhất khi chúng ta làm việc tốt, cũng là nguyện ước sơ khai ban sơ của mỗi chúng ta.

Đáng tiếc chính là, đại đa số con người ngày nay thường mang quá nhiều thực dụng chủ nghĩa và lợi. bản thân, cũng thành ra mà bóp méo hành vi của mình. Chúng ta đi trợ giúp một người khác, đều sẽ kỳ vọng đối phương có thể cảm ơn, cũng mong rằng bản thân được hồi báo – cho dù chỉ là một câu cảm ơn. Hoặc là, chúng ta sẽ hi vọng những người khác biết chuyện này, từ đó mà giành được sự ghi nhận và ca tụng của họ.

Nếu không đạt được những điều như vậy, nhiều người trong chúng ta đương nhiên sẽ không nguyện ý làm chuyện tốt.

Kỳ thực, “để cho người khác biết ta làm chuyện tốt” tất nhiên cũng là có tình có lý, nhưng xa hơn nữa “ta biết mình làm chuyện tốt” mới thực sự là trọng yếu. vì chúng ta còn sống, xét đến cùng, là sống cho mình xem, mà không phải cho người khác xem. Người khác ca ngợi và đền đáp bản thân mình đến đâu, thì rút cuộc cũng phải chính nội tâm khẳng định chính mình.

Người hạnh phúc nhất, chính là người tình thật bằng lòng với chính bản thân mình.

Nếu không, ví như tuốt luốt thế giới này đều ca tụng bạn, nhưng nội tâm bạn lại cảm giác mình đã làm rất nhiều chuyện xấu chuyện sai, không xứng với lời ngợi ca này, thì cũng như cũ – chẳng thể có được hạnh phúc bình an.

Rất nhiều triết học gia đều cho rằng, cõi tục này chỉ toàn là những ảo ảnh, trong tâm chúng ta mới thực sự là chân thật nhất. Điều này quả là đạo lý ẩn ý sâu xa.

Xem thêm các bài mới khác về phật pháp vận dụng trong cuộc sống

Xem thêm các tin mới nhất tại trang thông báo trực tuyến : vnol.vn
 
phật pháp vận dụng trong cuộc sống

*Giận dữ là nhân dẫn đển đau khổ

Trong hết thảy xúc cảm của chúng, sự giận dữ là cảm xúc khó che giấu nhất và là loại xúc cảm có sức phá hoại gớm ghê nhất. Khi cơn giận lên cao, và sự đè nén chúng trong một thời kì dài, có dịp để bộc phát ra ngoài thì không khác gì như nước lũ tràn bờ vậy, những bờ bao rào cản xung quanh cũng chả là gì với sự cuộn trào mạnh mẽ của nó. Và hiển nhiên dưới sự áp đảo của nó, nếu không phải là một người có lý trí mạnh mẽ, nội tâm vững mạnh, thì việc nổi cơm tam bành, phá nát mọi thứ, làm ra những việc độc ác không ai ngờ là chuyện rất thông thường. Nhưng rồi cơn giận nào cũng qua, khi cảm xúc lắng xuống, nhiều người trong chúng ta mới nhận ra rằng mình đã phạm những sai lầm không thể lượng thứ.

2. Nếu được hãy biên chép nó và đặt ở nơi mà bạn dễ dàng nhìn thấy

Có rất nhiều cách để chúng ta có thể giải tỏa xúc cảm của chính mình, cũng như làm dịu đi cơn giận dữ trong mình nhưng cách bộc phát nó ra ngoài để giải tỏa nó là cách tối. < sáng dạ nhất. Cần tránh cách này

Cách đây rất lâu người ta nhận thấy rằng những bệnh nhân trầm cảm hay sang những cú shock tinh thần lớn khó có thể phục hồi lại trạng thái quân bình cảm xúc ban sơ, hay những người có thiên hướng hay dễ nổi nóng, người ta đã sử dụng một phương pháp đó tìm cách giúp họ phát tiết bằng cách đưa họ vào một căn phòng trống cho họ đập những chiếc gối hay đồ đoàn cũ trong đó.

Nhiều người sau khi giải tỏa được xúc cảm trong lòng cảm thấy cơn giận giảm hẳn, và cảm thấy dễ chịu hơn. Song sau đó bẵng đi một thời kì, người ta nhận ra rằng những người này khi gặp phải một cảnh huống hao hao đã lặp lại hành động đập phá này. Và chừng như tần suất ngày một nhiều.

Điều đó cho thấy rằng phương pháp đập phá để cơn giận phát tiết ra ngoài thế này đã vô tình hình thành nên một thói quen xấu cho nhiều người đó khiến họ hình thành nên việc mỗi khi xúc cảm khó chịu nổi lên thì họ sẽ đập phá. Khiến sức chịu đựng của họ với những cảm xúc giận dữ dần trở thành kém hơn, họ phụ thuộc vào phương pháp này chứ không hoàn toàn không chế được cơn giận. Và lắm lúc còn vô tình gây ra tai họa, khi gặp một tình huống không như ý họ sẽ có thể ra tay đánh đập người khác.

3.Hãy học thiền và định tâm mỗi ngày chớ để nước tới chân mới nhảy

Chúng ta làm bất cứ điều gì muốn thành tựu, cần phải có kế hoạch, cố kỉnh, tinh tấn và bền chí. Chớ để bản thân làm nô lệ cho sự giận dữ mãi thế. Và một người nhiệt tâm sẽ không chừng chần mà thực hiện việc cải thiện bản thân mình. Chúng ta ai cũng mắc cái bệnh hứa và hẹn, không thì cũng lấy lý do: Tôi bận quá, không có thời gian,…! Kỳ thực nếu cứ nghĩ thế thì cho đến chết bạn cũng không thể nào làm được những gì mà bạn muốn. Hãy nghĩ thế này, phải bạn cứ để cơn giận thoải mái bột phát, bạn sẽ phạm nhiều sai trái, gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng đến cuộc sống hiện tại của mình, gây ra nhiều tổn thất. Vậy thì tại sao lại không nhanh chóng kết thúc nó để ngưng ngay những thiệt hại mà nó gây ra. Và không chỉ có thể nếu như bạn tạo nhiều nghiệp xấu, nó còn ảnh hưởng đến những kiếp sống sau này của bạn khiến bạn sinh ra làm người xấu xí hay tái sinh làm con vật. Như vậy cần phải chóng vánh giảm thiểu hậu quả có càng sớm càng tốt. Mỗi ngày bạn có thể học thiền, dành ra từ 15-20 phút để trong sạch tâm, nếu được có thể dự vào một khóa tu thiền hay thỉnh một vị cao tăng dạy cho phương pháp thiền định kiểm soát nhận biết cơn giận. thẳng thớm định tâm, và thiền định, bạn sẽ có thể có định lực mạnh và kiểm soát cơn giận của chính mình. Chớ chừng chừ và nhớ rằng: Mọi hành động đều cho ra một quả nhất thiết, đó là chắc chắn, không sai khác. Hãy thận trọng với sự giận dữ và hành động của chính mình.

Xem thêm các bài mới khác về phật pháp áp dụng vào cuộc sống

Xem thêm các tin cẩn mới nhất tại trang thông báo trực tuyến : vnol.vn
 
Thường thì trong lúc chúng ta hạnh phúc nhất, hay không ngờ nhất luôn có những chuyện xảy ra bất thần khiến chúng ta khó lòng có thể hài lòng chúng ta là sự thật.

1.Tài sản sẽ mãi còn, chỉ cần thế thì sự phong lưu sẽ là mãi mãi

thảm kịch không nằm ở chỗ người ta không có bất kỳ thứ gì mà là từng có mà đánh mất bít tất. Một người chưa ba giờ sung túc, thì dù cuộc sống có nghèo đi hơn chút nữa cũng chẳng xá gì, nhưng một người no ấm mà trở thành nghèo thì khỏi nói cảm giác khổ cực gấp bội lần. Nhưng muốn tài sản mãi tồn tại, thường còn với chúng ta trong suốt cuộc thế là điều chẳng thể. nếu nương cậy tuốt tài sản mà chúng ta có, và cho rằng nó là ắt hạnh phúc của cuộc thế mình chắc chắn lúc nào đó bạn sẽ khôn xiết thống khổ khi chúng ta ra đi. Tài sản của một người đều đã được quy định từ trước do những phước báu mà người đó đã từng tạo lập từ những hành động thiện trong kiếp sống trước đó. Mà hành động của con người thì có tốt và xấu nên dẫn đến nghiệp quả nhận khi thì tốt khi thì xấu, có sự trộn lẫn với nhau.

2.Nghĩ rằng sức khỏe còn mãi

Có câu nói rằng: “ Chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể hiểu được giá trị đích thực của sức khỏe cho đến khi bị bệnh!” và tâm lý của chúng ta luôn là vậy, những gì tốt đẹp nhìn thấy ở người khác thì luôn mong muốn bản thân cũng có phần. Nhưng những gì xui xẻo cảnh báo thì bỏ ngoài tai. Đến khi sức khỏe yếu, bệnh tật liên miên mới nhận ra bản thân đã sai như thế nào thì cũng đã quá muộn. Sức khỏe của chúng ta chắc chắn sẽ đổi thay, chúng ta càng lớn tuổi thì sức khỏe sẽ ngày càng kém, đó là điều kiên cố. Nếu như khéo giữ giàng chúng ta sẽ có thể xài lâu được hơn một tí, nhưng Nếu như ăn uống vô tội vạ, không ngừng nạp chất độc vào người thì sẽ nhanh chóng bị hư hoại. phải nương tựa vào sức khỏe, ỷ rằng bản thân còn khỏe mạnh nên tha hồ ăn uống mất kiểm soát, nạp những thứ không tốt vào thân thì sẽ có một lúc chính chúng ta sẽ phải khóc ròng khi nhận ra sức khỏe ngày một tuột dốc không phanh.

3. Nghĩ rằng người nhà còn mãi bên mình

Đức Phật từng dạy rằng ngày cả người nhà cũng không thể nương khi cái chết đến gần. Khi thọ mạng hết, không bố mẹ, anh, chị , em nào có thể chết thay cho chúng ta được. Hay tỷ như mình có thể chết thay cho họ vậy. Do đó cần phải hiểu rằng người nhà không bao giờ có thể ở mãi bên cạnh chúng ta. Bản thân cần phải mạnh mẽ, tự lo cho chính mình, coi trọng thời gian mà mình có được để làm những điều thật quan trọng, ý nghĩa trong thế cuộc. Hãy tự bản thân cố kỉnh chứ không nên dựa dẫm vào bất kỳ ai, bởi họ không thể ở mãi bên cạnh chúng ta được. Đó là điề kiên cố.

4. Nghĩ rằng thời kì của chúng ta còn rất nhiều

Mỗi một ngày trôi qua, tuổi thọ của chúng ta lại giảm xuống, và chẳng ai biết được chắc chuyện gì sẽ xảy ra. Cuộc sống của chúng ta mỏng manh như thế đó nhưng lạ một điều đó là thường rất í tai chú ý đến điều này. Trong tâm niệm của chúng ta luôn nghĩ rằng bản thân mình vẫn còn rất nhiều thời gian, và cuộc đời thì còn rất dài. Đến khi tai nạn bất thần ập đến thì những dự định mà chúng ta chưa thực hiện, mọi mong muốn,… tất cả những thứ mà chúng ta từng chần chờ không làm thì nay cũng chẳng còn cơ hội để thực hành. Ẩn bên trong sự sống là cái chết, bạn có biết Mỗi một giây một phút trôi qua đã có bao nhiêu tế bào trong thân thể của bạn đã chết đi và bao nhiêu tế bào đã được sinh ra hay xong. Do đó chớ nương cậy vào ý nghĩ thời kì của chúng ta còn nhiều, mà hãy nghĩ rằng cuộc sống rất vô thường, mạng người chỉ dài bằng một hơi thở mà tận dụng thời kì của mình làm những điều mà bản thân mong muốn, những điều mà chúng ta cho rằng nó ý nghĩa và có giúp ích được cho mọi người thay vì phung phí nó vào những thú vui, tiêu khiển vô ích.


Xem thêm các bài mới khác về phật pháp ứng dụng trong cuộc sống

Xem thêm các tin tức mới nhất tại trang thông tin trực tuyến : vnol.vn
 
Sửa lần cuối:
Cà phê và thiền

Theo truyền thống sách vở, chừng như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê. vì chưng, theo truyền thuyết, và dường như có nhiều sách ghi lại, rằng Ngài Bồ phản ảnh Ma từ Ấn Độ sang Trung Quốc để quảng bá pháp môn Thiền Tông, nhưng thấy chưa ai có thể hiểu được, nên lên một ngôi chùa trên núi để ngồi thiền, ngó vách đá trong chín năm; sách ghi rằng, có lúc Ngài ngủ gục, liền cắt mí mắt, rơi xuống thành cây trà. Sau này, các sư uống trà để tỉnh táo.

Truyền thuyết vậy thôi. vì, một nhà sư Ấn Độ sang Trung Hoa để khai sáng Thiền Tông, nói những lời trí tuệ mông mênh, sao lại có chuyện ngủ gục trong khi ngồi thiền. Phải chăng, Bồ phản ánh Ma muốn bày trò cho các nhà sư tập lấy quyết tâm chống buồn ngủ. Và rồi, cắt mi mắt cho mọc thành cây trà cũng là một màn biểu diễn thần thông… thực tại, trà không dính gì với Thiền; nhưng có thể nhìn cách khác, Thiền sẽ dính tới toàn bộ, vì Thiền là sống trọn cái toàn thể, toàn dụng, là đi đứng nằm ngồi trong tỉnh thức.

Thời này là thời cà phê. Hồi chiều Chủ Nhật, trong khi chờ xem lễ trao Giải Oscars trên đài ABC, tôi bấm trúng một làn sóng tiếng Việt, lúc đó thấy đoạn cuối một bản tin ngắn về cà phê Thiền ở Hà Nội. Một tiệm đúng là cà phê Thiền, vì nhìn lên tường thấy có hình Đức Phật, trên bàn có vườn Thiền bằng cát thu nhỏ kiểu Nhật Bản. Tiệm thứ nhì nghe đâu không thuần túy, vì ngó lên tường thấy có tranh Bát Tiên của Trung Hoa; có thể là liên quan tới Lão giáo hay võ phái, nhưng không biết chắc, vì hình chiếu thoáng qua có mấy giây… Hiển nhiên, đây là một bước tiến lớn của từng lớp. Trước giờ, chỉ nghe chuyện về các quán cà phê Thiền ở Sài Gòn, ở Đà Lạt… Khi thủ đô Hà Nội chuyển mình, cả nước rồi sẽ đổi thay.

Tôi nhớ về một Sài Gòn với cà phê: nhiều thập niên trước, làm gì có chuyện quán cà phê Thiền.

Cũng để ngưng một tẹo: lúc đó, tôi chợt thắc mắc về khả năng nhớ của mình. hốt nhiên nhớ, hẳn là công năng của tâm thức hay vô thức gì đó, không phải tự tiện chủ động nhớ -- tiếng Anh gọi là “the latent tendencies.” Nhưng rồi tôi tự nhủ, phải quay lại xem đài ABC để khuya nay còn viết bản tin về Giải Oscars. Và rồi thắc mắc, nãy giờ, mình vừa động dao giữa vô thức và tỉnh giác nhiều lần, trên nguyên tắc là dao động giữa rất nhiều niệm, vì luận Abhi-dhamma nói rằng mỗi niệm sinh và diệt là gồm 7 niệm vi tế (hay 16 niệm vi tế? Chỗ này không nhớ chính xác). Tự nghĩ, như thế, vô thức có một chiều sâu nối kết ký ức mạnh như thế, mới biết rằng tu không dễ, vì vô thức thường khởi lên bất thần những ký ức tầm bậy, hay hình ảnh đớn đau (cũng là lý do, nhiều chiến binh Mỹ trở về từ Iraq và bị hình ảnh bom đạn chết chóc ám ảnh tới bệnh).

Để nói tiếp tục cà phê. đôi khi, hồi nhỏ, tôi được ba dẫn ra tiệm cà phê ở góc Lê Văn Duyệt/Tô Hiến Thành ngồi uống cà phê, ăn sáng. Những lúc đó là rạng sáng, khoảng 5 hay 6 giờ sáng, và tôi soạn sửa đạp xe đạp lên sân Hoa Lư tập thể dục. Đó là hồi trung học đệ nhất cấp, cả lớp mỗi tuần phải tới sân Hoa Lư tập thể dục, thường là đá banh. Tôi nhớ ly cà phê thiệt ra không có vị gì như bây chừ, vì đó là cà phê vợt của tiệm hủ tiếu. Có vẻ như có mùi khen khét, theo tôi nhớ. Giờ đó lúc nào cũng có mấy bác xích lô ngồi gần, đổ ly cà phê ra dĩa cho nguội.

Cà phê là một phần đời của Sài Gòn, vì nhìn đâu cũng thấy cà phê. Từ quán cóc, tới quán nhạc; từ cà phê vợt, tới cà phê phin. Nhưng thời đó, làm gì có cà phê Thiền. nên chi, hiện phải chăng đã chú trọng nhiều hơn, năng cần hơn, một pháp an tâm?

Thực sự không rõ. Có lẽ, cần có một thống kê từng lớp.
Cà phê với tôi thỉnh thoảng gắn liền với văn chương, chớ không gắn liền với Thiền. Thời trung học, khi học thi, là cần tới cà phê mới tỉnh. có nhẽ, lúc đó, uống kiểu đó, không tinh tế như các bạn trẻ bây giờ ngồi uống ở các quán cà phê Thiền. Vì uống kiểu như tôi thời nhỏ, làm gì có chuyện, thử ghi bằng thơ:


nâng lên trong tỉnh giác
tay cầm tách nhẹ nhõm,
khói bay như cánh hạc
len vào kinh từng trang.

Xem thêm

Giấc mơ em nhỏ Việt Nam
Tinh khiết như hoa sen
Phương trời cao rộng

Hoặc tại : https://phatphapungdungnhiemmau.blogspot.com
 
Lá xa mùa

Hình ảnh một thiền sư chậm rãi thiền hành trong nắng mai hay an nhiên lặng lẽ tĩnh tọa giữa rừng chiều là tặng vật tuyệt đẹp cho những ai có tâm hồn nhạy cảm, chợt ngẫu nhiên nhìn thấy.

Vì hình ảnh đó là tuyệt bút phẩm nghệ thuật.

Vì hình ảnh đó long lanh sâu thẳm linh tính.


Vì hình ảnh đó là hài hòa tuyệt đối giữa mộng và thực, giữa đạo và đời, giữa phong thanh và hùng tráng.

Tự thân đã kiều diễm như thế nên không mấy thiền sư, từ nhà Như Lai bước vào đời hoằng pháp mà không ghé qua cánh cửa thơ mộng của thi ca.

Ở đó, hạc trắng vỗ cánh bay lên từng không, rơi rụng đôi vọng âm của làn sáo gió, thánh thót của hạt mưa bay, rạt rào của lớp sóng xô bờ.

Ở đó, thiền sư quán công án giữa mênh mang trầm bổng thi ca. Một lời thốt lên như hoa nở, tiếng mõ nhịp xuống như sương rơi, giòng chuông ngân dài như hồ biếc. Khi nào thiền là thơ? Khi nào thơ là thiền? Những câu như vầy, từ thi sỹ hay thiền sư:

Một con én, một đoạn đường lây lất

Một đêm dài nghe thác đổ trên cao
Ta bước vội qua dòng sông biền biệt
Đợi mưa dầm trong cánh bướm xôn xang (*)


Làm sao để tâm dương gian hạn hẹp phân luận được, khi thi sỹ đã đạt tới cực độ của thơ, và thiền giả đã đạt tới không-tịch của đạo?

Hãy thử một đêm dài nghe thác đổ trên cao, tìm hào khí ngất trời của người xuống núi với thanh gươm Bát Nhã, rồi đợi mưa dầm trong cánh bướm xôn xang, thắp lên tình tự cực kỳ thơ mộng của thi nhân, hoạ may chúng ta mới biết cám ơn hoa trái nhiệm mầu.

Đã nếm hương đạo vị diệu kỳ, ta sẽ an nhiên, dù đi giữa vô minh. Này là lời tình tự trong đêm:

Bóng ma gọi tên người mỗi sáng

Từng ngày qua, từng tiếng vu vơ
Mưa xanh lên tóc huyền sương nặng
Trong giấc mơ lá dạt xa bờ (*)

Đó, nhẹ tênh ! Tiếng ma gọi hay tiếng cai ngục điểm danh chẳng hơn gì tiếng vu vơ trời, vì trong mỗi chúng ta đã có sẵn một ngôi nhà Phật hoa lệ, vững vàng. Thế nên, thiền sư tĩnh tọa rồi, lại mơ mòng thi sỹ:

Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng
Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa
Con bướm nhỏ đi về trong cánh mỏng

Nhưng về đâu, một chiếc lá xa mùa (*)!

Trời hỡi! Âm thanh và hình ảnh của “Lá xa mùa” thần tình quá!

Lá xa mùa là lá đâm chồi quá sớm hay úa tàn quá trễ?
Quá sớm cũng đã thấy đọt xanh; quá trễ cũng đã thấy nhuốm vàng, nhưng nhìn kỹ đi, chẳng phải lá ấy mùa xuân mới xanh, mùa thu mới vàng mà ngay khi lá nhuốm vàng, đã đang dành lại sinh khí cho mầm xanh; và lá xanh vươn lên, đem hoa trái cho đời rồi lại cùng với đất, vun bón cây cao.

Có chiếc lá nào xa mùa đâu! Xanh hay vàng, lá vẫn ở cùng mùa đấy chứ vì trong sinh diệt đã sẵn mầm bất diệt.
Ấy vậy mà thi sỹ mơ màng ba lơn để thiền sư thoáng mỉm nụ cười. Có phải nơi giòng thơ này, chúng ta đã thấy thiền sư và thi sỹ là một, nên ngôn ngữ thi ca và nguồn thiền mới hài hòa tuyệt kỷ đến thế!

người tình thơ chưa vơi rung cảm, người tọa thiền chưa xả phút tịnh-như, mà gió thơm đã bát ngát không gian, phả xuống tận đáy lòng, giòng tự tại Bát Nhã:

Năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng

Người mãi đi như nước chảy xa nguồn
Bến bờ lạ, chút tình tự với bóng
Mây lạc loài ôi tóc cũ ngàn năm.(*)


Xem thêm :

Về đâu

Hạnh Nguyện

Đôi nét về phật giáo nhập thế trong kinh duy-ma-cật

Hoặc tại : https://phatphapungdungvnol.blogspot.com
 
Xây dựng hạnh phúc gia đình
Kiến hòa cùng nhau giải bày, tức là thấy biết những điều hay lẽ phải thì giải bày cho nhau cùng hiểu. Trong một gia đình, trình độ kiến thức của mọi người có ngang nhau thì mới thông cảm với nhau, vì thế chồng vợ mỗi người phải: 1) - bàn thảo quan điểm Với Nhau Cùng Hiểu: Bước chân vào đời, không ai kiêu hãnh rằng mình thông đạt hết mọi mặt của lẽ sống và cũng không ai có kinh nghiệm lão luyện hết mọi nghề theo nhu cầu cho gia đình mà không cần đến sự học hỏi của kẻ khác, nhất là sự phức tạp của xã hội quan hệ đến cuộc sống của con người. Người giỏi về bình diện kỹ sư nông nghiệp nhưng không giỏi về ngành khoa học cơ giới, người giỏi về ngành thầy thuốc trị liệu thân bệnh nhưng không giỏi về chuyên môn trị liệu tâm bệnh, v.v... Trong tinh thần duyên sanh, sự sống còn của chúng ta chẳng thể thiếu những ngành chuyên môn cung ứng, kể cả chuyên môn về tinh thần cho mặt tâm linh. Do đó chúng ta cần phải thâu thập những ý hiến hay bên ngoài để bổ túc cho đời sống của chúng ta mỗi ngày được tốt đẹp hơn. do vậy một gia đình muốn đạt được những thành quả tốt đẹp cho cuộc sống, người chồng hay người vợ, bất cứ ai đã thâu thập được bất cứ điều gì hay hoặc những kinh nghiệm nào tốt ở bên ngoài cần phải Trao Đổi cho nhau cùng hiểu cùng am tường để cùng nhau chia xẻ và cùng bổ túc cho nếp sống gia đình ngày thêm thăng tiến. Có hiểu biết có am hiểu như nhau thì mới có sự hòa hợp cùng một nhịp điệu trong việc xây dựng hạnh phúc gia đình. Đã sống chung với nhau nếu kiến thức dị đồng, không cùng hiểu biết, không cùng am tường, kẻ thì thấy xa, người thì thấy gần, kẻ thì quan niệm sâu sắc, người thì quan niệm hời hợt, tình trạng như thế thì chẳng thể nào thành công trong cùng một ý hướng xây dựng. Nhưng chúng ta cần nên nhận thức rằng, không phải sờ soạng những điều tốt trong xã hội đều là nhu cầu thiết yếu của gia đình mà ở đây chúng ta cần phải biết sống hạnh tùy duyên theo hoàn cảnh, nghĩa là phải biết chọn lọc những điều tốt nào quan hệ không thể thiếu sự có mặt của nó trong việc xây dựng hạnh phúc gia đình làm cẩm nang cho đời sống. Nói cách khác, chúng ta nên lấy gia đình làm nền móng và chọn những điều tốt nào theo nhu cầu của gia đình mà không nên chạy theo sự phồn hoa của xã hội mà khả năng gia đình không đáp ứng nổi, đúng với châm ngôn: “Liệu cơm gắp mắm.” 2)- Chia Xẻ Với Nhau Khi Bị Thất Bại: Trên tinh thần đồng lao cộng khổ, vui cùng hưởng khổ cùng chịu, chồng vợ khi người nào gặp phải những hoàn cảnh trái ngang như bị thất nghiệp hay làm ăn bị thất bại, v.v... thì người kia phải có ý thức cảm thông, nên chia xẻ và an ủi, khuyến khích cho họ lên ý thức để đủ sức chống chọi với những trở lực dồn dập đưa đến. Trong những tình cảnh đó, người chồng hay người vợ khi gặp chút đỉnh khó khăn không nên có thái độ phũ phàng trách móc đối với bạn trăm năm của mình đang trong tình trạng đau khổ lo lắng và cũng không nên tự mình rẽ sang lối khác chạy theo sự tham vọng riêng tây vô tình đưa tâm cảnh kẻ bị thất bại vào con đường túng quẫn song song cũng gây tạo cho gia đình đáng lý phải được ấm êm hạnh phúc trở nên đảo lộn bất an đốt cháy niềm tin của nhau. Con người nên biết rằng cuộc thế không phải tuyệt đối, xoành xoạch có hai mặt: có tốt có xấu, có thạnh có suy, có lúc sung sướng tràn ngập và cũng có khi đau khổ giăng mắc bao vây. Con người sống trong cuộc thế khi nắm bắt được những may mắn đến với mình không nên có thái độ tự hào và khi gặp lúc những xấu số phong bế cũng không nên thối chí ngã lòng mà phải giữ vững niềm tin chờ thời cơ một ngày nào đó bình minh sẽ trở lại. Xem thêm :Truyện ngắn 108 chữGiấc mơ em nhỏ châu PhiThở chánh niệmHoặc tại : https://phatphapungdungcuocsong.blogspot.com
 
Người giao hàng cần mẫn

Trong những sinh hoạt hàng ngày, không ai trong chúng ta không từng phải đi mua sắm những nhu yếu phẩm, những vật dụng cấp thiết để phục vụ cho cái thân sống lâu, sống mạnh. Có những món ta tự đi, có những món người bán sẽ đến giao tận nhà. Có những món giao đột suất, có những món giao định kỳ…

Những người giao hàng định kỳ đó, trông thì có vẻ siêng năng, đều đặn, nhưng thế nào chả có lúc trái gió, trở trời hay có việc gia đình bất thường mà người đó đã chẳng thể giao hàng đúng hẹn.

Nhưng có một người giao hàng không bao giờ trễ hẹn và món hàng người ấy giao không bao giờ suy suyển chất lượng. Chẳng phải người ấy chỉ giao hàng cho một nhà, một phố, mà người ấy giao khắp nơi, khắp chốn, bất cứ nơi nào, dù nơi đó có sự hiện hiện của nhân loại hay không.

Người giao hàng này không có tên gọi, chẳng có hình dong nhưng không ai có thể chối bỏ công năng tận tụy, bền bỉ, cần mẫn của người đó. Món hàng được giao có tên là “hai mươi bốn giờ.”

Từ hửng đông khi tỉnh ngộ thức dậy, dù ta muốn hay không, người giao hàng đã đứng ngay bên giường, trao cho ta món hàng hai mươi bốn giờ. Món hàng đó, chất lượng đồng đều như nhau, từ Âu sang Á, nhưng cách xử dụng thế này tùy từng người nhận.

Thức dậy miệng mỉm cười
Hăm bốn giờ tinh khôi
Xin nguyện sống trọn vẹn
Mắt thương nhìn cuộc đời
Sống thế nào để được coi là sống trọn vẹn?


dĩ nhiên, đi vào chi tiết, cái nhìn của mỗi người mỗi khác, nhưng cũng có những điểm chung khó có thể phủ nhận. Đơn giản, đan cử ngũ giới trong đạo Phật. Khi một người Phật tử thọ tam quy ngũ giới thì năm giới này sẽ là thành trì giúp người đó xử dụng món hàng hai mươi bốn giờ một cách xứng đáng. Năm giới đó là:

Không sát sanh
Không ăn cắp
Không gian dâm
Không nói láo
Không uống rượu

Năm giới rất đơn giản, rất dễ hiểu này chính là cái NHÂN cơ bản để làm người.

Ta sơ ý đứt tay, đau thế nào thì con sâu cái kiến khi bị thương tích cũng đau thế ấy. Người con Phật, tinh thần được những đớn đau này phải diễn tả lòng đại bi, tránh ám sát sinh linh.

Ta mất của, tiếc rẻ và sót sa thế nào thì người bị ta lấy món chi cũng cùng trong tâm trạng đó. Người con Phật phải đem lòng đại từ mà coi trọng tư hữu của người khác.

Ta bị làm phản, phụ bạc, đau khổ thế nào thì người khác cũng rơi vào vô vọng như thế. Người con Phật phải lấy đạo lý làm trọng, không xâm phạm vào hạnh phúc người khác.

Ta nói dối để đạt điều ta muốn, tất sẽ tác hại trái lại tới người nghe. Người con Phật phải biết trọng sự thực, không thêu dệt nói lời sai trái.

Rượu là chất có thể làm ta rơi vào tình trạng mất tự chủ, mất minh mẫn, kéo theo bao
tác hại vô lường do không còn tỉnh táo. Người con Phật phải biết tránh trước, bằng cách không xử dụng rượu và các chất độc tố.

Chỉ cần tỉnh giác và tuân theo ngũ giới, ta đã xử dụng món hàng hai - mươi - bốn- giờ một cách rất xứng đáng rồi. Nếu ta chăm chỉ thêm chút nữa, quán chiếu và tu tập Bát Chánh Đạo là con đường cao quý Đức Thế Tôn từng chỉ dạy thì ta còn còn làm đẹp sao cho đời sống.

Xem thêm :

Chế ngự con ma

Hoa cười mừng đón đản sanh

Nắng và hoa sen

Hoa Ưu Đàm

Hoặc tại : https://truonghaitin.blogspot.com
 
Đừng xa nhau nữa

Theo Dương Lịch, 23 tháng Ba là ngày giỗ của Huynh Trưởng Tâm Huệ Cao Chánh Hựu.

Tôi chợt nhớ đến bài thơ viết để tiễn biệt anh và cũng để nhấc các anh chị em Gia Đình Phật Tử khắp nơi biết ngày anh ra đi. Bài thơ khá dài và kết luận bằng câu “Và đừng xa nhau nữa”.

Tôi sinh hoạt đa dạng và trong nhiều lãnh vực, nhưng trong đời mình cho đến ngày giỗ anh hôm nay, Gia Đình Phật Tử là tổ chức duy nhất mà tôi phát nguyện giáp theo lý tưởng. trừ các sinh hoạt bình thường trong cộng đồng nơi tôi đang sống, tôi chưa dự bất cứ một tổ chức không những chính trị mặc cả văn hóa, từng lớp với tầm vóc quốc gia nào.

nhân Đại Lễ Phật Thành Đạo năm 1962, cha tôi dắt tôi đến chùa Ba Phong, làng Mã Châu, Duy Xuyên, Quảng Nam để xin cho tôi được dự đội đồng canh của GĐPT Ba Phong.

Liên trưởng đoàn trước tiên của tôi là Huynh Trưởng Tâm Thanh Lê Thanh Hải. Trưởng Lê Thanh Hải rời đoàn để về sinh hoạt trong Ban chỉ dẫn GĐPT Quảng Nam và năm 1963 được Hòa Thượng Thích Long Trí làm lễ thế lên đường gia ở chùa Viên Giác, Hội An cũng với pháp hiệu Tâm Thanh. Cố Hòa Thượng Thích Tâm Thanh, Giảng Sư Viện Hóa Đạo GHPGVNTN và Cố Vấn Giáo Hạnh của GĐPTVN là một trong những kỳ duyên của Phật Giáo Việt Nam.

Tôi bước theo duyên nghiệp khôn xiết nghiệt ngã của mình nhưng sau đó cũng về Viên Giác. Dưới bóng đa già và ánh trăng trong sân chùa Viên Giác, cố Hòa Thượng Tâm Thanh, Hòa Thượng Thích Như Điển, nhiều tăng sĩ và học trò mồ côi như tôi đã lớn lên trong nhiều thời điểm khác nhau.

Cách đây hơn 20 năm, một lần Hòa Thượng Thích Trí Chơn viếng thăm chùa Lục Hòa ở Boston, trong một buổi lễ, Trưởng Tâm Chí Trương Xuân Bảo khuyến khích tôi phát nguyện làm huynh trưởng GĐPT để giúp gầy dựng GĐPT sau những đổi thay của thời tỵ nạn. Tôi vẫn nhớ lời anh khuyên, hệ thống Gia Đình Phật Tử cần những huynh trưởng có điều kiện học hành cả trong nước lẫn nước ngoài để Hướng Dẫn các em sinh ra hay lớn lên ở hải ngoại.

Tôi không dám nhận lời vì biết mình chẳng thể đảm nhiệm thêm trọng trách. Tôi quá nhiều việc phải làm. Ngày đó tôi muốn viết nhiều về những vấn đề mà giang san đang tranh đấu và các đời trẻ cần được biết. Cánh cửa “đổi mới” dù hẹp cũng đã mở ra, nghĩa vụ của những người cầm bút là phải soi rọi ánh sáng vào.

Tuy nhiên khi lễ bắt đầu, Trưởng Tâm Chí vẫn xướng danh Thị Nghĩa Trần Trung Đạo. Tôi thẹn đứng lên để nói vài lời. Đứng trước Tam Bảo uy nghiêm, với ánh mắt của HT Trí Chơn đang nhìn về phía tôi, Trưởng Tâm Chí và đồng bào Phật Tử đang chờ câu trả lời, tôi không biết làm thế nào để nói lời chối từ. Hôm đó, tôi phát nguyện làm Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử. Một Huynh Trưởng trong GĐPT Viên Lạc tặng tôi chiếc áo đoàn. Từ đó đến nay, duyên nghiệp cuốn tôi theo nhiều ngả nhưng trong lòng vẫn luôn nghĩ tôi là Huynh Trưởng GĐPT và chỉ một tổ chức tôi có bổn phận với sự thịnh suy là Gia Đình Phật Tử.

Trong những năm ở chùa Viên Giác, không trực tiếp tham gia sinh hoạt đoàn nữa nhưng ngủ bên cạnh văn phòng Ban Hướng Dẫn Tỉnh và sư phụ chúng tôi là Đặc Ủy Thanh Niên Tỉnh Giáo Hội nên tôi có dịp gần gũi với hầu hết các Trưởng GĐPT Quảng Nam cũng như từ trung ương đến thăm.

Sau 30 tháng 4, 1975, chúng tôi như hai chiếc lá bị cuốn đi trong dòng đời đầy oan trái nhưng vẫn không quên nguồn cội.

Anh em gặp lại nhau. Có một chút tủi buồn và cay đắng vì không phải trong sân chùa hay trong ngày họp trại mà tại một bịnh viện ở San Diego, nước Mỹ. Thằng bé chùa Viên Giác hiện đã lớn. Bao mùa thu đi qua. Không ai nhận ra nhau nhưng anh nhớ từng chi tiết nhỏ trong những lần anh ghé Hội An.

Anh Tâm Huệ, dù rất yếu đuối mong manh, không khóc và tôi cũng không. Không giọt nước mắt mừng nhỏ xuống cho ngày gặp lại hay nhỏ xuống cho lần vĩnh viễn chia tay sắp sửa diễn ra. Chụp chung nhau một bức hình với nụ cười rất thật. Ánh sáng Hòa Tin Vui được thắp lên từ thuở Đồng Niên trong tâm hồn chúng tôi vẫn còn vẹn nguyên sau gần một đời người.

Xem thêm :

Pháp âm đồng vọng

Gọi em

Giọt tuệ

Hoặc tại : https://phatphapungdungcuocsong.blogspot.com
 
Một thời cùng hiện

Đêm giao thừa. Khu xóm tĩnh lặng. Gió lùa qua vườn sau làm lay động những giò phong lan đã mãn khai hoặc còn chớm nụ. Những ngọn đèn đường kiên trì đứng giữa trời sương. Cây khuynh diệp đong đưa nhẹ những cành lá trổ đầy hoa. Sương kéo xuống, hơi lạnh ùa vào cửa sổ để hé. Chung trà độc ẩm, nguội thật nhanh trong khi ánh nến lung linh, ấm cúng và khói hương lặng lờ tỏa trong điện Phật.

Trở về với thực tiễn. thực tế là đâu? Là giây khắc đương hiện, hiện tiền, ngay ở nơi chốn nầy. Nhà thiền gọi là “bây giờ và ở đây.” Thuật ngữ dùng lâu, dùng nhiều, dùng quen, dùng bất cứ ở đâu, dùng bất cứ thời gian nào, đã trở nên sáo ngữ. Có một người để tâm vào hơi thở, đặt tâm vào thân, đặt thân vào nơi chốn và thời kì ngày nay.

Có một người như thế hiện hữu trong thời gian và không gian đương hiện hay không? Tâm và thân là một hay hai? Tâm và hơi thở là một hay hai? Hơi thở và thân là một hay hai? Nơi chốn và thời kì là một hay hai? Có một người hay hai người, hoặc nhiều người khác đang cùng hiện hữu trong nơi chốn và thời gian đương hiện hay không?

Có sự nhận thức về sự hiện hữu của chính mình cùng lúc với sự hiện hữu của nhiều người khác trong cùng thời gian và nơi chốn hiện tại hay không? Có sự nhận thức chung của vơ mọi người trong cùng một lúc, một nơi chốn hay không? tức thị mọi người đều biết, ngay nơi chốc lát và nơi chốn hiện tại nầy, có mình và người khác, đang ngồi cùng nhau, mỗi người một chung trà uống trong yên lặng, hoặc đang thực hiện một khóa lễ tụng kinh theo nghi tiết, hoặc đang lần lượt ngồi xuống trên những bồ đoàn đã được sắp xếp ngay ngắn nơi thiền đường.

thực tiễn đang diễn ra như thế. Có một người và nhiều người đang đặt thân và tâm vào cái đương hiện. Có một sự trình diễn, của một người hay nhiều người, theo trật tự ngăn nắp của thời gian và không gian, không ai muốn làm trái ngược cái thứ tự đã được sắp sẵn từ ngày bữa qua và những ngày trước đó, và sẽ tạm chấm dứt ở tương lai vào giờ giấc đã được qui định.

Mọi thứ lễ nghi, dù trong hình thức đơn giản nhất, đều được đặt trong một thời khóa biểu, và được thông báo sự khởi đầu hay chấm dứt bằng một tiếng chuông hay một tiếng kẻng. quờ quạng đều là sự trình diễn của một tập thể nhỏ hoặc lớn, trong cái khung qui định của thời kì và nơi chốn.

Chỉ khi nào không có cá thể hay tập thể đồng lòng làm chung một việc, trong cùng thời kì và nơi chốn; chỉ khi nào không có cá thể hay tập thể tách biệt nhau, mỗi người mỗi ý mỗi việc; chỉ khi nào không có bất cứ sự hiện hữu nào của cá thể và tập thể, bằng thể xác hay tâm thức, dấn mình vào thời khóa biểu của mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, mùa đông, quá cố, ngày nay, ngày mai… thực tại mới là thực tế.

Một khi chứng nghiệm thực tại nầy, vơ đồng hiện trong cảnh giới nhất tâm. Trong nhất tâm, không có sai biệt, không có trật tự của thời kì và không gian. Sai biệt chỉ trình hiện khi một cá ngã khởi sự động chuyển. Và trong sự động chuyển, có sự động chuyển từ đại bi tâm, khác với sự động chuyển từ vô minh.

Trong giây phút, từ sự khởi xuất của đại bi tâm, nhìn ra vô vàn thế giới, nhìn ra vạn loại chúng sinh, cùng lúc đồng hiện: nơi kia, có những người đói khát bò lết trên đường cỡ thức ăn, nơi đây có những người phong túc, thừa thãi, vất bỏ cao lương vào thùng rác; nơi kia có những người co ro, không đủ áo quần và củi lửa sưởi ấm trước cơn lạnh giá, nơi đây có những người chăn êm nệm ấm, hạnh phúc vùi mình trong giấc ngủ an bình; nơi kia có những người gào khóc thảm thiết trước sự biệt ly, chết chóc, nơi đây có những người hạnh phúc ôm chầm lấy nhau trong yêu tương ngộ…

Chiến tranh, thiên tai, tật bệnh, khủng bố, kỳ thị, đàn áp, cướp bóc, tù đày… khiến cho hàng triệu người đau khổ trên khắp các châu lục, không trừ một xứ sở nào, dù là quốc gia thịnh vượng tự do nhất. Người ta tìm cách thiết lập lại một thứ tự nào đó trong sự rối tung, hỗn loạn của những hệ thống, chính sách chồng xéo, đan bện vào nhau, mà không nhận thức được rằng căn do của hỗn loạn chính là từ sự phát động của vô minh; và chính vô minh đã bày vẽ ra cảnh giới của mâu thuẫn, loạn động, thất thường, đau khổ. Vô minh còn, khổ cực còn.

thống khổ không biết khi nào và nơi đâu sẽ tận cùng; nhưng người hành đạo cứu khổ, như quáng nắng bên đường, như sương xuân trên cỏ, như bọt nước lăn phăn đầu ngọn sóng, như ráng chiều tím ngát trời tây thiên, lặng lẽ bước đi trên dặm dài không dấu vết. Con đường vô tận trải theo thống khổ vô tận. Không ngừng nghỉ. Không mỏi mệt. Âm thầm đi mãi trong vô tận thời gian, vô biên trú xứ…

Đêm trừ tịch đã qua. Nhìn ra cửa sổ vẫn thấy những trụ điện sừng sững vươn lên giữa trời sương. Bầy chim sẻ cất tiếng líu lo nơi cây bạch đàn xanh lá. Lòng nhẹ nhõm. khoan thai bước khỏi điện Phật khi màng tang vừa lên.

Xem thêm :

Đôi dòng tưởng niệm

Đây đó mùa xuân

Lễ Kính

Hoặc xem tại : https://baihocungdungcuocsong.blogspot.com/
 
Ước vọng và tâm xuân

Với đà véc tơ vận tốc tức thời phát triển mọi mặt của tầng lớp bữa nay, con người luôn lao vào bao ước vọng, tìm cầu những nhu cầu phục vụ để thỏa mãn bao hoài vọng v.v...

Thế nhưng, những khát vọng phù phiếm ấy, nó luôn vỗ lên từng điệp khúc quay cuồng không lối ra, không điểm dừng lại ấy... hình như bị cuốn rối theo dòng thời gian vô tận muôn trùng, hay đã bị đốt cháy dần theo bao nỗi tàn phai của những thất vọng, chán chường, buồn vui, hờn giận, để rồi quên lãng sau những ngùi ngùi của cuộc tang thương.

Từ bờ bến nhân ảnh ấy, không phải hốt nhiên mà con người dễ nhận ra từng khúc đoạn đường trần, nên có một thi nhân đã buông lời thở than:

“Rồi một ngày kia hương sắc tàn
Tuổi đời chôn lấp bụi thời kì
Tới lui mấy độ quan sơn ấy...
Thầm gởi cho đời một tiếng than!”


Bao hạnh phúc, bình yên, những sắc màu, ý tưởng mùa Xuân của đất trời nay đã qua đi trong từng chập quãng đời của chúng ta, có những điều vừa lòng thích ý ngay trong ngày nay, thế nhưng lại có những ước vọng xa xăm... đeo đẳng bao hoài niệm, rồi đợi đến bao giờ! Vẫn không ít con người đã phải bao phen nhọc nhằn ước mơ, độ để lao vào hố thẳm bất an, bởi những lo toan, thù hận và sợ hãi, v.v...

rút cục đưa đến cạnh tranh, chống chọi, làm nên bao tàn hại nhiệt não, phẫn nộ, khổ đau cho mình cho người và liên hồi trong cuộc sống từ muôn trùng nghìn xưa những đến muôn trùng ngàn sau trong dòng sinh tử vô tận.



phat-phap-ung-dung-uoc-vong-va-tam-xuan.jpg


Cứ mong cầu, vái nguyện van lơn đến Phật, Trời, Thánh, Thần, v.v... tuồng như bao lăm hướng vọng tha thiết thành khẩn hơn bao giờ hết. Thế rồi, nếu có chút phước mọn nào đó chăng, chỉ để thoả mãn chút vị ngọt dục cảm, dục tầm cầu bọt bèo của tâm hồn ích kỷ tư riêng, để rồi có còn lại được những gì sau cuộc truy hoan lạc thú bởi những ảo giác giả dối, thường tình kém cỏi nơi cuộc sống phàm trần.

Sự ẩn hiện trong ánh mắt chở chuyên bao nỗi sầu đau, những u uất trầm tư mặc tưởng trên nét mặt tuôn gầy cơn gió bấc, thể như có bao vết xước sây sát từ trái tim, những hoang mang mơ hồ, những hoảng hốt tìm cầu vô vọng đâu đâu. Bởi đường đời có muôn ngả, song cũng có muôn nỗi lòng buồn vui, hạnh phúc và khổ đau, được thua, còn mất, nhục vinh, v.v...

Và cũng chính vì vậy, nên có một thi nhân lại phải bật lên tiếng than thở trong đêm giao thừa:

“Lòng tôi đã bạc theo màu áo
Phong pháo giao thừa cũng tả tơi
Chén rượu mừng xuân tôi chẳng uống
Chỉ uống đêm nay những bùi ngùi!”


Trong khi phước nghiệp để đưa đến sự an lành quá mỏng mảnh, hay không hề có được, thì ngược lại gây tạo những ác nghiệt không ít điều tội lỗi, sai lầm từ nơi lời nói, việc làm, và những ý niệm bất thiện luôn chất chồng, mỗi lúc càng thêm nhiều cho gánh nặng đoạ đày, để rồi kéo lê kiếp người giữa cõi tử sinh vô thường tạm nầy.

Phải đâu chỉ có lời cầu nguyện suôn đuột, hay một khi ngang qua sự nắn nót mấp máy ở bờ môi để cho chúng ta được những gì...? Thế nhưng, những điều hoài vọng ấy, nó phải được tả qua hành động thực sự của chính mỗi bản thân con người và do con người. Ở đây, Đức Phật luôn giúp cho chúng ta có được sự nhận thức ấy qua giáo pháp mà Ngài đã chứng ngộ. Một khi người môn sinh muốn có được 5 pháp khả lạc, khả ý, khả hỷ khó tìm được ở đời, như: Tuổi thọ, Dung sắc, Tiếng đồn tốt đẹp, Sự An lạc, và Thọ sanh cõi Trời... Với 5 điều trên đây, Đức Phật tuyên bố:

“Không phải do nhân cầu xin, không phải do nhân ước muốn mà có được. Nếu do nhân cầu xin, do nhân ước vọng mà có được, thời ai ở đời nầy lại héo mòn vì một lẽ gì?” Đến đây, Đức Phật chỉ thẳng vào trọng điểm của lời dạy trên như sau: “... Vị Thánh môn đệ muốn có Thọ mạng, cần phải được thực hiện con đường dẫn đến Thọ mạng, sự thực hiện ấy, đưa vị ấy nhận lảnh Thọ mạng... Dung sắc... Tiếng đồn tốt đẹp, Sự An lạc, Thọ sanh cõi Trời cũng như vậy.”
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top