Triết học Đức thế kỷ 18 trước Kant
Brigitte Sassen
Hoàng Phú Phương dịch
Hoàng Phú Phương dịch
Ở Đức, thế kỷ 18 là thế kỷ Khai minh, tức thế kỷ kêu gọi đòi độc lập cho lý tính. Dù nét đặc biệt của thời đại này đã tìm thấy sự phát ngôn rõ ràng nhất (và chắc chắn là nổi tiếng nhất của nó) hướng về cuối thế kỷ nơi Immanuel Kant và Triết học phê phán của ông, [nhưng] Kant không phải là người đầu tiên đưa ra lời kêu gọi này. Thay vào đó, nhiệm vụ này rơi vào Christian Thomasius (gọi tắt là Thomas) vào cuối thế kỷ 17.
Sau đó, nó được tiếp tục và phát triển xa hơn trong một chiều hướng thần học (dòng pietist) bởi một số các nhân vật nhỏ, các nhà Thomas, và được Christian Wolff và các môn đệ của ông đưa ra lại trong một chiều hướng duy lý vào đầu và giữa thế kỷ 18. Sự phát triển của (các) lập trường của họ cũng như (những) sự nhất trí trên phương diện triết học của họ rốt cục đã diễn ra tại Đại học Halle và chống lại ngữ cảnh của thuyết Pietist.
1. Christian Thomasius (1655–1728)
Mặc dù Thomasius ngày nay hầu như đã bị lãng quên, ông đã là một nhân vật nòng cốt trong tư tưởng Khai minh thế kỷ 18. Tuy nhiên, trong ngữ cảnh này, ông còn là một nhân vật phần nào mơ hồ. Một mặt, ông hầu như là một nhà cách tân. Vừa là luật sư vừa là một giáo sư triết học, ông đã biện hộ cho sự sử dụng độc lập lý tính lành mạnh, đấu tranh chống lại thành kiến, chống lại niềm tin trong bất kỳ niềm tin nào về những sự mê tín đang thịnh hành thời ấy, chống lại mọi hình thức thanh trừng (tôn giáo), chống lại sự lùng giết phù thủy và sử dụng sự tra tấn, và nói chung, chống lại mọi hình thức không khoan dung. Ông tranh cãi về sự phụ thuộc vào uy quyền và sự phụ thuộc của triết học nhà trường vào tam đoạn luận [syllogism]. Ông giảng bằng tiếng Đức hơn là bằng tiếng Latinh theo truyền thống hoặc sau này là tiếng Pháp thời thượng, và là người đầu tiên, ở Đức, đã thành lập một Nguyệt san bình dân, tờ Monatsgespräche (Những Đàm luận hàng tháng), viết phần lớn bằng tiếng Đức, dành để phê bình sách. Mặt khác, đặc biệt là khi nói đến những vấn đề về luân lý, ông phần nhiều là một nhà theo truyền thống. Ở đây, ông giữ lại những ý niệm không-Khai minh một cách riêng biệt, nhất là niềm tin vào một ý chí ma quỷ và niềm tin vào tính tất yếu của sự cứu rỗi của Thượng đế.
1.1 Tiểu sử/ Công việc
Qua bối cảnh cuộc đời của Thomasius va Wolff, có điều quan trọng cần ghi chú là nước Đức thế kỷ 18 là một đất nước bị chia cắt thành nhiều tiểu quốc, mỗi tiểu quốc có chính quyền riêng của nó. Không có chính phủ trung tâm nào. Choáng váng vì những tác động của cuộc chiến 30 năm, nhiều tiểu quốc của nó đã không có quyền tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, hoặc, vấn đề là không có một văn hóa “dân tộc”, mặc dù được mang lại từ nhiều chính phủ quốc gia đa dạng, một số tiểu quốc tương đối có nhiều tự do hơn các tiểu quốc khác. Vì thế, việc Christian Thomasius có thể đưa ra sự kêu gọi đến Khai minh vào cuối thế kỷ 17 có vẻ gây ngạc nhiên, dù không hoàn toàn ngạc nhiên là cả Thomasius và Wolff đều qui phục quyền lực chính trị chuyên quyền.
Con trai của luật sư và triết gia Jakob Thomasius, Christian theo học tại đại học Leipzig và văn bằng luật của ông tại đại học Frankfurt an der Oder (miền Đông nước Đức) năm 1679. Ông trải qua phần sự nghiệm thời kỳ đầu nơi quê nhà của ông là Leipzig (trong nước Saxony), như một luật gia và giảng viên (tư) tại đại học ở đó, nhưng những quan niệm gây tranh cãi của ông và cách thức biểu đạt chúng, đặc biệt, trong Nguyệt san Monatsgespräche, đã dẫn đến việc cấm xuất bản và giảng dạy (tư và học thuật) ở Leipzig (và Saxony) năm 1690. Tuy nhiên, ông được chào đón ở thành phố láng giềng và tương đối có tinh thần cởi mở hơn là Halle (thuộc quốc gia Brandenburg / Phổ), và là phương tiện trong việc thành lập đại học ở đó năm 1694. Ông ở lại Halle cho đến hết cuộc đời, từ chối một lời mời trở về Leipzig năm 1709.
Khung công việc của Thomasius có thể phân đại khái thành 3 phần. Trong những năm đầu ở Leipzig , ông quan tâm chủ yếu đến những vấn đề về luật, nhất là, đi theo cha mình, về lý thuyết luật tự nhiên của Pufendorf. Thời kỳ này kết thúc khoảng năm 1688 với việc xuất bản cuốn Institutiones jurisprudentiae divinae [Những thể chế của Luật học thần thánh], trong đó ông tìm cách hoàn tất dự án của Pufendorf về việc tách luật tự nhiên ra khỏi Thần học. Cũng trong năm này, người ta còn thấy ông xuất bản cuốn Introductio ad philosophiam auliam [Dẫn nhập vào Triết học Tòa án], một bản văn có tên gọi được đặt phần nào không đúng, vì nó ít liên quan đến cách cư xử đúng đắn hoặc thậm chí tư tưởng ở tòa hơn là sự sử dụng riêng của lý tính, một chủ đề mà Thomasius hẳn sẽ tiếp tục làm chi tiết hơn nhiều trong cuốn Introduction to the Doctrine of Reason [Dẫn nhập vào Học thuyết về Lý tính] của ông năm 1691.
Nhìn chung, năm 1687–1688 dường như đã đánh dấu một điểm kết tồi tệ và bắt đầu giai đoạn lớn thứ hai, giai đoạn có nhiều tính triết học rõ ràng hơn, trong cuộc đời của Thomasius. Thậm chí dù ông vẫn ở lại Leipzig thêm 2 năm nữa, ông rõ ràng đã chia tay với truyền thống từ năm 1687, khi ông bắt đầu giảng dạy và xuất bản ở Đức. Năm 1688, ông bắt đầu xuất bản Nguyệt san gây tranh cãi Monatsgespräche (số ra hàng tháng từ tháng 4 năm 1690), và chuyển sự quan tâm của mình đến những vấn đề triết học lý thuyết và triết học thực hành. Ở đây, hai loại tập sách, cuốn Einleitung [Dẫn nhập] và Ausübung der Vernunftlehre [Sự áp dụng học thuyết về lý tính], và Einleitung [Dẫn nhập] and Ausübung der Sittenlehre [Sự áp dụng lý thuyết luân lý], xuất hiện ở Halle giữa năm 1691 và 1696 đánh dấu giai đoạn thứ hai trong sự nghiệp của ông. Được viết phần lớn bằng tiếng Đức với một lượng tối thiểu thuật ngữ kỹ thuật, những sách này có ý định không phục vụ cho một giới độc giả chuyên gia, mà thay vào đó, như tiêu đề phụ của cuốn Introduction to the Doctrine of Reason đã chỉ ra, là dành cho một giới độc giả chung gồm “mọi con người có lý tính thuộc bất kỳ vị thế xã hội và giới tính nào…”
Suốt cuối thập niên 1690 (và sau một cuộc khủng hoảng tôn giáo đã dẫn đến ít nhất một sự (tái-)khẳng định tạm thời các niềm tin theo thuyết Pietism của ông), Thomasius đã đưa ra hai tác phẩm về Siêu hình học xác nhận một sự đa dạng huyền học về thuyết Sinh lực (Vitalism). Trong những năm tiếp sau, những quan tâm của ông chuyển trở lại với những vấn đề về luật. Đây là giai đoạn thứ 3 trong cuộc đời của ông và sẽ không được xem xét xa hơn trong bài viết này.
1.2 Triết học
Thế đứng triết học của Thomasius là một thế đứng duy nghiệm, chứ không phải là thuyết Duy lý mà chúng ta nhận thấy ở phần lớn truyền thống triết học và nơi Wolff. Đúng là niềm tin của ông vào lý tính con người tự nhiên và năng lực của nó trong việc tìm kiếm chân lý gợi ra một thuyết Duy lý ôn hòa, nhưng Thomasius căm ghét những ý niệm bẩm sinh và khăng khăng rằng mọi nhận thức, mọi tư tưởng, đều bắt đầu với sự tri giác cảm giác. Thuyết duy cảm [sensationism] mạnh mẽ này (có những điểm tương tự với lập trường của Locke) được nối kết, như đã chú thích, với một thế đứng Khai minh, theo nghĩa là nó bị chi phối bởi sự xác tín rằng nhận thức, chân lý và luân lý là nhãn quan của mọi người, chứ không chỉ của một ít người ưu tú. Cái sau đặc biệt nổi rõ trong sự dị biệt hóa giữa Gelehrtheit [Giới học giả] với Gelahrtheit [Giới học nghề] mà ông đã đưa ra ngay đầu cuốn Introduction to the Doctrine of Reason. Gelehrtheit hay giới học giả là lĩnh vực của các chuyên gia quen thuộc với Logic học tam đoạn luận, siêu hình học, nhận thức luận và thần học, nhưng Gelahrtheit hay giới học nghề là có giá trị đối với tất cả những ai có một lý tính lành mạnh đang theo đuổi nhận thức không vì chính nhận thức mà vì giá trị sử dụng của nó trong đời sống hàng ngày.
Những sự xác tín Khai minh của Thomasius cũng rõ ràng giống vậy trong thuyết Tinh tuyển [Electicism] của ông. Dù nhìn chung được xem là một thế đứng tiêu cực, nhưng điều này không đúng với Thomasius. Ông xem xét nó một cách tích cực như một cái hiệu chỉnh đối với mọi hình thức thuyết giáo điều bè phái. Qua nghiên cứu riêng của mình, ông chịu ảnh hưởng bởi nhiều người tiền bối của ông, nổi tiếng ở Đức là Grotius và Pufendorf, và ở Anh là Hobbes và Locke, và ông rút ra từ những lý thuyết của họ mà ông thấy là có ích cho mục tiêu tổng thể của mình những phương diện như sau: sự mở rộng của nét đặc biệt của Khai minh, ở đây được hiểu như dự án đảm bảo cho một lý tính lành mạnh, một dự án có thể khám phá ra chân lý, có thể tách ra những mâu thuẫn và đấu tranh chống lại những thành kiến.
Cứ cho là những tiền giả định cơ bản của Thomasius về nơi mà nhận thức có vẻ như được tìm thấy (tức trong cuộc sống hàng ngày hơn là nơi sự tư biện trừu tượng) và về người có vẻ có khả năng nhất trong việc đạt đến được nó (tức người có một lý tính lành mạnh, chứ không phải một người bị suy đồi bởi những thành kiến), thì có vẻ như không ngạc nhiên gì là nhận thức luận của ông không phải là một nhân thức luận lý thuyết. Hai tác phẩm của ông về triết học lý thuyết, cuốn Introduction to the Doctrine of Reason và Application of the Doctrine of Reason, đều là những cuốn sách bàn về chân lý. Tuy nhiên, chúng không phải là những sách bàn về chân lý theo nghĩa truyền thống. Thomasius không phát triển một quan niệm triết học về chân lý hay về điều kiện cho khả thể của nó. Ông dường như đã đơn thuần nuôi dưỡng một lý thuyết tương hợp về chân lý và đã xem sự hài hòa của tư tưởng và sự vật như một điều cho sẵn. Chắc chắn, sự hài hòa ấy không phải là vấn đề đối với ông như nó là vấn đề cho tư tưởng thế kỷ 17 và sau này lần nó sẽ lại là vấn đề cho nửa sau thế kỷ 18 (với Wolff, Knutsen và Kant). Điều có ý nghĩa với Thomasius là thuyết Lạc quan Khai minh cho rằng chân lý là có thể có và hơn nữa là mọi người ai cũng tiếp cận được. Vì vậy, cuốn Introduction của ông được viết ra như đã nói rõ qua tiêu đề phụ của nó, là đưa ra phương tiện mà qua đó “mọi con ngưới có lý tính, thuộc bất kỳ vị thế xã hội và giới tính nào, đều được chỉ ra theo một cách thái có thể hiểu được, và không cần sự trợ giúp của các tam đoạn luận, về việc làm thế nào dị biệt hóa giữa cái Đúng, cái Có thể và cái Sai, và cách tìm kiếm những chân lý mới”. Đây chính là một cuốn sách hướng dẫn sự sử dụng lý tính lành mạnh một cách riêng và đúng đắn.
Cuốn Application của ông tiếp tục chủ đề này, dù lần này là bằng việc mang lại cho mọi người phương tiện tránh sai lầm. Tránh sai lầm bao hàm việc loại bỏ những thành kiến vốn là những nguyên nhân gây ra sự suy đồi của lý tính. Điều này, đến lượt, được hoàn tất thông qua cái mà ông nhận diện như sự hoài nghi giáo điều, chứ không phải hoài nghi kiểu Descartes vốn xem mọi thứ là sai lầm cho đến khi tìm thấy một nguyên tắc đầu tiên không thể hoài nghi được, mà theo Thomasius đó là một công việc vô ích. Hoài nghi giáo điều là hoài nghi về những sự vật, những niềm tin, và những tư kiến đặc thù, và đây là điều mà ông đã tìm thấy có ích và lành mạnh để phòng tránh sai lầm.
Tuy nhiên, những sự xác tín Khai minh của Thomasius không xuất hiện thẳng ra như nó có thể. Ông thực sự tin vào năng lực của lý tính tự nhiên để vuợt qua sự suy đồi, nhưng thậm chí như ông đã trung thành với quan niệm này, ông tin rằng một ý chí ma quỷ sẽ nằm tại gốc rễ của sự suy đồi ấy, và [do đó] chúng ta cần đến ân sủng của Thượng đế. Sự xung đột này đặc biệt rõ trong triết học luân lý của ông. Trong khi sự trình bày lần đầu của ông là một sự khẳng định lạc quan về khả năng tồn tại (viability) của một lập trường luân lý, ông đã nhận diện một tình yêu chứa đựng “tình yêu thuần lý” (vernünftige Liebe) như phương tiện duy nhất để đi đến một “cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc và nhã nhặn”, như được chỉ ra trong tiêu đề phụ của cuốn Introduction to Moral Theory năm 1696, ông đã trở nên mất hứng thú với quan niệm này. Tính vị lợi của con người và một ý chí ma quỷ vẫn chắn ngang con đường của nó.
Lý thuyết luân lý của Thomasius là một lý thuyết về ý chí. Ông tin rằng trong những vấn đề luân lý, ý chí thống trị lý tính. Dù con người có tự do lựa chọn nếu không bị hạn chế từ bên ngoài, ý chí là không tự do. Đúng hơn, nó bị thống trị bởi những tác động của con người: những đam mê, xung lực và ham muốn của ta. Giống như Hobbes, Thomasius tin rằng dù qui phục trước những hạn chế bên trong (tâm lý), ý chí vẫn lựa chọn (nhờ sự trợ giúp của lý tính); nó muốn một cách có ý thức. Và một lựa chọn có ý thức chính là cái cần được đòi hỏi cho một hành động (tốt) để được xem là có luân lý, một bản năng tốt hoặc những xu hướng tốt có thể làm chúng ta trở nên tốt, thậm chí có thể đáng ham muốn, nhưng tự nó, điều này không đủ để làm chúng ta có luân lý. Luân lý đòi hỏi một hành vi có ý thức của ý chí. Vấn đề với luân lý nảy sinh vì ý chí bị qui định bởi những ham muốn xấu, đặc biệt là tính dâm dục, tham vọng và thói hám lợi. Mặc dù cũng có những tình cảm thanh cao cũng ảnh hưởng giống như vậy đến ý chí, chúng xung đột với những tâm thế tiêu cực. Sự xung đột có thể được mang đến một kết luận tích cực chỉ bằng việc viện đến ân sủng thần thánh (tức sự cứu rỗi của Thượng đế).
Ngoài sự mập mờ nước đôi và sự quay trở lại với Thần học, lập trường luân lý của Thomasius là một lập trường thú vị. Lý thuyết về tình yêu thuần lý được đặt cơ sở trên tính bình đẳng nền tảng của con người cũng như năng lực của họ trong việc suy tưởng và lựa chọn một cách độc lập (với uy quyền). Cuối cùng, đạo đức học của Thomasius là một đạo đức học xã hội. Lý thuyết ấy được định hướng đến người khác (other-directed), và được mang lại sự khiếm diện của các luật và các nguyên tắc, cấu tạo nên một sự tương phản đẹp với đạo đức học phổ quát luận hình thức luận của Kant vốn sẽ được phát triển vào cuối thế kỷ tiếp sau. Cùng lúc, sự thiếu mọi cách thức để làm cho lý thuyết này có thể áp dụng được trong một ngữ cảnh bị chi phối không phải bởi những sự quan tâm giống như vậy mà thay vào đó là bởi những sự quan tâm có tính xung đột, tạo ra cái gì đó như là một đạo đức học hình thức luận, một tính không thể tránh được. Cuối tác phẩm Introduction to Moral Theory, thậm chí Thomasius còn thừa nhận rằng “tình yêu thuần lý” sẽ thực hiện chức năng chỉ trong những ngữ cảnh hài hòa tương đối, trong những ngữ cảnh khác, nhất là những ngữ cảnh được đặc trưng bởi những lập trường quyền lực bất bình đẳng, thì sự công bằng rất có thể sẽ được đạt đến.
2. Christian Wolff (1679–1754)
Không nghi ngờ gì là Christian Wolff là triết gia Đức quan trọng nhất thời kỳ đầu và giữa thế kỷ 18. Đối với tinh thần của ông, không thỏa mãn với thuyết Tinh tuyển chuyên quyền được Thomasius và “trường phái” của ông ủng hộ, và không thỏa mãn cũng bằng như vậy với siêu hình học kinh viện trường ốc mà ông nghĩ là thiếu sự nghiêm ngặt, ông đã đưa ra một hệ thống triết học có hệ thống để đáp trả lại. Thực tế, triết học của ông được cho là đã tạo ra tổng thể có hệ thống gắn kết nhất có được trong thế kỷ 18 trước Kant. Với tư cách là một nhà tư tưởng Khai minh, dù cũng là một nhà duy lý, ông, giống như Thomasius, đã tận tâm với sự giáo dục công. Ông xem triết học, được ông quan niệm như sự hiền minh-thế giới (Welt-Weisheit), như phương tiện để khai minh công khai và, theo cùng tâm thức của thời đại, nhãn quan của mọi nguời, chứ không chỉ của các triết gia hay các chuyên gia. Để làm cho triết học có thể tiếp cận được, ông viết bằng tiếng Đức, ít nhất là trong suốt những năm ở Halle , và giới thiệu phần lớn thuật ngữ triết học tiếng Đức mà ngày nay vẫn còn được sử dụng (như khái niệm Bewußtsein, Vorstellung, và Begriff có nguồn gốc của chúng ở đây).
2.1 Tiểu sử/ Công việc
Nơi sinh của Wolff là Breslau (lúc đó nằm ở miền Đông nước Đức, bây giờ là Phần Lan). Ngay từ sớm, bất mãn với thần học chính thống, ông đã chuyển qua nghiên cứu toán học như đưa ra phương tiện tốt nhất cho sự chắc chắn. Ông nghiên cứu thần học và toán học tại Đại học Jena và đạt bằng Tiến sĩ ở Leipzig năm 1702. Chịu ảnh hưởng bởi von Tschirnhaus và trong khi làm việc tại Leipzig như một giảng viên tư, ông viết một luận văn tìm cách áp dụng phương pháp toán học cho những vấn đề triết học thực hành. Điều này làm cho Leibniz chú ý đến ông. Họ bắt đầu trao đổi thư từ cho đến khi Leibniz qua đời năm 1716. Được Leibniz và von Tschirnhaus bảo trợ, ông được bầu làm Giáo sư toán học và Khoa học tự nhiên tại Đại học Halle năm 1707.
Vì chức vụ của ông ở Halle chủ yếu là như một giảng viên toán – một công việc vốn là sở trường của ông – Wolff không bắt đầu giảng và viết về những vấn đề triết học cho mãi đến năm 1710. Trong Toán học, ông soạn các sách giáo khoa, một lịch sử 4 tập về toán học năm 1710 và một từ điển toán học năm 1711. Những bài giảng triết học của ông lúc đầu là những sự trình bày về triết học Leibniz, đã dẫn những đối thủ của ông (những đại diện là “trường phái” Thomasius) đồng nhất triết học của ông như triết học Leibniz-Wolff, một tên gọi vẫn được giữ lại bất chấp sự phản đối của ông. Ông bắt đầu một chuỗi mở rộng những ấn bản, bằng tiếng Đức và thường được xem như những tác phẩm Đức của ông, về những chủ đề triết học – “German Logic” [Logic học Đức] năm 1713, “German Metaphysics” [Siêu hình học Đức] năm 1719, “German Ethics” [Đạo đức học Đức] năm 1720, “German Politics” [Chính trị học Đức] năm1721, “German Cosmology” [Vũ trụ học Đức] năm 1723, và “German Theology” [Thần học Đức] năm 1724, cùng với vô số bài luận ngắn. Sau khi gặt hái được thành công của ông như một thầy giáo và danh tiếng của ông như một tác giả, ông đạt được danh tiếng nổi bật ngày càng tăng ở Halle, nhiều điều đã gây mất tinh thần cho những “nhà Thomasius” vốn đã ngự trị sự hướng dẫn triết học ở đó. Điều đã không đóng góp cho một mối quan hệ đại học êm ái là Wolff không thích triết học tinh tuyển của Thomasius và ông không che giấu sự không thích của ông. Những vấn đề đã lên đến cao trào năm 1721 khi thủ đoạn chính trị nào đó về phía phần các đối thủ của ông (những “nhà Thomasius” và những nhà Pietism) có vẻ như bị kích động bởi danh tiếng ngày càng tăng của chính ông và việc các sinh viên yêu mến ông, cùng với với nhân cách khó tính rành rành của ông, đã khiến ông làm cho hoàng đế, Friedrich Wilhelm I, ở Berlin để ý, và vị hoàng đế đã trục xuất ông khỏi nước Phổ năm 1723 với lời đe dọa sẽ treo cổ ông.
Sau khi được mời lúc đầu đến Đại học Marburg , ông đã nhận vị trí ở đó. Vào thời gian ấy, Marburg là một nơi chốn có tính cộng đồng thế giới hơn Halle , và lúc này Wolff có sinh viên đến từ nhiều quốc gia khác. Ông xem mình như phát ngôn cho các nước châu Âu, chứ không chỉ cho nước Đức, và bắt đầu viết bằng tiếng Latinh. Thực tế, ông viết một loạt sách thứ hai, bằng tiếng Latinh và được xem như các tác phẩm tiếng Latinh của ông, xem xét lại cùng nội dung chủ đề mà ông đã xử lý trong các văn bản tiếng Đức của ông, nhưng chi tiết hơn. Dù nhiều tính kinh viên hơn các văn bản tiếng Đức trước đây, các sách này đã đóng góp vào danh tiếng của ông trong một ngữ cảnh rộng hơn nhiều (châu Âu hơn là nước Đức). Năm 1733, Friedrich Wilhelm I mời ông quay lại nước Phổ, nhưng Wolff đã từ chối lời mời này. Ông ngày càng trở nên có uy tín tốt, đến nỗi một chỉ thị nội các năm 1739 đã yêu cầu các ứng cử viên cho chức bộ trưởng phải nghiên cứu các sách của Wolff, nhất là Lôgic học của ông. Nói ngắn gọn, người ta có thể thấy các nhà Wolff và các hội Wolff ở khắp nơi, thậm chí ở nước Phổ. Năm 1740, Frederick the Great triệu tập ông trở về nước Phổ, đề nghị một chức thành viên vĩnh viễn trong Học viện Berlin. Thay vì chấp nhận lời mời đến Berlin , ông đã quay về Halle với sự ca ngợi hết mức và sự tán thành của công chúng. Tuy nhiên, đối với sự thất vọng của ông, tâm thức ở Halle đã thay đổi, những nhà Wolff ở đó, đặc biệt là Baumgarten, đã bắt đầu phát triển tư tưởng của ông, và các bài giảng của ông đã không thành công. Sau khi than phiền về chất lượng kém cỏi của các sinh viên, ông ngừng giảng nhưng vẫn tiếp tục viết.
2.2 Triết học
Wolff không phải là một triết gia nguyên nghĩa, mà là một nhà hiện đại hóa và nhà hệ thống hóa. Thay vì phản bác thẳng thừng triết học kinh viện trường ốc, như Thomasius đã làm, ông đã hiện đại hóa và hệ thống hóa nó (và triết học như một cái tổng thể). Hệ thống hóa triết học có nghĩa là tích hợp những ý niệm khác nhau từ truyền thống triết học – khái niệm của Descartes về bản thể, chẳng hạn, và lý thuyết của Leibniz về sự hài hòa tiền-định (pre-established). Nhưng trong khi có tính tinh tuyển theo nghĩa này, không giống tư tưởng của Thomasius, tư tưởng của Wolff là mọi thứ trừ tính chuyên chế. Đúng hơn, ông nối kết những nguyên liệu ấy thành một hệ thống bao quát dựa trên mô hình toán học. Toán học, theo Wolff, là một khoa học có hệ thống thao tác bằng định nghĩa và sự chứng minh tam đoạn luận, và đây là phương pháp mà ông nhằm làm cho có thể áp dụng được vào triết học. Trong triết học, phương pháp ấy bị đem ra theo một cách thức phân tich/ tổng hợp được nối kết. Các định nghĩa được đạt đến một cách phân tích – sự phân tích là thuộc về những vấn đề thường nghiệm và phải truyền tải những ý niệm đơn giản thông qua một tiến trình của sự làm sáng tỏ, trừu tượng hóa và phân tích. Những tiến trình này sau đó được nối kết thành các định nghĩa. Các định nghĩa phải đóng chức năng như những nguyên liệu trong các tam đoạn luận vốn quay trở lại, bằng sự tổng hợp, đến xuất phát điểm thường nghiệm, dù có lẽ ngày nay nó được hiểu tại sao các sự vật như chúng là, một sự hiểu biết, đối với Wolff, là mục tiêu của triết học.