Triết học các nước Tây Âu thời trung cổ

Bút Nghiên

ButNghien.com
Triết học các nước Tây Âu thời trung cổ

1. Điều kiện kinh tế - xã hội và đặc điểm của triết học Tây Âu thời Trung cổ
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội

Triết học thời kỳ Trung cổ ở Tây Âu xuất hiện và phát triển bắt đầu từ khoảng thế kỷ thứ V đến thế kỷ XV - tức là trong khoảng một ngàn năm lịch sử với những đặc điểm kinh tế - xã hội nổi bật.

Vào thế kỷ V, những cuộc nổi dậy của nô lệ và những cuộc đấu tranh giai cấp bên trong cùng với sự tiến công của những man tộc bên ngoài đã đưa tới sự sụp đổ của đế quốc La Mã phương Tây. Chính những sự kiện đó đã dẫn đến kết quả chấm dứt hình thái kinh tế - xã hội nô lệ cổ đại, và chế độ phong kiến Tây Âu ra đời.

Nền kinh tế trong xã hội phong kiến mang tính chất tự nhiên, tự cấp, tự túc. Bởi vì, sản phẩm làm ra chỉ nhằm giải quyết các nhu cầu của các công xã và thái ấp. Các thái ấp là một thế giới đóng kín; quyền chiếm hữu ruộng đất và tư liệu sản xuất cũng như sản phẩm làm ra không hoàn toàn thuộc về người lao động (nông dân hay nông nô) mà thuộc về giai cấp địa chủ phong kiến. Vì vậy, phong trào đấu tranh của nông dân lao động, thợ thủ công, dân nghèo thành thị chống bọn phong kiến và tầng lớp bóc lột khác là một nội dung chủ yếu của lịch sử xã hội phong kiến.

Trong thời đại phong kiến, tôn giáo và thần học là hệ tư tưởng thống trị trong đời sống tinh thần của xã hội. Tôn giáo đã bắt những hình thái khác của của ý thức xã hội phải phụ thuộc vào nó. Ăng-ghen viết: "Nhà thờ với việc chiếm hữu ruộng đất theo lối phong kiến của nó là mối liên hệ thực tế giữa các nước khác nhau; tổ chức nhà thờ theo lối phong kiến đã dùng tôn giáo để bảo vệ nhà nước phong kiến quý tộc. Thêm vào đó, giáo sỹ là giai cấp độc nhất có học thức. Do đó mà tín điều của nhà thờ tất nhiên là yếu tố xuất phát và là cơ sở của mọi sự suy nghĩ. Pháp luật, khoa học tự nhiên, triết học - tất cả nội dung của các khoa học đó đều được trình bày sao cho phù hợp với học thuyết của nhà thờ. Vai trò của tôn giáo biểu hiện đặc biệt ở chỗ nó làm chủ ý thức của quần chúng nhân dân và dùng sự áp bức về tinh thần của nó để ủng hộ sự bóc lột tàn tệ của bọn phong kiến. Điều đó giải thích vì sao giai cấp nông dân hết sức đông đảo nhưng "tối tăm về trí tuệ" và bị tước hết mọi quyền hành”.

Về trình độ văn hoá, khoa học và kỹ thuật trong thời kỳ này bước đầu đã có sự phát triển, tuy còn chậm chạp. Những cuộc tấn công của thập tự quân đã giúp cho phương Tây hiểu biết văn hoá phương Đông. Thiên văn học và toán học phát triển khá mạnh vào thế kỷ XIII; cơ học, vật lý học, hoá học hình thành mà tiêu biểu là Lêônarơ Phibômátchi, Anbécphôn Bônstết, Rôgie Bêcơn.

Như vậy, sự thay thế chế độ chiếm hữu nô lệ bằng chế độ phong kiến, ở thời kỳ đầu xét về mặt phát triển triết học và văn hoá có sự thụt lùi so với thời kỳ cổ đại, song xét trên bình diện toàn thể thì đã có những tiến bộ lịch sử nhất định. Đó là thời kỳ chuẩn bị cho một nền văn minh mới, chuẩn bị cho lịch sử tương lai của châu Âu về khoa học và văn hoá, tạo cơ sở cho sự ra đời những "bộ tộc hiện đại".

1.2. Những đặc điểm triết học Tây Âu thời Trung cổ
Thứ nhất, sự phát triển của những tư tưởng triết học các nước Tây Âu thời Trung cổ bị chi phối rất mạnh bởi tư tưởng tôn giáo và thần học của thiên chúa giáo.

Theo Ăngghen, trong thời kỳ Trung cổ ở Tây Âu, triết học chỉ là "đầy tớ", "con sen" cho thần học. Bởi vì, nhiệm vụ của triết học là giải thích đúng đắn và chứng minh về mặt hình thức cho những tín điều tôn giáo do nhà thờ thiên chúa giáo thống trị, đứng đầu là Giáo hoàng La Mã đặt ra.
Đây là thời kỳ lịch sử mà tiếng nói "trí tuệ và lương tri nhân loại" bị áp đảo bởi sự tuyên truyền của giáo hội về đức tin nơi Thiên chúa. Đây cũng là thời kỳ các nhà thần học được phép tuyên bố rằng mọi tri thức của nhân loại đều có thể rút ra từ Kinh thánh (Cựu ước và Tân ước); rằng tất cả những gì trái với kinh thánh đều đáng nguyền rủa và xử tội.

Thứ hai, sự tồn tại và phát triển mạnh mẽ của tư tưởng triết học kinh viện (chủ nghĩa kinh viện) cũng là một nét nổi bật của thời kỳ Trung cổ ở Tây Âu; chủ nghĩa kinh viện với tư cách là một trường phái triết học - một thứ triết học "nhà trường", "sách vở". Nghĩa là, một thứ triết học đặt ra và giải quyết các vấn đề xa rời thực tế cuộc sống.

Những căn cứ để triết học kinh viện "luận chứng" chính là những tín điều trong các cuốn kinh thánh của đạo Thiên chúa, chứ không phải là những kiến thức khoa học, không phải là thực tiễn quan sát và thí nghiệm của khoa học như giai đoạn sau này, cũng không phải là thực tiễn kinh tế xã hội hiện thực. Bởi vậy, những luận chứng của nó mang tính "sáo rỗng" hình thức mà thiếu đi nội dung hiện thực của cuộc sống sinh động. Triết học kinh viện là triết học chính thức của giai cấp phong kiến, đã kìm hãm sự phát triển của khoa học và triết học duy vật.

Thứ ba, cuộc đấu tranh giữa hai phái Duy thực và Duy danh cũng là đặc trưng của tư tưởng triết học Trung cổ Tây Âu. Xét đến cùng, cuộc đấu tranh này phản ánh ít nhiều hai xu hướng triết học đối lập nhau: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.

Phái Duy thực luận chứng về mặt triết học sự tồn tại có thật, duy nhất của cái chung; còn phái Duy danh thì ngược lại, chứng minh cho sự tồn tại duy nhất, có thật của cái riêng. Phái Duy danh có khuynh hướng duy vật, phái Duy thực lại có xu hướng duy tâm về triết học.

2. Một số học thuyết triết học của các triết gia tiêu biểu thời Trung cổ
2.1. Ôguýtxtanh (354-430)


Ông sinh ở Taglít (Bắc Phi), nay thuộc Angiêri; là giáo chủ, nhà văn, nhà triết học. Ông viết một loạt tác phẩm: "Sự thú tội", "Về thành đô của Thượng đế", "Về những tà đạo", "Về sự bất tử của linh hồn", "Chống các nhà hàn lâm viện "v.v.

Tư tưởng cơ bản trong học thuyết triết học của ông là: Toàn bộ thế giới là do Thượng đế sáng tạo ra và được nhận thức bởi thượng đế. Thượng đế có sức mạnh vạn năng, có quyền lực tuyệt đối; thượng đế là "Bác sĩ của trái tim mình". ý chí của con người là tự do, song nằm trong giới hạn tiền định của Thượng đế; quá trình nhận thức của con người là quá trình nhận thức của Thượng đế. Thượng đế là chân lý tối cao.

Theo Ôguýtxtanh, chỉ có ơn huệ tối cao của "Thượng đế, mà đại biểu trên trái đất là giáo hội mới cứu vớt được đời sống tương lai. Bởi vì, toàn bộ lịch sử là cuộc đấu tranh giữa những người theo thần linh để củng cố "Thành phố thần thánh" và những người theo quỷ dữ để tổ chức ra "thành phố trần gian". Vì vậy phải có uy thế của quyền lực tinh thần đối với quyền lực thế tục, cần có uy quyền thế giới của giáo hội.

Ôguýtxtanh cho rằng: Đời sống trần gian là "tội lỗi" và tạm thời; còn đời sống hạnh phúc "vĩnh hằng" là thế giới bên kia mỗi; con người là kẻ bộ hành tạm thời trên trái đất. Giới tự nhiên, vật chất là đáng khinh bỉ; người ta càng chóng thoát khỏi xiềng xích của nó thì càng chóng đạt tới hạnh phúc.
Tuy nhiên, trong quan điểm triết học của Ôguýtxtanh cũng bộc lộ những mâu thuẫn không thể giải quyết được. Một mặt, ông thừa nhận Thượng đế sáng tạo ra tất cả; nhưng mặt khác ông lại cho rằng "không có Thượng đế trong các sự vật cảm biết". Thí dụ, khi quan sát giới tự nhiên thấy vẻ đẹp của thân thể, sự rực rỡ của ánh sáng, sự dịu dàng của âm điệu, mùi thơm của hoa lá v.v. ông cho rằng nó không được đánh giá bởi Thượng đế. Ôguýtxtanh cũng gặp phải mâu thuẫn không giải quyết được từ lập trường tôn giáo về vấn đề tự do ý chí của con người. Nếu thừa nhận con người không có tự do ý chí thì có nghĩa là con người vô tội và trong sạch. Vì vậy, ông đi đến khẳng định: ý chí của con người là tự do, nhưng chỉ trong giới hạn tiền định của Thượng đế.

Về lý luận nhận thức, Ôguýtxtanh gắn liền với thần học. Ông cho rằng quá trình nhận thức của con người là quá trình nhận thức Thượng đế. Và nhận thức Thượng đế chỉ đạt được bởi lòng tin tôn giáo. Cho nên cần phải tin để mà hiểu và cần phải hiểu để mà tin. Khi giải quyết vấn đề chân lý, ông cho rằng con người không cần đi khỏi tâm hồn mình; trong tâm hồn con người đã chỉ ra chân lý tối cao và từ chân lý tối cao mà nảy sinh ra mọi chân lý. Thượng đế là chân lý tối cao.

Tóm lại, Ôguýtxtanh là nhà triết học ra sức bảo vệ tôn giáo, chống khoa học và triết học duy vật.

2.2. Giăngxicốt Ơrigiennơ (810 - 877)

Là người Ai Len, là một trong những nhà tư tưởng nổi tiếng thời Trung cổ, là người theo chủ nghĩa duy thực triệt để. Ông viết một loạt tác phẩm nổi tiếng như: "Về sự tiền định của Thượng đế", "Về sự phân chia giới tự nhiên" v.v.

Trong triết học của Ơrigiennơ nổi lên một số vấn đề sau:

Triết học của ông là một hệ thống duy tâm tìm cách kết hợp chủ nghĩa Pla-tôn với Thiên chúa giáo. Ông nói; "Triết học chân chính và tôn giáo chân chính là một". Trung tâm trong học thuyết của ông là chứng minh cho sự tồn tại và vai trò tối cao của Thượng đế đối với đời sống con người và giới tự nhiên.Theo ông, bản thân quá trình thế giới là sự giáng thế liên tục của Thượng đế. Như vậy đó đã bao hàm những nhân tố phiếm thần luận. Trong tác phẩm "Về sự phân chia giới tự nhiên", ông đã chia sự phát triển của giới tự nhiên qua 4 giai đoạn: Giai đoạn một, giới tự nhiên biểu hiện như là vật vừa được sáng tạo - đó là "con" của Thượng đế - là kẻ trung gian giữa Thượng đế và thế giới; giai đoạn hai, giới tự nhiên biểu hiện như là vật vừa sáng tạo, vừa được sáng tạo. Giai đoạn ba, giới tự nhiên biểu hiện như là vật được sáng tạo - đó là thế giới các sự vật cụ thể, thế giới muôn loài trong đó có con người; giai đoạn bốn, giới tự nhiên biểu hiện là vật không phải sáng tạo, cũng không được sáng tạo - đó là Thượng đế, nhưng ở đây Thượng đế được xem như mục đích của quá trình thế giới.

Triết học của G. Ơrigiennơ đã trình bày mối quan hệ giữa lòng tin và lý trí - một vấn đề trung tâm của triết học Trung cổ. Theo ông, giữa lòng tin và lý trí là hoàn toàn có thể dung hợp được; nếu phủ nhận lý trí đề cao tôn giáo hoặc đề cao lý trí phủ nhận tôn giáo đều là nguy hiểm cho nhà thờ.

Về nhận thức luận, ông cho rằng cái chung có trước cái riêng và cơ sở của cái riêng; cái chung là cái bản chất của sự vật; bởi vì các sự vật đều bắt nguồn từ cái chung và cái chung chứa đựng các sự vật bên trong.
Như vậy, toàn bộ học thuyết của G. Ơrigiennơ là sự tiếp tục của quan điểm Platôn dưới hình thức mới. Tuy nhiên, tất cả những điều đó đã làm cho phái tôn giáo chính thống nghi ngờ những tác phẩm của ông và cuối cùng những tác phẩm của ông bị chính thức kết án là "những tà thuyết nguy hiểm" cổ vũ "Phái dị giáo" nên đã bị đốt.

2.3. Pie Abơla (1079 -1142)

Là người Pháp, giảng viên nổi tiếng ở các trường đại học Pa-ri. Ông là người theo chủ nghĩa duy danh.

Trong việc giải quyết mối quan hệ giữa lòng tin và lý trí, ông đề cao vai trò của lý trí: Lòng tin phải lấy lý trí làm cơ sở. Bởi vì, theo ông, nguyên lý xuất phát là "hiểu để mà tin", và lý trí cho ta những phương tiện chính xác để vạch ra toàn bộ nội dung của chân lý tôn giáo và câu trả lời đúng đắn về một tín điều tôn giáo nào đó là xác đáng hay không xác đáng. Nhiệm vụ của sự tìm kiếm triết học là vạch ra và lập luận chân lý, bởi lẽ "sự linh cảm" không thể là tiêu chuẩn cho tính chân lý của các thành quả của lý trí, trái lại lý trí mới bảo đảm cho những điều linh cảm.

Pie Abơla cho rằng: Khái niệm chung không tồn tại bên ngoài sự vật cụ thể, không có đời sống độc lập, nhưng nó không tồn tại trong bản thân các sự vật; khái niệm chung cũng không nằm trong bản thân từ ngữ, mà nằm trong ý nghĩa của từ ngữ.

Như vậy, triết học của Pie Abơla ở mức độ nhất định đã báo hiệu sự xuất hiện một khoa học thực nghiệm của giai đoạn mới, phần nào xa lìa tín điều chính thống của nhà thờ. Nhà thờ gọi ông là kẻ "chống chúa trời", là kẻ tà đạo.

2.4. Tômát Đacanh (1225 - 1274)
Sinh ở Italia, là nhà thần học, nhà triết học kinh viện nổi tiếng; Ngoài ra ông còn nghiên cứu những vấn đề pháp quyền đạo đức, chế độ nhà nước và kinh tế. Triết học của ông được đạo Thiên chúa coi là triết học duy nhất đúng đắn và lấy làm hệ tư tưởng của mình.

Tômát Đacanh coi đối tượng của triết học là nghiên cứu "chân lý của lý trí", còn đối tượng của thần học là nghiên cứu "chân lý của lòng tin tôn giáo”. Giữa triết học và thần học không có mâu thuẫn, vì Thượng đế là khách thể cuối cùng của triết học và thần học, nhưng triết học thấp hơn thần học, giống như lý trí con người thấp hơn "lý trí của thần".

Trong những tác của mình, Tômát Đacanh đã nêu lên học thuyết về bản chất và tồn tại. Sự tồn tại của Thượng đế đã được chứng minh trên cơ sở tồn tại của thế giới vật chất do Thượng đế sáng tạo ra. Theo ông, giới tự nhiên và trật tự của nó, sự phong phú và hoàn thiện của nó đều do trời tạo ra "từ hư vô", đều được quyết định bởi sự thông minh của trời. Mọi cái trên thế giới đều sắp xếp theo các bậc thang tôn ty trật tự, bắt đầu các sự vật không có linh hồn, tiến qua con người tới các thiên thần, các thánh, và sau cùng đến bản thân chúa trời. Mỗi bậc ở dưới đều cố gắng đạt tới bậc trên; còn toàn bộ hệ thống thì mong muốn tiến tới chúa trời. Do đó chúa trời, Thượng đế là mục đích tối cao, là "quy luật” vĩnh cửu đứng trên mọi cái, thống trị mọi cái, là hình thức thuần tuý tước bỏ vật chất, là nguyên nhân tác động cuối cùng của thế giới. Con người cũng do Chúa trời tạo ra "theo hình dáng của mình", sống trên trái đất - trung tâm của vũ trụ. Mọi cái trong tự nhiên đều thích ứng với con người như thế nào là do chúa trời quy định. Tômát Đacanh còn khẳng định rằng: Đẳng cấp của mỗi người trong xã hội là do trời sắp đặt, nếu người nào vươn lên cao hơn đẳng cấp của mình là có tội. Chính quyền, nhà vua là do "ý trời", thân xác con người phải phục tùng chính quyền nhà vua còn quyền lực tối cao bao trùm hết thảy thuộc về giáo hội.

Tômát Đacanh đứng trên lập trường duy thực ôn hoà để giải quyết vấn đề bản chất của cái chung. Ông cho rằng, cái chung tồn tại trên ba phương diện; Thứ nhất, cái chung tồn tại trước sự vật, trong trí tuệ chúa trời như là mẫu mực lý tưởng của các sự vật riêng lẻ. Thứ hai, cái chung được tìm thấy trong các sự vật, nó chỉ tồn tại khách quan khi nó chứa đựng các sự vật riêng lẻ. Thứ ba, cái chung được tạo ra bằng con đường trừu tượng hoá của trí tuệ con người từ các sự vật riêng lẻ.

Về lý luận nhận thức, Tômát Đacanh cho rằng nhận thức diễn ra trong chủ thể nhờ tiếp thu ở khách thể những gì giống với chủ thể, chứ không phải mọi tồn tại của khách thể đều được tiếp thu; đó là hình ảnh của sự vật, chứ không phải bản thân sự vật. Ông đã chia "hình dạng" thành hình dạng cảm tính và hình dạng lý tính, trong đó hình dạng lý tính cao hơn hình dạng cảm tính. Bởi vì, nhờ nó ta mới biết được cái chung chứa đựng nhiều thực thể riêng biệt, còn hình dạng cảm tính cũng có vai trò quan trọng, bởi vì, nhờ nó cảm giác trở nên cảm thụ tích cực.

Như vậy, lý luận nhận thức của Tômát Đacanh áp dụng học thuyết về "hình dạng" của Arixtốt; là một bước tiến trong triết học kinh viện Trung cổ. Tuy nhiên, nó chỉ khôi phục về hình thức học thuyết của Arixtốt, chứ nó không lấy cái sinh khí, cái sống động, sự tìm tòi chân lý trong học thuyết của Arixtốt.

Về quan điểm chính trị - xã hội, ông tuyên truyền cho sự thống trị của nhà thờ đối với xã hội và coi cuộc sống trần gian là sự chuẩn bị cho cuộc sống tương lai ở thế giới bên kia.

2.5. Rôgiê Bêcơn (khoảng 1214 - 1294)
Là người Anh, một tu sĩ đã phải sống 14 năm trong các nhà giam của Giáo hội. Ông đóng một vai trò là người đi tiên phong trong khoa học thực nghiệm của thời đại mới. Triết học của Rôgiê Bêcơn cũng đóng một vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống triết học kinh viện; chống giáo hội, lên án bọn giáo sỹ và sự áp bức của giai cấp phong kiến, bênh vực quyền lợi của nhân dân; song không chống tôn giáo nói chung. Ông cho rằng: "Những sự đồi trụy nhất đã thống trị, ở mọi nơi “, ngôi thiêng đã trở thành chiến lợi phẩm của sự lừa dối"; "bọn công tước, nam tước ... là những kẻ cướp bóc lẫn nhau, huỷ hoại thần dân, thuế khoá nặng nề" ...
Rôgiê Bêcơn đã đưa ra quan niệm mới về đối tượng của triết học. Theo ông, triết học là khoa học lý luận chung giải thích mối quan hệ giữa các khoa học bộ phận và đem lại cho các khoa học đó những quan điểm cơ bản; còn bản thân triết học được xây dựng trên thành quả của các khoa học đó.

Sức mạnh và bản chất của học thuyết R. Bêcơn chủ yếu là sự phê phán phương pháp kinh viện chủ nghĩa. Ông cho rằng: phải dựa vào kinh nghiệm để "đạt tới chỗ nhận thức nguyên nhân của hiện tượng" để thay thế cho cái lõi rỗng tuếch, hình thức chủ nghĩa của phương pháp kinh viện.

R. Bêcơn nêu ra những nguyên nhân cản trở chân lý là : do sự sùng bái trước các uy tín không có căn cứ và không xứng đáng ; do thói quen lâu đời đối với những quan niệm đã có; do tính vô căn cứ của những phán đoán về số đông sự che dấu những điều ngu dốt của các nhà bác học dưới cái mặt nạ của sự thông thái hư ảo.

Theo R.Bêcơn, nguồn gốc của nhận thức là uy tín, lý trí và kinh nghiệm, nhưng uy tín phải được chứng minh bằng kinh nghiệm và thực nghiệm. Ông coi kinh nghiệm là tiêu chuẩn của chân lý, thước đo của lý luận: đồng thời ông rất coi trọng tri thức khoa học bởi lẽ "không có sự nguy hiểm nào lớn hơn sự ngu dốt". Chính đây là sự tiến bộ của thời ông và có tác dụng chống chủ nghĩa kinh viện.

Khác với chủ nghĩa kinh viện chính thống chuyên nghiên cứu thần học, R.Bêcơn chủ yếu hướng sự nghiên cứu của mình vào khoa học tự nhiên. Do đó ông coi khoa học thực nghiệm là chúa tể của khoa học và ông đã có nhiều đóng góp cho các ngành khoa học này. Thí dụ: khi nghiên cứu về thiên văn học, ông đã vạch ra việc sửa đổi lịch, mà mãi đến thế kỷ XVI mới thực hiện. Ông có nhiều quan sát có giá trị về vật lý học và hoá học, viết về thuốc súng và sự áp dụng nó trong quân đội; vạch ra cấu tạo của kính viễn, kính hiển vi; những chiếc máy bay có cánh giống cánh chim v.v

Triết học của R. Bêcơn bộc lộ những xu hướng duy vật, ông nắm bắt được những biến đổi xã hội chỉ vừa mới bắt đầu xảy ra và đi trước thời đại ông trong những ước mơ và ý tưởng về sự tiến bộ của khoa học. Vì vậy, ông luôn bị nhà nước phong kiến và giáo hội truy nã, cầm tù.

Triết học R. Bêcơn có nhiều tư tưởng tiến bộ, nhưng không thoát ra khỏi hạn chế của thời đại mình - thời đại thống trị của tôn giáo và nhà thờ; ông đã tuyên bố sự phụ thuộc của triết học vào lòng tin; ông nghiên cứu về "tính chất rõ ràng của tư tưởng" xuất phát từ mẫu mực đầu tiên của Thượng đế, và về "lý trí hoạt động tiên nghiệm".

Kết luận: Chủ nghĩa kinh viện là triết học chính thống của xã hội phong kiến Tây Âu thời Trung cổ. Đặc điểm chủ yếu nhất của khuynh hướng này là: phục tùng thần học, theo chủ nghĩa duy tâm, phương pháp suy luận hình thức chết cứng, chủ nghĩa tín ngưỡng đối lập với tư tưởng khoa học... Mục đích cao nhất của chủ nghĩa kinh viện là phục vụ tôn giáo và nhà thờ, do đó đã xuyên tạc học thuyết của các nhà triết học tiến bộ thời cổ đại, đặc biệt là triết học của Arixtốt.

Trong sự thống trị khắc nghiệt của tôn giáo và thần học, thời kỳ này cũng xuất hiện cuộc đấu tranh của các xu hướng duy vật trong triết học và trong các phong trào "tà giáo" chống chủ nghĩa ngu dân của nhà thờ. Các trào lưu tự nhiên bằng thực nghiệm xuất hiện, sự giải phóng khoa học tự nhiên thoát khỏi ách thống trị của thần học bắt đầu. Tất cả những cái đó đã chuẩn bị cho sự sụp đổ của chủ nghĩa kinh viện và cho sự phát triển mới của khoa học tự nhiên và triết học trong thời đại Phục hưng.

(Nguồn: ĐH Mỏ Địa chất)
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top