Trong lịch sử triết học, Hêgen được coi là người có công lao to lớn trong việc xác định vai trò của logic trong nhận thức chân lý. Đánh giá cao công' lao này của ông, trong Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: "Tư tưởng cơ bản vĩ đại cho rằng không nên coi thế giới là tổng hoà những sự vật đã hoàn thành, mà là tổng hoà những quá trình trong đó các sự vật, bề ngoài hình như không biến đổi, cũng như các phản ánh tư tưởng của những sự vật vào đầu óc chúng ta, tức là những ý niệm, đều trải qua một sự biến đổi không ngừng là sự phát sinh và sự tiêu vong, trong đó, bất chấp tất cả những sự ngẫu nhiên bề ngoài và tất cả những bước thụt lùi tạm thời, một sự phát triển tiến lên rút cuộc vẫn được thực hiện, - tư tưởng cơ bản vĩ đại đó, đặc biệt là từ Hêgen trở đi, đã ăn sâu vào trong ý thức chung đến nỗi dưới hình thức chung ấy, nó hầu như không bị ai bác bỏ nữa".
Có thể nói, bằng sự tổng kết toàn bộ tiến trình phát triển lịch sử của nhận thức, Hêgen đã xác định rõ trình độ của mỗi giai đoạn nhận thức và vai trò của các học thuyết logic: "Phép biện chứng: phép biện chứng bên ngoài, sự suy luận không đâu vào đâu, mà trong đó linh hồn của bản thân sự vật không được hoà tan. Phép biện chứng nội tại của đối tượng, nhưng thuộc về phương thức xem xét của chủ thể. Tính khách quan kiểu Hêraclít, tức là phép biện chứng, mà bản thân được hiểu như là một nguyên tắc". Điều đó cho thấy, Hêgen đã phân biệt phép biện chứng hay logic của ba loại đối tượng: chủ quan, hiện tượng và khách quan. Nhắc lại tư tưởng này của Hêgen, Lênin đã diễn đạt một cách rõ ràng hơn:
“Phép biện chứng chủ quan: Trong đối tượng có phép biện chứng, nhưng tôi không biết, có lẽ đây chỉ là cái vẻ bề ngoài, chỉ là hiện tượng... Phép biện chứng hoàn toàn khách quan, coi như là nguyên lý của tất cả cái gì tồn tại".
Theo Hêgen, chỉ có quy luật của ý niệm, ý niệm thuần tuý là kết tinh của tất cả các trạng thái, các ý niệm logic về tính chủ quan, về hiện tượng (khách quan) chỉ là sự tha hoá của ý niệm thuần tuý, "bởi vì ý niệm thuần tuý của nhận thức đã bị giam hãm như vậy trong tính chủ quan, nên nó là khuynh hướng muốn thủ tiêu tính chủ quan ấy đi, và chân lý thuần tuý, với tính cách là kết quả cuối cùng, cũng trở thành sự bắt đầu của một lĩnh vực khác và của một khoa học khác". Với luận điểm này của Hêgen, Ph.Ăngghen đánh giá rằng, ở Hêgen là chủ nghĩa duy vật lộn đầu xuống dưới, vì 'tư tưởng về sự chuyển hoá của ông đã đi đến mâu thuẫn mà, như Lênin nhận xét, "chính trong lúc ý niệm thiết định mình là tính thống nhất tuyệt đối của khái niệm thuần tuý và của thực tại của nó, và vì vậy tự ghép mình vào tính trực tiếp của tồn tại, thì với tính cách là tổng thể được hình thức ấy, ý niệm là giới tự nhiên". Theo đó, ở Hêgen thì ý niệm có tính thứ nhất, ý niệm logic chuyển hoá thành giới tự nhiên và như Lênin nhận xét rằng, ở Hêgen, chủ nghĩa duy vật đã ở trong tầm tay, nếu như từ ý niệm thuần tuý là điểm xuất phát của phép biện chứng, Hêgen xây dựng nên hệ thống logic biện chứng của ý niệm.
Dựng lại phép biện chứng của Hêgen, đặt nó đứng bằng hai chân trên mảnh đất hiện thực, các nhà kinh điển của triết học Mác - Lênin đã chỉ rõ, ý niệm logic chỉ là sự phản ánh logic của thế giới khách quan. Rằng, "logic không phải là học thuyết về hình thức bên ngoài của tư duy, mà là học thuyết về những quy luật phát triển của "tất thảy mọi sự vật vật chất, tự nhiên và tinh thần", tức là học thuyết về những quy luật phát triển của toàn bộ nội dung cụ thể của thế giới và nhận thức thế giới, tức là sự tổng kết, tổng số, kết luận của lịch sử nhận thức thế giới". Như vậy, trong định nghĩa này đã bao quát ba dạng logic của ba đối tượng - cái vật chất, cái tự nhiên và cái tinh thần với tư cách là sự phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan, trong đó, có một logic xuyên suốt, thống nhất cả ba logic này và được gọi là logic học.
Từ logic tự nhiên, khách quan hình thành nên logic trong nhận thức của con người. Logic trong nhận thức là các phạm trù, khái niệm đánh dấu mức độ và khả năng nhận thức của con người đối với thế giới: "Trước con người, có màng lưới những hiện tượng tự nhiên. Con người bản năng, người man rợ, không tự tách khỏi giới tự nhiên. Người có ý thức tự tách khỏi giới tự nhiên, những phạm trù là những giai đoạn của sự tách khỏi đó, tức là của sự nhận thức thế giới, chúng là những điểm nút của màng lưới, giúp ta nhận thức và nắm vững được màng lưới’.
Như vậy, không những là logic, cái tĩnh tại, các quy luật của thế giới khách quan mà còn là cả sự chuyển hoá của chúng nữa cũng được phản ánh vào logic chủ quan, tinh thần, đó là bản chất của cái logic trong triết học Mác - Lênin. Nếu Hêgen mới chỉ cảm nhận thấy rằng, "vận động của ý thức giống như sự phát triển của toàn bộ đời sống của tự nhiên và tinh thần" là dựa trên "bản tính của những bản chất thuần tuý hợp thành nội dung của logic" thì Lênin đã khẳng định rằng, biện chứng của nhận thức là sự phản ánh biện chứng thế giới khách quan và để nhận thức được thế giới khách quan, phải tuân thủ logic biện chứng của thế giới khách quan, rằng, "logic và lý luận nhận thức phải được suy diễn từ "sự phát triển của toàn bộ đời sống của tự nhiên và tinh thần". Chính vì vậy, "tư duy, khi tiến lên từ cái cụ thể đến cái trừu tượng, không xa - nếu nó đúng... rời chân lý, mà đến gần chân lý. Những sự trừu tượng về vật chất, về quy luật tự nhiên, sự trừu tượng về giá trị… tóm lại, tất cả những sự trừu tượng khoa học (đúng đắn, nghiêm túc, không tuỳ tiện) phản ánh giới tự nhiên sâu sắc hơn, chính xác hơn, đầy đủ hơn. Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng trên thực tiễn đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan".
Khi trình bày bản chất của tri thức trong khả năng nhận thức của con người, Hêgen đã cho rằng, "Chân lý, với tư cách là tri thức phù hợp với khách thể, cũng là cái khẳng định, nhưng nó chỉ là cái đồng đẳng với bản thân nó trong chừng mực mà tri thức có thái độ phủ định đối với cái khác, trong chừng mực mà tri thức đã xâm nhập vào khách thể và đã thủ tiêu cái phủ định do khách thể đại biểu. Đây là quan điểm cho thấy Hêgen đã khẳng định tất yếu của tri thức, tính khách quan của tri thức như là một cái gì tuyệt đối mâu thuẫn với sự chuyển hoá.
Nói về quan điểm này, Lênin cho rằng: "Sự phù hợp giữa tư tưởng và khách thể là một quá trình: tư tưởng (= con người) không nên hình dung chân lý dưới dạng một sự đứng im chết cứng, một bức tranh (hình ảnh) đơn giản, nhợt nhạt (lờ mờ), không khuynh hướng, không vận động, y như một thần linh, một số, một tư tưởng trừu tượng". Quá trình đó, theo Hêgen, là những vòng tròn, còn theo Lênin, là quá trình biện chứng. Biện chứng của sự vật diễn ra theo hình xoáy trôn ốc, nên biện chứng của nhận thức cũng diễn ra theo hình xoáy trôn ốc: "Phép biện chứng với tính cách là nhận thức sinh động, nhiều mặt (số các mặt không ngừng tăng lên mãi mãi) bao hàm vô số khía cạnh trong cách tiếp cận, đi gần tới hiện thực (với một hệ thống triết học đi từ mỗi khía cạnh mà phát triển thành một toàn thể) đó là nội dung phong phú không lường được so với chủ nghĩa duy vật "siêu hình" mà tai họa chính của nó là không có năng lực áp dụng phép biện chứng vào lý luận phản ánh, vào quá trình và sự phát triển của nhận thức... Nhận thức của con người không phải là (một cách tương ứng, không đi theo) một đường thẳng, mà là một đường cong đi gần vô hạn đến một loạt những vòng tròn, đến một vòng xoáy ốc".
Theo quan điểm này của Lênin thì logic khách quan là cái quyết định sự hình thành logic chủ quan, logic của nhận thức, rằng, trong nhận thức, khi logic đó giúp cho con người đạt đến tri thức đúng, đạt đến chân lý thì nó cũng là tiêu chuẩn khách quan để đánh giá tri thức con người. Và, khi thừa nhận chính Hêgen đã phát hiện ra điều này, song Hêgen đã chỉ thần thánh hoá cái "ý niệm logic" ấy, tính quy luật, tính phổ biến ấy, Lênin đã diễn đạt tư tưởng đó một cách rõ ràng như sau: "Giới tự nhiên, cái chỉnh thế trực tiếp ấy phát triển thành ý niệm logic và tinh thần". Logic là học thuyết về nhận thức… là lý luận nhận thức. Nhận thức là sự phản ánh giới tự nhiên bởi con người. Nhưng đó không phải là một phản ánh đơn giản, trực tiếp, hoàn chỉnh, mà là một quá trình cả một chuỗi sự trừu tượng, sự cấu thành, sự hình thành ra các khái niệm, quy luật etc và chính các khái niệm quy luật này etc (tư duy, khoa học = "ý niệm logic") bao quát một cách có điều kiện, gần đúng tính quy luật phổ biến của giới tự nhiên vĩnh viễn vận động và phát triển. Ở đây, thật sự và về khách quan có ba vế:
Giới tự nhiên,
Nhận thức của con người, bằng bộ óc của người (với tư cách là sản phẩm cao nhất của giới tự nhiên đó)
Hình thức của sự phản ánh giới tự nhiên vào trong nhận thức của con người, hình thức này chính là những khái niệm, quy luật, phạm trù atc).
Giá trị trong học thuyết logic của Hêgen không chỉ là về mặt học thuyết, mà còn ở chỗ, tạo tiền đề cho sự phát triển nhận thức khoa học sau này, như Lênin đã đánh giá: "Mác không để lại cho chúng ta "Logic học" (với chữ L viết hoa), nhưng đã để lại cho chúng ta logic của "Tư bản", và cần phải tận dụng đầy đủ nhất logic để giải quyết vấn đề mà chúng ta đang nghiên cứu. Trong "Tư bản", Mác áp dụng logic, phép biện chứng và lý luận nhận thức [không cần ba từ: đó là cùng một cái duy nhất] của chủ nghĩa duy vật vào một khoa học duy nhất, mà chủ nghĩa duy vật thì đã lấy ở Hêgen tất cả cái gì có giá trị và phát triển thêm lên".
Theo quan điểm của các nhà sáng lập triết học Mác - Lênin, trong quá trình nhận thức, sự hình thành những khái niệm, quy luật, phạm trù phải thông qua hoạt động của con người, thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nếu như L.Phoiơbắe thừa nhận con người có khả năng nhận thức thế giới, nhưng chỉ trực tiếp, bề ngoài, siêu hình, thì đến Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng: "Từ trước tới nay, khoa học tự nhiên cũng như triết học đã hoàn toàn coi thường ảnh hưởng của hoạt động con người đối với tư duy của họ. Hai môn ấy một mặt chỉ biết có tự nhiên, mặt khác chỉ biết có tư tưởng. Nhưng chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên".
Với Hêgen, thực tiễn là thủ đoạn của hoạt động con người, hoạt động thực tiễn là hoạt động của ý niệm, bản chất của nó là cái logic hình thành ý niệm. Với Hêgen, "ý niệm là "chân lý". ý niệm, tức là chân lý với tư cách là quá trình, vì chân lý là quá trình, - trải qua, trong sự phát triển của nó, ba giai đoạn:
Sự sống,
Quá trình nhận thức bao hàm thực tiễn của con người và kỹ thuật,
Giai đoạn của ý niệm tuyệt đối (tức là chân lý hoàn toàn)".
Thực tiễn, theo Hêgen, chỉ là thao tác kỹ thuật, là thủ đoạn, mưu mẹo của con người với thế giới bên ngoài, tựa như một sự tha hoá của ý niệm mà về bản chất vẫn là cái tinh thần. Với ông, "phàm là cái gì xứng đáng với tên gọi là triết học, thì bao giờ cũng lấy ý thức về sự thống nhất tuyệt đối của cái mà lý trí chỉ thừa nhận trong sự phân ly của cái đó, làm cơ sở cho học thuyết của mình".
Quan niệm của Hêgen về logic và bản chất của cái logic dựa trên cơ sở ý niệm, sự chuyển hoá của ý niệm. Về thực chất, đây là chủ nghĩa duy tâm trong triết học. Trái ngược với quan điểm đó, khi chỉ ra hạn chế trong quan niệm của Hêgen về logic và về bản chất của cái logic, Lênin đã khắng định: "Khi Hêgen cố gắng có khi thậm chí dùng hết sức và dốc toàn lực - quy hoạt động có mục đích của con người vào những phạm trù logic, bằng cách nói rằng hoạt động đó là một "suy lý” rằng chủ thể (con người) đóng vai trò một "vế" của "hình tượng" logic của "suy lý"… thì điều đó không phải chỉ là một sự giải thích gò ép, một trò chơi. Ở đây, có một nội dung rất sâu sắc, thuần tuý duy vật. Phải đảo ngược lại: Hoạt động thực tiễn của con người phải làm cho ý thức của con người lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần nhưng hình tượng logic khác nhau, để cho những hình tượng này có thể có được ý nghĩa những công lý. Cho nên, bản chất của cái logic, cái biện chứng là từ logic của hoạt động thực tiễn của con người, từ biện chứng của hoạt động thực tiễn tác động vào thực tại khách quan: "Phép biện chứng không ở trong lý trí của con người mà ở trong "ý niệm", nghĩa là trong hiện thực khách quan... Người ta có thể và phải đảo ngược cái này: vấn đề không phải là sự vận động có tồn tại không, mà là thể hiện nó như thế nào trong logic của những khái niệm".
Đánh giá về vai trò của logic, nhất là khoa học logic của Hêgen, Lênin đã nhận xét: "Không thể hoàn toàn hiểu được "Tư bản" của Mác và đặc biệt là chương I của sách đó, nếu chưa nghiên cứu kỹ và chưa hiểu toàn bộ logic của Hêgen. Vậy là sau Mác 1/2 thế kỷ, không một người macxít nào đã hiểu Mác?!". Theo đó, logic không phải là cái phản ảnh thụ động, bề ngoài, nó có vai trò rút ngắn quá trình nhận thức của con người. Nhưng để có được vai trò đó, logic phải đạt đến những tiêu chuẩn nhất định, những tiêu chuẩn làm cho nó trở thành tiền đề để dựa vào đó, đánh giá tri thức, khẳng định tính chân lý và do vậy, nó phải được xem xét trong tính chính thể, tổng thể, phải được xem xét trong sự phát triển hoàn thiện nhất, hay nói cách khác, nó phải đạt được những tiêu chí mà trong các nguyên lý của phép biện chứng đã đúc kết.
Vận dụng những nguyên lý này trong khoa học logic của Hêgen, Mác đã để lại một công trình khoa học kinh điển - Tư bản. "Trong "Tư bản", Mác phân tích trước hết cái đơn giản nhất, quen ,thuộc nhất, cơ bản nhất, chung nhất, thông thường nhất, cái thường gặp đến hàng nghìn triệu lần, mối quan hệ của xã hội tư sản xã hội hàng hoá): sự trao đổi hàng hoá. Sự phân tích phát hiện trong các hiện tượng đơn giản nhất ấy (trong cái "tế bào" ấy của xã hội tư sản) tất cả những mâu thuẫn (một cách tương ứng, mầm mống của tất cả mọi mâu thuẫn) của xã hội hiện đại. Sự trình bày tiếp theo vạch cho chúng ta thấy sự phát triển (cả sự lớn lên lẫn sự vận động) của các mâu thuẫn ấy và cái xã hội ấy, trong (tổng số) các bộ phận của nó, từ lúc bắt đầu cho đến lúc kết thúc của xã hội đó". Theo đó, có thể nói, logic là sự kết tinh của trí tuệ con người và khi phản ánh đúng hiện thực khách quan, nó cũng có giá trị khách quan để nhận thức chân lý.
Không thể đồng nhất tư duy biện chứng với logic chủ quan có khuynh hướng ngụy biện. Điều này không chỉ các nhà triết học duy vật đã nhận thấy, mà cả Hêgen cũng đã vạch rõ: "Vì nguỵ biện là một lập luận xuất phát từ một tiền đề không có cơ sở, và được người ta thừa nhận không phê phán, không suy nghĩ chín chắn, còn cái mà chúng ta gọi là phép biện chứng thì đó là sự vận động lý tính cao cấp, trong đó những sự quy định trông bề ngoài tựa như hoàn toàn tách rời nhau lại chuyển hoá từ những cái này sang cái kia thông qua bản thân chúng, thông qua việc chúng hiện tồn, và như vậy tiền đề bị loại trừ". Đánh giá luận điểm này của Hêgen, Lênin không những chỉ ra những hạn chế và ý nghĩa tích cực của nó, mà còn chỉ ra mối quan hệ giữa thực tại khách quan với tư duy logic với tư cách là tiêu chuẩn để đánh giá tri thức, để nhận thức chân lý. Ông viết: "ở đây, Hêgen hình như đã lòi đuôi duy tâm ra rồi, quy thời gian và không gian liên hệ với biểu tượng) vào một cái gì thấp hơn tư duy. Tuy nhiên, theo một nghĩa nào đó, biểu tượng tất nhiên là thấp hơn. Thực chất của vấn đề là ở chỗ tư duy phải bao quát toàn bộ "biểu tượng" trong sự vận động của nó, và muốn như vậy tư duy phải biện chứng. So với tư duy, biểu tượng có gần thực tại hơn không? Có và không. Biểu tượng không thể nắm được vận động trong chỉnh thể của nó, chẳng hạn, nó không nắm được sự vận động với tốc độ 300.000 cây số một giây, trái lại tư duy nắm được và phải nắm được. Tư duy được rút ra từ biểu tượng, cũng phản ánh thực tại, thời gian là một hình thức tồn tại của thực tại khách quan”.
Phải nói rằng, người có công đầu xây dựng cơ sở thống nhất giữa tư duy biện chứng với thực tại khách quan là C.Mác, bởi ông không "chỉ chú ý đến sự vận động tiến lên từ Hêgen và Phoiơbắc", mà còn "vượt qua cả hai người" để từ phép biện chứng duy tâm đến phép biện chứng duy vật". Với C.Mác, sự hình thành các phạm trù, khái niệm, quy luật, sự hình thành chân lý là do hoạt động nhận thức của con người. Cơ sở hình thành nên hoạt động nhận thức là thực tiễn, là sự tác động có mục đích theo nhu cầu của con người vào thế giới khách quan. Cho nên, hoạt động tinh thần, hay tinh thần chỉ là một bộ phận của hoạt động vật chất, của thế giới vật chất, nó là sự phản ánh, là cái thứ hai và xét đến cùng, cũng bị hoạt động thực tiễn (vật chất) hay cái vật chất quy định.
Hêgen cũng thừa nhận vai trò của thực tiễn trong nhận thức, nhưng lại coi thực tiễn chỉ là hoạt động thực tiễn của sự suy lý, của ý niệm và dẫu có tính khách quan, song tính khách quan đó chỉ có nghĩa là ngoài ý muốn chủ quan của con người. Khẳng định vai trò của tư duy logic và của thực tiễn trong nhận thức, Lênin đã chỉ rõ: "Nhận thức lý luận phải trình bày khách thể trong tính tất yếu của nó, trong những quan hệ toàn điện của nó, trong sự vận động mâu thuẫn của nó, tự nó và vì nó. Nhưng khái niệm của con người nắm "hẳn" lấy cái chân lý khách quan ấy của nhận thức, nó chỉ nhận thức và chiếm lấy chân lý khách quan ấy khi khái niệm trở thành "tồn tại vì nó", theo ý nghĩa thực tiễn. Nghĩa là thực tiễn của con người và của loài người là sự kiểm nghiệm, là tiêu chuẩn của tính khách quan của nhận thức. Với khẳng định này, Lênin cho rằng, quan niệm về thực tiễn của Hêgen vẫn là quan niệm tư biện, là lĩnh vực thuộc về hoạt động tinh thần. Theo ông, quan niệm đúng về thực tiễn phải là quan niệm coi thực tiễn là thứ nhất, là cơ bản: "Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức". Trong quá trình nhận thức, không phải hai mặt thực tiễn và nhận thức tách rời, mà nó là một thể thống nhất. I.Cantơ, khi bàn đến vấn đề này, đã tách khả năng nhận thức ra khỏi quá trình nhận thức. Phê phán quan niệm này của I.Cantơ, Hêgen đã chỉ rõ: "Chỉ có thể nghiên cứu được nhận thức ngay trong quá trình nhận thức, và nghiên cứu cái gọi là công cụ của nhận thức không có nghĩa gì khác hơn là nhận thức nó. Nhưng muốn nhận thức được trước khi mà chúng ta có nhận thức, thì cũng vô lý như ý định khôn ngoan của nhà kinh viện muốn học bơi trước khi nhảy xuống nước". Tán đồng quan điểm này của Hêgen, Lênin đã đi xa hơn Hêgen về mặt triết học, khi coi thực tiễn vừa là nguồn gốc hình thành nên quá trình nhận thức, vừa là sự phản ánh, là hình thức biểu hiện của tư duy của logic (quá trình phản ánh của nhận thức). Xét theo các thang bậc nhận thức thì thực tiễn với tư cách cái vật chất là thứ nhất, còn nhận thức, cái biểu hiện bằng logic là cái thứ hai. Không thể có cái logic định sẵn cho sự vận động thế giới khách quan. Chính sự vận động của thế giới khách quan là cái hình thành nên logic, quy luật trong tư duy và cái logic đó là sự biểu hiện cái logic của thế giới khách quan, là sự biểu hiện của chân lý khách quan. Khẳng định chân lý khách quan đó hoạt động thực tiễn của con người tạo ra, Lênin đã. chỉ rõ: "Hoạt động của con người tự tạo cho mình một bức tranh khách quan về thế giới, nó làm biến đổi hiện thực bên ngoài, thủ tiêu tính quy định của hiện thực này (bằng biến đổi mặt này hay mặt khác, tính chất này hay tính chất khác của hiện thực), và do đó lấy mất của nó những đặc trưng bề ngoài, bên ngoài và hư không, làm cho nó trở thành cái tồn tại tự nó và vì nó (bằng chân lý khách quan)"(29). Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn này là tiền đề đem lại cho con người khả năng đạt đến chân lý khách quan, khả năng nhận thức đúng đắn thế giới. Mặc dù vậy, "Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận), vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến, mà cả của tính hiện thực trực tiếp". Vấn đề đặt ra là, thực tiễn là hoạt động vật chất, là cái để con người tìm ra cái tất nhiên (logic khách quan), tư duy, nhận thức là hoạt động tinh thần và cũng là cái mà nhờ đó, con người tìm ra cái tất yếu, song, trong tự nhiên, ngoài cái tất nhiên còn có cái ngẫu nhiên, vậy, trong tư duy (logic chủ quan) có Cái ngẫu nhiên này không? Vấn đề này, triết học Mác - Lênin đã khẳng định: chân lý là khách quan, chân lý là cụ thể, chân lý vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối. Trong logic nhận thức của Hêgen, dù tư biện đến đâu chăng nữa, vẫn bộc lộ hạt nhân hợp lý, "ít duy tâm" nhất, như Lênin đã nói. Và, thật vậy, đề cập đến vấn đề này, Hêgen cho rằng: "Bản thân sự thực hiện cái thiện cũng vấp phải những trở ngại, thậm chí vấp phải những cái không thể làm được, do thế giới khách quan gây ra, mà thế giới khách quan này lại là tiền đề để thực hiện cái thiện, trong tiền đề này có tính chủ quan và tính hữu hạn của cái thiện và thế giới khách quan ấy, như một cái gì khác, đi theo con đường riêng của nó". Bởi lẽ, "tính tất yếu hiện thực là một quan hệ có nội dung", song nó "cũng là tương đối" và do vậy, "một cái gì đó là có thể có hay là không có thể có, điều đó phụ thuộc vào nội dung, nghĩa là phụ thuộc vào toàn bộ những vòng khâu của hiện thực, mà hiện thực thì trong sự triển khai của nó biểu hiện ra là tính tất yếu. Với quan niệm như vậy về tính tất yếu, tính nhân quả, Hêgen đã coi đó là sự trung gian hoá. Và, do vậy theo ông, "tính tất yếu và tính nhân quả như vậy là đã biến đi trong tác động qua lại, chúng bao hàm cả cái này lẫn cái kia, tức là cả tính đồng nhất trực tiếp, coi như là liên hệ và quan hệ lẫn tính thực thể tuyệt đối của những cái khác nhau, tức là tính ngẫu nhiên tuyệt đối của chúng", cho nên, "ví như khái niệm tự do, hiểu theo nghĩa là cái đối lập trừu tượng của tất yếu, thì đó chỉ là khái niệm của lý trí về tự do” còn khái niệm thật sự và lý tính của tự do chứa đựng trong bản thân nó tính tất yếu với tính cách là tính tất yếu đã được lột bỏ". Với lối tư duy tư biện này, Hêgen nhằm chứng minh rằng, sự phong phú của tri thức, của ý niệm là do ý niệm tự nó thừa nhận nó: "Nhận thức phân tích là tiền đề đầu tiên của toàn bộ suy lý - quan hệ trực tiếp của khái niệm và khách thể, do đó, tính đồng nhất là quy định mà nhận thức thừa nhận là của nó, và nhận thức đó chỉ là sự nắm được cái đang tồn tại. Nhận thức tổng hợp tìm cách hiểu cái đang tồn tại, tức là nắm được tính nhiều vẻ của những quy định trong sự thống nhất của nó. Vì vậy, nó là tiền đề thứ hai của suy lý, tiền đề mà trong đó những sự khác nhau liên hệ với nhau, với tư cách là những sự khác nhau. Do đó, tính tất yếu nói chung là mục đích của nhận thức đó".
Như vậy, trong quan niệm của Hêgen, sự phong phú, đa dạng trong nhận thức là do chính quá trình nhận thức, song theo Lênin, "mục đích của con người là do thế giới khách quan sinh ra, và lấy thế giới khách quan làm tiền đề coi thế giới khách quan là cái hiện có, là cái có thật. Nhưng con người lại thấy hình như những mục đích của nó lại lấy từ bên ngoài thế giới, độc lập đối với thế giới (tự do)". Điều đó có nghĩa là, sự phong phú của nhận thức là do sự phong phú của mối liên hệ, quan hệ, tác động qua lại của các mặt đối lập của thế giới khách quan.
Như vậy, có thể nói, cái logic đấu đóng vai trò quan trọng trong nhận thức, song, so với thực tiễn, nó chỉ là cái thứ hai, bởi "thực tiễn của con người lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần được in vào ý thức của con người bằng những hình tượng logic. Những hình tượng này có tính vững chắc của một thiên kiến, có một tính chất công lý, chính vì (và chỉ vì) sự lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần ấy" của nó.