Trang Dimple
New member
- Xu
- 38
Hoàng Diệu tên thật là Hoàng Kim Tích, tự Quang Viễn, hiệu Tỉnh Trai. Ông sinh ngày 10 tháng 2 năm Mậu Tí (1829) trong một gia đình có truyền thống Nho giáo tại làng Xuân Đài (Diên Phước, Quảng Nam). Gia đình ông có bảy anh em thì một người đỗ phó bảng, ba người đỗ cử nhân và hai người đỗ tú tài trong các kì thi dưới thời vua Tự Đức.
Chân dung Tổng đốc Hoàng Diệu – Tranh tư liệu
Ông được đánh giá là một vị quan thanh liêm, chính trực, hết lòng hết sức vì nước vì dân và từng lập được nhiều quân công.
1.Sự nghiệp
Hoàng Diệu là người nổi bật nhất trong số các anh em trong gia đình. Năm 20 tuổi ông đã đồng đỗ Cử nhân với anh trai Hoàng Kim Giám (khi ấy 23 tuổi) khoa Mậu Thân(1848) trong khoa thi Hương tại Thừa Thiên, năm 25 tuổi đỗ Phó bảng khoa Quý Sửu (1853), thời vua Tự Đức [2]. Năm 1851, ông được vua Tự Đức bổ nhiệm làm Tri huyện Tuy Phước rồi Tri phủ Tuy Viễn (Bình Định).
Năm 1864, xảy ra vụ nổi dậy của Nguyễn Phúc Hồng Tập, con hoàng thân Miên Áo, em chú bác của Hồng Nhậm (tức vua Tự Đức), cùng với một số người khác. Bại lộ, Hồng Tập và Nguyễn Văn Viện bị án chém. Hoàng Diệu đến nhậm chức Tri huyện Hương Trà thay Tôn Thất Thanh bị đổi đi nơi khác, bấy giờ có mặt trong lúc hành quyết đã nghe Hồng Tập nói: "Vì tức giận về hòa nghị mới bị tội, xin chớ ghép vào tội phản nghịch". Sau đó các quan Phan Huy Kiệm, Trần Gia Huệ và Biện Vĩnh tâu lên Tự Đức, đề nghị nhà vua nên theo gương Hán Minh Đế, thẩm tra lại vụ án. Tự Đức phán là vụ án đã được đình thần thẩm xét kỹ, nay nghe Phan Huy Kiệm nói Hoàng Diệu đã kể lại lời trăng trối của Hồng Tập, bèn quyết định giáng chức Phan Huy Kiệm, Trần Gia Huệ, Biện Vĩnh và Hoàng Diệu
Được phục chức sau vụ "tẩy oan" Hồng Tập, Hoàng Diệu lần đầu ra Bắc năm 1868, làm Tri phủ Đa Phúc, rồi Tri phủ Lạng Giang (Bắc Giang), Án sát Nam Định, Bố chính Bắc Ninh. Trong chín năm ấy, ông lập nhiều quân công, dẹp trộm cướp và an dân, ở đâu ông cũng được sĩ dân quý mến.
Năm 1873 ông được triệu về kinh đô Huế giữ chức Tham tri Bộ Hình rồi Tham tri Bộ Lại, kiêm quản Đô Sát Viện, dự bàn những việc ở Cơ Mật Viện. Năm 1878, đổi làm Tuần phủ Quảng Nam, thăng Tổng đốc An Tịnh (Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay), nhưng vì nguyên Tổng đốc Nguyễn Chính vẫn lưu nhiệm nên ông ở lại Huế, làm Tham tri Bộ Lại(Thực lục của Cao Xuân Dục). Chẳng bao lâu sau, ông được sung chức Phó Toàn quyền Đại Thần đàm phán với Sứ thần Tây Ban Nha một hiệp ước giao thương. Đầu năm 1880, ông làm Tổng đốc Hà Ninh, lãnh chức hàm Thượng thư bộ Binh[2], kiêm quản cả việc thương chính.
Biết rõ dã tâm xâm lược của thực dân Pháp lúc bấy giờ, Hoàng Diệu bắt tay ngay vào việc chuẩn bị chiến đấu, kinh lý, biên phòng. Như Đại Nam chính biên liệt truyện đã nêu, tổng đốc Hà Ninh đã "cùng với tổng đốc tỉnh Sơn Tây Nguyễn Hữu Độ dâng sớ nói về việc bố phòng, lại cùng với Nguyễn Đình Nhuận mật tâu về chước phòng vị sẵn". VuaTự Đức khen. "Nhưng sau đó - như trong di biểu nêu - vua lại trách cứ lưu binh... vì sợ giặc"... "chế ngự không đúng cách" (?)
Một mặt khác, Hoàng Diệu quan tâm ổn định chăm lo đời sống của dân chúng trong công bằng và trật tự. Ngày nay, ở Ô Quan Chưởng, đầu phố Hàng Chiếu, còn áp ở mặt tường cổng ra vào một phần tấm bia Lệnh cấm trừ tệ (Thân cấm khu tệ), niêm yết năm 1881, của Tổng đốc Hà Ninh Hoàng Diệu và Tuần phủ Hà Nội Hoàng Hữu Xứng, nhằm ngăn chặn các tệ nhũng nhiễu đối với nhân dân trong các dịp ma chay, cưới xin cũng như nạn vòi tiền, cướp bóc trên sông và ở các chợ, kèm theo các quy định cụ thể cần thi hành đến nơi đến chốn. Một di tích quý hiếm nói lên tấm lòng ưu ái của người công bộc mãi mãi còn giá trị của nó.
Từ 1879 đến 1882, Ông làm Tổng đốc Hà Ninh quản lý vùng trọng yếu nhất của Bắc Bộ là Hà Nội và phụ cận. Ông đã chỉ đạo quân dân Hà Nội tử thủ chống lại quân đội Pháp, bất chấp triều đình Huế đã chấp nhận đầu hàng. Ngày 25 tháng 4 năm 1882 (tức ngày 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ), thành Hà Nội thất thủ, Hoàng Diệu đã tự vẫn tại Võ Miếu để không rơi vào tay đối phương.
Người Hà Nội vô cùng đau đớn trước cái chết của ông, ngay hôm sau, nhiều người họp lại, sắm sửa mền nệm tử tế, rước quan tài của Hoàng Diệu từ trong thành ra, tổ chức khâm liệm và mai táng tại khu vườn Dinh Đốc học (nay là địa điểm khách sạn Royal Star ở đường Trần Quý Cáp cạnh chợ Ngô Sĩ Liên, sau ga Hà Nội).
Hơn một tháng sau hai người con trai ông ra Hà Nội lo liệu đưa thi hài thân sinh về an táng ở quê quán vào mùa thu năm ấy.
Khu lăng mộ Hoàng Diệu, theo quyết định ngày 25 tháng 1 năm 1994 của Bộ Văn hóa Thông tin, được công nhận là một di tích lịch sử - văn hóa của Việt Nam.
2.Hoàng Diệu là tấm gương sáng về lòng yêu nước, một người có chính khí cao, thà chết chứ không chịu cúi đầu
Kể từ năm 1867, cả miền Nam nước Việt đã hoàn toàn rơi vào tay người Pháp. Năm 1873, Pháp đưa quân đánh thành Hà Nội lần thứ nhất, Tổng đốc quân vụ Bắc Kỳ Nguyễn Tri Phương thất trận phải tuẫn tiết. Ấy vậy mà triều đình nhà Nguyễn vẫn chưa đề ra được một sách lược nào khả dĩ để bảo vệ đất nước. Vua Tự Đức lúng túng, bất lực trước sự sống còn của đất nước và dân tộc.
Nội bộ triều đình phân hóa sâu sắc, chia ra nhiều phái: Phái chủ hòa gồm những nhân vật chính yếu như: Trần Tiễn Thành, Nguyễn Bá Nghi, Lâm Duy Hiệp, Trương Quốc Dụng… Phái “bão hòa làm tay sai cho Pháp” gồm Tôn Thọ Tường, Trần Bá Lộc, Đỗ Hữu Phương… Phái chủ chiến đánh Pháp đến cùng gồm các quan đại thần: Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Thuyết, Ông Ích Khiêm, Hoàng Diệu… Thời điểm này trong hàng quan lại của triều đình và sĩ phu trong nước đã rộ lên phong trào mang tư tưởng canh tân đất nước.
Vào thời kỳ này, nước Pháp đang khao khát mở rộng thị trường thuộc địa, thông qua chiến thuật, chiến lược chiếm đóng, cai trị. Chính phủ Pháp quyết tâm xâm chiếm cả Đông Dương, bao gồm Việt Nam, Lào và Campuchia. Pháp đã lợi dụng tình hình chia rẽ trong nội bộ triều đình nhà Nguyễn, chủ trương dùng vũ lực tiến đánh thành Hà Nội một lần nữa. Năm 1880, vua Tự Đức bổ nhiệm Hoàng Diệu làm Tổng đốc hai tỉnh Hà Nội và Ninh Bình.
Năm 1877, Hoàng Diệu được cử làm Tham tri Bộ Hình, Tham tri Bộ Lại, coi Viện Đô sát và được tham dự vào công việc Cơ mật viện. Ông cũng là người được triều đình cử giữ chức Phó toàn quyền đại thần để hiệp thương với sứ bộ Tây Ban Nha. Hoàng Diệu là người nổi tiếng công minh, thanh liêm và văn võ song toàn.
Khi nhận chức Tổng đốc hai tỉnh Hà Nội và Ninh Bình, Hoàng Diệu đã thấy rõ vị thế trọng yếu của thành Hà Nội. Ông tự nêu trong sớ tâu lên Tự Đức: “Thành Hà Nội như cuống họng của cả Bắc kỳ. Nếu một ngày tan tành như đất lở, thì các tỉnh miền Bắc lần lượt mất như ngói bung”. Dự đoán thế nào Pháp cũng đánh thành Hà Nội, ngay khi trấn nhậm Hà Nội, Hoàng Diệu khẩn trương bắt tay vào việc đào hào, đắp lũy, tổ chức phòng thủ và sẵn sàng chiến đấu.
Ngày 26/03/1882, Đại tá Henry Rivière chỉ huy hơn 600 lính Pháp và 3 pháo hạm tiến quân theo đường sông Hồng để tiến đánh Hà Nội. 5 giờ sáng ngày 25/04/1882, Henry Rivière gởi tối hậu thư cho Hoàng Diệu đòi phải triệt thoái quân đội, buộc quan quân phải tới dinh của hắn để trình diện. Hoàng Diệu tiếp tối hậu thư, phẫn uất trước thái độ ngang ngược của Pháp, ông liền phân công Án sát Tôn Thất Bá đi gặp quân Pháp để điều đình.
Nhưng, đến 8 giờ 15 phút, Henry Rivière tấn công thành Hà Nội. Trước hỏa lực của quân cướp nước, Hoàng Diệu quyết liệt đối phó, ông chỉ huy quân sĩ chống cự ở phía Bắc. Trong khi ấy, Án sát Tôn Thất Bá chạy trốn và theo giặc Pháp. Khi đánh nhau, kho thuốc súng trong thành Hà Nội nổ. Bố chính Nguyễn Văn Tuyển, Đề đốc Lê Văn Trinh bỏ thành chạy. Thành vỡ. Một mình Hoàng Diệu vào hành cung thảo tờ di biểu gởi vua Tự Đức rồi đến trước võ miếu dùng khăn bịt đầu thắt cổ tự tử. Trong di biểu gởi vua Tự Đức và triều đình, Hoàng Diệu đã viết:
“Tôi học lực thô sơ, trách nhiệm quá lớn, được ủy thác giữ cả một phương diện, trong khi ba cõi chưa yên. Một gã thư sinh vốn chưa quen việc chính trị, mười năm hòa ước, tin sao được lòng kẻ thù.
Tôi từ khi vâng mệnh ra đây đã được ba năm, thường huấn luyện quân sĩ, sửa sang thành trì, không những chỉ để củng cố đất ta, mà còn để ngăn chặn loài lang sói nữa.
Dè đâu chim còn đang ràng tổ, thú đã vội thay lòng, ngày tháng hai năm nay bỗng thấy tàu Tây tu tập, đồn quân thêm nhiều, quân nó từ xa đến, lòng dân ta xôn xao.
Tôi thiết nghĩ Hà Nội là cổ họng của miền Bắc, mà là đất trọng yếu của nước nhà, nếu một khi mà đổ sụp thì các tỉnh khác cũng tan rã theo, vì thế tôi lấy làm lo sợ, một mặt kíp tư cho các hạt lân cận, một mặt báo tin lên triều đình, xin cho thêm quân để kịp đối phó.
Không ngờ mấy lần có chiếu xuống: Hoặc trách tôi là nắm binh quyền mà lòe nạt, hoặc kết tội tôi là xử lý chưa được thích nghi; cúi đọc lời phán truyền, thực nghiêm khắc hơn rìu búa! Kẻ dưới quyền thất vọng, khôn tính bước tiến lui.
Vẫn biết rằng chuyên chế kém tài, đâu dám cậy cái nghĩa bậc đại phu ra giữ bờ cõi, chỉ nơm nớp tự mình nhắc nhở, phải kính theo tấm lòng thờ vua của người xưa.
Hằng ngày bàn bạc với đôi ba người chức việc, có người bàn nên mở cổng cho chúng tự do ra vào; có người bàn nên rút hết quân đi, để chúng khỏi ngờ vực. Những kế đó dù tôi có phải nát thịt tan xương, cũng không bao giờ nỡ làm.
Việc điều động chưa xong thì chúng liền giở mặt. Ngày mồng 7 tháng này, chúng hạ chiến thư, ngày hôm sau là chúng tiến đánh, quân chúng đông như kiến tụ, súng chúng gầm như sấm vang; ngoài phố lửa cháy tràn lan, trong thành ai nấy táng đởm, tôi vẫn gượng bệnh đốc chiến, đi trước quân lính, bắn chết được hơn trăm tên, giữ thành được nửa ngày
Vì chúng nó sung sức mà quân ta kiệt hơi rồi, lại thêm tuyệt đường cứu viện, thế lâm đường cùng, quan võ thị sợ giặc chạy trốn từng đàn, quan văn nghe gió cũng chạy theo nốt! Lòng tôi đau như cắt, một tay không thể duy trì. Đã không tài làm tướng, than thân sống cũng bằng thừa; thành mất cứu không xong, biết chắc chết không hết tội! Rút lui để tính toán về sau ư? Mưu trí đã thua Tào Mạt, cắt cổ để cho tắc trách, hành vi đành bắt chước Trương Tuần! Dám rằng trung nghĩa gì đâu, chẳng qua sự thế phải thế!
Trung nguyên mà đắm chìm thành đất giặc, sống càng sạn mặt với nhân sĩ kinh kỳ, cô trung quyết sống thác với thành Rồng (Thăng Long thành) thì xin theo bậc tiên thần họ Nguyễn (Nguyễn Tri Phương) dưới chín suối!
Mấy dòng lệ máu, muôn dặm cửa trời, chỉ mong rực rỡ đôi vầng, xét soi thấu tấc son là đủ!”
(Bản dịch của Hoàng Tạo)
Qua nội dung di biểu gởi vua Tự Đức. Và, cũng là lời tâm huyết cuối cùng của một người hết lòng vì nước, càng thấy rõ Hoàng Diệu là một con người cương trực, một lòng trung với vua, với nước. Hoàng Diệu đã phải đơn độc đấu tranh với những kẻ cơ hội đầu hàng. Ông một lòng quyết tâm đánh Pháp đến cùng để bảo vệ giang sơn. Hoàng Diệu là trung thần đơn độc giữa bối cảnh lịch sử rối ren thời bấy giờ.
Thương tiếc và cảm kích trước sự hy sinh đầy bi tráng của Hoàng Diệu, nhân dân Hà Nội góp tiền mua áo quan, làm lễ mai táng Hoàng Diệu ở vườn Đốc học. 3 năm sau, gia đình ông ở Quảng Nam mới đưa hài cốt của ông về cải táng tại quê nhà.
Trước sự hy sinh của Hoàng Diệu, một con người trung quân ái quốc, nhân sĩ Hà thành đã viết: “Hà thành chính khí ca” và “Hà thành thất thủ ca” ca ngợi Hoàng Diệu và lên án những kẻ tham sống sợ chết, đầu hàng làm tay sai cho giặc. Sĩ tử đất Hà thành đã làm thơ khóc Hoàng Diệu:
Cô thành độc thủ chích thân đan
Khảng khái như công, thế sở nan
Cựu lục thiên thu truyền tiết liệt
Cô thần nhất tử kiến trung can
Thâu sinh thử nhật tâm do quí
Nghịch tặc đương niên cốt dĩ hàn
Thiên tải Nùng sơn tiêu chính khí
Anh hùng đáo xứ lệ tương can.
Diễn nghĩa:
Cô thành chống giữ một mình thôi
Khảng khái như ông được mấy người
Sách cũ nghìn năm gương tiết rọi
Cô thần một chết tấm trung phơi
Sống thừa ngày nọ tâm còn thẹn
Giặc nghịch năm nao sợ rụng rời
Nghìn thuở núi Nùng nêu chính khí
Anh hùng đến đấy, lệ tuôn rơi.
(Bản dịch của Chu Thiên)
Hoàng Diệu là tấm gương sáng về lòng yêu nước, một người có chính khí cao, sống mãi cùng đất nước.
Chân dung Tổng đốc Hoàng Diệu – Tranh tư liệu
Ông được đánh giá là một vị quan thanh liêm, chính trực, hết lòng hết sức vì nước vì dân và từng lập được nhiều quân công.
1.Sự nghiệp
Hoàng Diệu là người nổi bật nhất trong số các anh em trong gia đình. Năm 20 tuổi ông đã đồng đỗ Cử nhân với anh trai Hoàng Kim Giám (khi ấy 23 tuổi) khoa Mậu Thân(1848) trong khoa thi Hương tại Thừa Thiên, năm 25 tuổi đỗ Phó bảng khoa Quý Sửu (1853), thời vua Tự Đức [2]. Năm 1851, ông được vua Tự Đức bổ nhiệm làm Tri huyện Tuy Phước rồi Tri phủ Tuy Viễn (Bình Định).
Năm 1864, xảy ra vụ nổi dậy của Nguyễn Phúc Hồng Tập, con hoàng thân Miên Áo, em chú bác của Hồng Nhậm (tức vua Tự Đức), cùng với một số người khác. Bại lộ, Hồng Tập và Nguyễn Văn Viện bị án chém. Hoàng Diệu đến nhậm chức Tri huyện Hương Trà thay Tôn Thất Thanh bị đổi đi nơi khác, bấy giờ có mặt trong lúc hành quyết đã nghe Hồng Tập nói: "Vì tức giận về hòa nghị mới bị tội, xin chớ ghép vào tội phản nghịch". Sau đó các quan Phan Huy Kiệm, Trần Gia Huệ và Biện Vĩnh tâu lên Tự Đức, đề nghị nhà vua nên theo gương Hán Minh Đế, thẩm tra lại vụ án. Tự Đức phán là vụ án đã được đình thần thẩm xét kỹ, nay nghe Phan Huy Kiệm nói Hoàng Diệu đã kể lại lời trăng trối của Hồng Tập, bèn quyết định giáng chức Phan Huy Kiệm, Trần Gia Huệ, Biện Vĩnh và Hoàng Diệu
Được phục chức sau vụ "tẩy oan" Hồng Tập, Hoàng Diệu lần đầu ra Bắc năm 1868, làm Tri phủ Đa Phúc, rồi Tri phủ Lạng Giang (Bắc Giang), Án sát Nam Định, Bố chính Bắc Ninh. Trong chín năm ấy, ông lập nhiều quân công, dẹp trộm cướp và an dân, ở đâu ông cũng được sĩ dân quý mến.
Năm 1873 ông được triệu về kinh đô Huế giữ chức Tham tri Bộ Hình rồi Tham tri Bộ Lại, kiêm quản Đô Sát Viện, dự bàn những việc ở Cơ Mật Viện. Năm 1878, đổi làm Tuần phủ Quảng Nam, thăng Tổng đốc An Tịnh (Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay), nhưng vì nguyên Tổng đốc Nguyễn Chính vẫn lưu nhiệm nên ông ở lại Huế, làm Tham tri Bộ Lại(Thực lục của Cao Xuân Dục). Chẳng bao lâu sau, ông được sung chức Phó Toàn quyền Đại Thần đàm phán với Sứ thần Tây Ban Nha một hiệp ước giao thương. Đầu năm 1880, ông làm Tổng đốc Hà Ninh, lãnh chức hàm Thượng thư bộ Binh[2], kiêm quản cả việc thương chính.
Biết rõ dã tâm xâm lược của thực dân Pháp lúc bấy giờ, Hoàng Diệu bắt tay ngay vào việc chuẩn bị chiến đấu, kinh lý, biên phòng. Như Đại Nam chính biên liệt truyện đã nêu, tổng đốc Hà Ninh đã "cùng với tổng đốc tỉnh Sơn Tây Nguyễn Hữu Độ dâng sớ nói về việc bố phòng, lại cùng với Nguyễn Đình Nhuận mật tâu về chước phòng vị sẵn". VuaTự Đức khen. "Nhưng sau đó - như trong di biểu nêu - vua lại trách cứ lưu binh... vì sợ giặc"... "chế ngự không đúng cách" (?)
Một mặt khác, Hoàng Diệu quan tâm ổn định chăm lo đời sống của dân chúng trong công bằng và trật tự. Ngày nay, ở Ô Quan Chưởng, đầu phố Hàng Chiếu, còn áp ở mặt tường cổng ra vào một phần tấm bia Lệnh cấm trừ tệ (Thân cấm khu tệ), niêm yết năm 1881, của Tổng đốc Hà Ninh Hoàng Diệu và Tuần phủ Hà Nội Hoàng Hữu Xứng, nhằm ngăn chặn các tệ nhũng nhiễu đối với nhân dân trong các dịp ma chay, cưới xin cũng như nạn vòi tiền, cướp bóc trên sông và ở các chợ, kèm theo các quy định cụ thể cần thi hành đến nơi đến chốn. Một di tích quý hiếm nói lên tấm lòng ưu ái của người công bộc mãi mãi còn giá trị của nó.
Từ 1879 đến 1882, Ông làm Tổng đốc Hà Ninh quản lý vùng trọng yếu nhất của Bắc Bộ là Hà Nội và phụ cận. Ông đã chỉ đạo quân dân Hà Nội tử thủ chống lại quân đội Pháp, bất chấp triều đình Huế đã chấp nhận đầu hàng. Ngày 25 tháng 4 năm 1882 (tức ngày 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ), thành Hà Nội thất thủ, Hoàng Diệu đã tự vẫn tại Võ Miếu để không rơi vào tay đối phương.
Người Hà Nội vô cùng đau đớn trước cái chết của ông, ngay hôm sau, nhiều người họp lại, sắm sửa mền nệm tử tế, rước quan tài của Hoàng Diệu từ trong thành ra, tổ chức khâm liệm và mai táng tại khu vườn Dinh Đốc học (nay là địa điểm khách sạn Royal Star ở đường Trần Quý Cáp cạnh chợ Ngô Sĩ Liên, sau ga Hà Nội).
Hơn một tháng sau hai người con trai ông ra Hà Nội lo liệu đưa thi hài thân sinh về an táng ở quê quán vào mùa thu năm ấy.
Khu lăng mộ Hoàng Diệu, theo quyết định ngày 25 tháng 1 năm 1994 của Bộ Văn hóa Thông tin, được công nhận là một di tích lịch sử - văn hóa của Việt Nam.
2.Hoàng Diệu là tấm gương sáng về lòng yêu nước, một người có chính khí cao, thà chết chứ không chịu cúi đầu
Kể từ năm 1867, cả miền Nam nước Việt đã hoàn toàn rơi vào tay người Pháp. Năm 1873, Pháp đưa quân đánh thành Hà Nội lần thứ nhất, Tổng đốc quân vụ Bắc Kỳ Nguyễn Tri Phương thất trận phải tuẫn tiết. Ấy vậy mà triều đình nhà Nguyễn vẫn chưa đề ra được một sách lược nào khả dĩ để bảo vệ đất nước. Vua Tự Đức lúng túng, bất lực trước sự sống còn của đất nước và dân tộc.
Nội bộ triều đình phân hóa sâu sắc, chia ra nhiều phái: Phái chủ hòa gồm những nhân vật chính yếu như: Trần Tiễn Thành, Nguyễn Bá Nghi, Lâm Duy Hiệp, Trương Quốc Dụng… Phái “bão hòa làm tay sai cho Pháp” gồm Tôn Thọ Tường, Trần Bá Lộc, Đỗ Hữu Phương… Phái chủ chiến đánh Pháp đến cùng gồm các quan đại thần: Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Thuyết, Ông Ích Khiêm, Hoàng Diệu… Thời điểm này trong hàng quan lại của triều đình và sĩ phu trong nước đã rộ lên phong trào mang tư tưởng canh tân đất nước.
Vào thời kỳ này, nước Pháp đang khao khát mở rộng thị trường thuộc địa, thông qua chiến thuật, chiến lược chiếm đóng, cai trị. Chính phủ Pháp quyết tâm xâm chiếm cả Đông Dương, bao gồm Việt Nam, Lào và Campuchia. Pháp đã lợi dụng tình hình chia rẽ trong nội bộ triều đình nhà Nguyễn, chủ trương dùng vũ lực tiến đánh thành Hà Nội một lần nữa. Năm 1880, vua Tự Đức bổ nhiệm Hoàng Diệu làm Tổng đốc hai tỉnh Hà Nội và Ninh Bình.
Năm 1877, Hoàng Diệu được cử làm Tham tri Bộ Hình, Tham tri Bộ Lại, coi Viện Đô sát và được tham dự vào công việc Cơ mật viện. Ông cũng là người được triều đình cử giữ chức Phó toàn quyền đại thần để hiệp thương với sứ bộ Tây Ban Nha. Hoàng Diệu là người nổi tiếng công minh, thanh liêm và văn võ song toàn.
Khi nhận chức Tổng đốc hai tỉnh Hà Nội và Ninh Bình, Hoàng Diệu đã thấy rõ vị thế trọng yếu của thành Hà Nội. Ông tự nêu trong sớ tâu lên Tự Đức: “Thành Hà Nội như cuống họng của cả Bắc kỳ. Nếu một ngày tan tành như đất lở, thì các tỉnh miền Bắc lần lượt mất như ngói bung”. Dự đoán thế nào Pháp cũng đánh thành Hà Nội, ngay khi trấn nhậm Hà Nội, Hoàng Diệu khẩn trương bắt tay vào việc đào hào, đắp lũy, tổ chức phòng thủ và sẵn sàng chiến đấu.
Ngày 26/03/1882, Đại tá Henry Rivière chỉ huy hơn 600 lính Pháp và 3 pháo hạm tiến quân theo đường sông Hồng để tiến đánh Hà Nội. 5 giờ sáng ngày 25/04/1882, Henry Rivière gởi tối hậu thư cho Hoàng Diệu đòi phải triệt thoái quân đội, buộc quan quân phải tới dinh của hắn để trình diện. Hoàng Diệu tiếp tối hậu thư, phẫn uất trước thái độ ngang ngược của Pháp, ông liền phân công Án sát Tôn Thất Bá đi gặp quân Pháp để điều đình.
Nhưng, đến 8 giờ 15 phút, Henry Rivière tấn công thành Hà Nội. Trước hỏa lực của quân cướp nước, Hoàng Diệu quyết liệt đối phó, ông chỉ huy quân sĩ chống cự ở phía Bắc. Trong khi ấy, Án sát Tôn Thất Bá chạy trốn và theo giặc Pháp. Khi đánh nhau, kho thuốc súng trong thành Hà Nội nổ. Bố chính Nguyễn Văn Tuyển, Đề đốc Lê Văn Trinh bỏ thành chạy. Thành vỡ. Một mình Hoàng Diệu vào hành cung thảo tờ di biểu gởi vua Tự Đức rồi đến trước võ miếu dùng khăn bịt đầu thắt cổ tự tử. Trong di biểu gởi vua Tự Đức và triều đình, Hoàng Diệu đã viết:
“Tôi học lực thô sơ, trách nhiệm quá lớn, được ủy thác giữ cả một phương diện, trong khi ba cõi chưa yên. Một gã thư sinh vốn chưa quen việc chính trị, mười năm hòa ước, tin sao được lòng kẻ thù.
Tôi từ khi vâng mệnh ra đây đã được ba năm, thường huấn luyện quân sĩ, sửa sang thành trì, không những chỉ để củng cố đất ta, mà còn để ngăn chặn loài lang sói nữa.
Dè đâu chim còn đang ràng tổ, thú đã vội thay lòng, ngày tháng hai năm nay bỗng thấy tàu Tây tu tập, đồn quân thêm nhiều, quân nó từ xa đến, lòng dân ta xôn xao.
Tôi thiết nghĩ Hà Nội là cổ họng của miền Bắc, mà là đất trọng yếu của nước nhà, nếu một khi mà đổ sụp thì các tỉnh khác cũng tan rã theo, vì thế tôi lấy làm lo sợ, một mặt kíp tư cho các hạt lân cận, một mặt báo tin lên triều đình, xin cho thêm quân để kịp đối phó.
Không ngờ mấy lần có chiếu xuống: Hoặc trách tôi là nắm binh quyền mà lòe nạt, hoặc kết tội tôi là xử lý chưa được thích nghi; cúi đọc lời phán truyền, thực nghiêm khắc hơn rìu búa! Kẻ dưới quyền thất vọng, khôn tính bước tiến lui.
Vẫn biết rằng chuyên chế kém tài, đâu dám cậy cái nghĩa bậc đại phu ra giữ bờ cõi, chỉ nơm nớp tự mình nhắc nhở, phải kính theo tấm lòng thờ vua của người xưa.
Hằng ngày bàn bạc với đôi ba người chức việc, có người bàn nên mở cổng cho chúng tự do ra vào; có người bàn nên rút hết quân đi, để chúng khỏi ngờ vực. Những kế đó dù tôi có phải nát thịt tan xương, cũng không bao giờ nỡ làm.
Việc điều động chưa xong thì chúng liền giở mặt. Ngày mồng 7 tháng này, chúng hạ chiến thư, ngày hôm sau là chúng tiến đánh, quân chúng đông như kiến tụ, súng chúng gầm như sấm vang; ngoài phố lửa cháy tràn lan, trong thành ai nấy táng đởm, tôi vẫn gượng bệnh đốc chiến, đi trước quân lính, bắn chết được hơn trăm tên, giữ thành được nửa ngày
Vì chúng nó sung sức mà quân ta kiệt hơi rồi, lại thêm tuyệt đường cứu viện, thế lâm đường cùng, quan võ thị sợ giặc chạy trốn từng đàn, quan văn nghe gió cũng chạy theo nốt! Lòng tôi đau như cắt, một tay không thể duy trì. Đã không tài làm tướng, than thân sống cũng bằng thừa; thành mất cứu không xong, biết chắc chết không hết tội! Rút lui để tính toán về sau ư? Mưu trí đã thua Tào Mạt, cắt cổ để cho tắc trách, hành vi đành bắt chước Trương Tuần! Dám rằng trung nghĩa gì đâu, chẳng qua sự thế phải thế!
Trung nguyên mà đắm chìm thành đất giặc, sống càng sạn mặt với nhân sĩ kinh kỳ, cô trung quyết sống thác với thành Rồng (Thăng Long thành) thì xin theo bậc tiên thần họ Nguyễn (Nguyễn Tri Phương) dưới chín suối!
Mấy dòng lệ máu, muôn dặm cửa trời, chỉ mong rực rỡ đôi vầng, xét soi thấu tấc son là đủ!”
(Bản dịch của Hoàng Tạo)
Qua nội dung di biểu gởi vua Tự Đức. Và, cũng là lời tâm huyết cuối cùng của một người hết lòng vì nước, càng thấy rõ Hoàng Diệu là một con người cương trực, một lòng trung với vua, với nước. Hoàng Diệu đã phải đơn độc đấu tranh với những kẻ cơ hội đầu hàng. Ông một lòng quyết tâm đánh Pháp đến cùng để bảo vệ giang sơn. Hoàng Diệu là trung thần đơn độc giữa bối cảnh lịch sử rối ren thời bấy giờ.
Thương tiếc và cảm kích trước sự hy sinh đầy bi tráng của Hoàng Diệu, nhân dân Hà Nội góp tiền mua áo quan, làm lễ mai táng Hoàng Diệu ở vườn Đốc học. 3 năm sau, gia đình ông ở Quảng Nam mới đưa hài cốt của ông về cải táng tại quê nhà.
Trước sự hy sinh của Hoàng Diệu, một con người trung quân ái quốc, nhân sĩ Hà thành đã viết: “Hà thành chính khí ca” và “Hà thành thất thủ ca” ca ngợi Hoàng Diệu và lên án những kẻ tham sống sợ chết, đầu hàng làm tay sai cho giặc. Sĩ tử đất Hà thành đã làm thơ khóc Hoàng Diệu:
Cô thành độc thủ chích thân đan
Khảng khái như công, thế sở nan
Cựu lục thiên thu truyền tiết liệt
Cô thần nhất tử kiến trung can
Thâu sinh thử nhật tâm do quí
Nghịch tặc đương niên cốt dĩ hàn
Thiên tải Nùng sơn tiêu chính khí
Anh hùng đáo xứ lệ tương can.
Diễn nghĩa:
Cô thành chống giữ một mình thôi
Khảng khái như ông được mấy người
Sách cũ nghìn năm gương tiết rọi
Cô thần một chết tấm trung phơi
Sống thừa ngày nọ tâm còn thẹn
Giặc nghịch năm nao sợ rụng rời
Nghìn thuở núi Nùng nêu chính khí
Anh hùng đến đấy, lệ tuôn rơi.
(Bản dịch của Chu Thiên)
Hoàng Diệu là tấm gương sáng về lòng yêu nước, một người có chính khí cao, sống mãi cùng đất nước.