Tình yêu đôi lứa trong Văn học dân gian

  • Thread starter Thread starter misszoo
  • Ngày gửi Ngày gửi

misszoo

New member
Xu
0
Nếu bắt tôi định nghĩa tình yêu là gì, tôi đành cuời trừ và trả lời: “tôi không thể giải thích đuợc”. Tình yêu là một thứ j` đó linh thiêng mà đấng tạo hóa đã đặt sẵn nơi tâm khảm của mỗi con nguời. Nó là món quà vô giá mà Thuợng Đế đã dành tặng cho lòai nguời, là để phân biệt chúng ta với những giống lòai khác. Tình yêu tự nó ẩn chứa một sức mạnh vô hình và mạnh mẽ, là nguồn cảm hứng vô bờ bến của những nhà nghệ sĩ chân chính. Đề tài tình yêu là muôn thuở, tồn tại song hành cùng thời gian. Chẳng thiếu những tác phẩm văn học, những bài ca, tranh vẽ… ca ngợi vẻ đẹp bất tận của thứ dc gọi là “tình yêu” ấy. Tùy từng thời kì mà nó đuợc khóac lên mình bộ cánh khác nhau. Khi thì uyển chuyển nhẹ nhàng, thuớt tha và quyền quý, khi lại dân dã bộc trực, lúc lại quẫy đạp ngang tàng… Tình yêu ẩn chứa những gam màu khác nhau, đẹp đẽ và thần kì. Và điều đó chẳng mới mẻ gì với dân tộc ta- một nuớc có nền văn hiến cả ngàn năm. Cha ông ta đã ca ngợi vẻ đẹp ấy qua những bài ca dao và lưu truyền cho tới ngày hôm nay.

Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, có rất nhiều bài ca dao tục ngữ xoay quanh chủ đề thú vị này. Mỗi bài lại có một nét riêng độc đáo ẩn chứa những giá trị khác nhau. Nhưng nhìn chung đó đều là những lời ca ngợi cái tinh túy đuợc kết tinh trong tình yêu. Có thể là những chuyện tình đẹp, cũng có thể là những lời nói ngọt ngào lãng mạn mà các đôi lứa vẫn thuờng xuyên thì thầm với nhau. Hoặc những hành động chứng tỏ tình yêu vô bờ bến của họ. Các đôi nam nữ trong ca dao bộc lộ tình yêu của mình một cách rất trong sáng và hồn nhiên, dùng những câu nói chứa đựng hàm ý sâu xa:

Trèo lên trái núi Thiên Thai
Gặp hai con phượng ăn xoài trên cây.
Ðôi ta được gặp nhau đây
Khác gì chim phượng gặp cây ngô đồng !

Họ không sử dụng những câu nói thong tục để diễn tả tình cảm của mình. Tâm tư của nguời con trai đuợc gửi gắm wa hình ảnh chim phuợng, một linh vật đuợc nguời xưa coi là biểu tuợng của sự hạnh phúc. Chàng trai đã ví duyên tuơng ngộ của hai nguời là tất yếu, đã đuợc trời đất sắp xếp. Mối tình của họ rồi sẽ đẹp như đôi chim phuợng kia. Nhưng tình yêu đẹp chỉ dừng ở thế? Người ta thuờng nói, yêu là phải có sự hy sinh, vì nguời mình yêu mà chẳng quản gian khó. Điều đó liệu đã hình thành trong tâm tư của nguời xưa hay mới chỉ xuất hiện trong thời gian gần đây?

Ước gì anh hóa ra hoa
Ðể em nâng lấy rồi mà cài khăn.
Ước gì anh hóa ra chăn
Ðể cho em đắp, em lăn, em nằm !
Ước gì anh hóa ra gương
Ðể cho em cứ ngày thường em soi.
Ước gì anh hóa ra cơi
Ðể cho em đựng cau tươi, trầu vàng.

Vậy là, từ xưa, cha ông ta đã có quan niệm về đức hy sinh trong tình yêu. Tình yêu muốn vững bền cần sự tha thứ, chia sẻ và hy sinh vì nguời mình yêu. Cần chi những hành động to tát thay đổi cả giang sơn. Chỉ cần những mong uớc nhỏ bé, đuợc trở thành một phần trong cuộc sống của nguời mình yêu là đủ. Chàng trai trong bài ca dao mong muốn đuợc làm vật dụng cá nhân của cô gái, âm thầm và lặng lẽ ở bên cô. Suy nghĩ đó mới thật trong sáng và ngây thơ biết duờng nào. Đúng vậy, tình yêu đẹp đẽ chẳng cần phải phô truơng. Yêu nhưng không mong nhận đuợc sự đáp trả. Tư tuởng “cho đi” trong tình yêu đã dần đuợc hình thành từ đây và truyền đạt cho con cháu đời sau. Để rồi nó trở thành một phần không thể thiếu trong quan niệm về tình yêu chân chính trong thời đại ngày nay.

Cái đẹp của tình yêu đôi lứa trong các bài ca dao phần nào đã đuợc giải đáp. Nó đẹp là thế, thiêng liêng là thế, và có sức cuốn hút đến lạ lung. Nó mang trong mình một sức mạnh vô hình khiến con nguời mạnh mẽ hơn, đủ sức cải huấn những kẻ tuởng chừng đã thành gánh nặng của xã hội. Nó trở thành động lực cho bao con nguời tiến lên phía truớc, chẳng ngại gian lao và khó nhọc:
Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Ngũ lục sông cũng lội, thập cửu đèo cũng qua.

Tình cảm con nguời chẳng ai đóan truớc đuợc cả. Khi thì tĩnh như mặt hồ phẳng lặng, lúc lại như con song dữ điên cuồng gào thét vùng vẫy cùng thiên nhiên. Có những con nguời yêu nhẹ nhàng và trầm lắng, thuớt tha mà sâu nặng. Lại có nguời yêu bằng cả con tim nồng cháy, nó như ngọn lửa hừng hực và tuởng chừng không thể dập tắt. Mỗi nguời có một sắc thái tình cảm riêng. Và không ít lần tình cảm bị thử thách. Khó khăn của cuộc đời nguời nào có thiếu. Nhưng không phải ai cũng vuợt qua cả. Có thể họ đứng lên đuợc là nhờ có nghị lực phi thuờng. Nhưng cũng không ít nguời có thể chiến thắng cái gọi là “số phận nghiệt ngã” nhờ động lực từ mái ấm gia đình. Tình yêu như một liều doping tinh thần mà khi nguời ta đã uống vào, mọi gian khó trên cuộc đời đầy chông gai này chỉ như một thử thách nho nhỏ. Vì nguời mình yêu mà sẵn sàng vuợt đèo lội suối, băng sông vuợt biển. Đó chính là tình yêu chân chính.

Yêu là phải nhớ. Có lẽ đây là luật bất thành văn. Thử hỏi có mấy ai đã yêu mà chưa phải trải qua cảm giác nhớ nhung? Chẳng có ai cả! Yêu và nhớ vốn dĩ chẳng thể tách rời nhau:

Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất?
Khăn thuơng nhớ ai
Khăn vắt lên vai ?
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt?
Ðèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt?
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên?
Ðêm qua em những lo phiền.
Lo vì một nỗi chưa yên một bề...

Nhớ là một phần trong tình yêu nam nữ. Yêu không nhớ chẳng phải là yêu. Nỗi nhớ trong bài ca dao trên đươc cô gái thể hiện một cách tế nhị mà tha thiết qua hình ảnh cái khăn, ngọn đèn và đôi mắt. Khăn nhẹ nhàng rơi xuống đất, rồi lại hững hờ vắt trên vai, và đôi khi là để thấm nước mắt. Đọc bài ca dao, ta cảm nhận được nỗi trầm trong cảm xúc của cô gái. Cái nhớ không chỉ được đo bằng không gian mà là cả thời gian. Đó là hình ảnh đèn cứ cháy mãi mà không bao giờ tắt, tượng trưng cho tình yêu vĩnh cửu của cô. Nó đi sâu vào trong giấc ngủ, khiến cho mắt muốn ngủ mà cũng "ngủ không yên". Ta cảm nhận được nỗi nhớ của cô gái dâng trào cao độ hơn bao giờ hết. Những câu hỏi tu từ "khăn thương nhớ ai?", "đèn thương nhớ ai", "mắt thương nhớ ai" tạo ra giọng điệu tự vấn, mở ngỏ sự im lặng nao lòng. Hai câu cuối bài ca dao nghe sao như tiếng thở dài khắc khoải.
Yêu là nhớ! Nhớ cũng có nhiều cái nhớ khác nhau.
Đôi khi nỗi nhớ là do xa cách:
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao

hay

Chim xa rừng thương cây nhớ cội
Người xa người tội lắm người ơi!
Chẳng thà không gặp thì thôi
Gặp rồi mỗi đứa một nơi sao đành

Nhưng cũng có khi là do đôi lứa không đến được với nhau:

Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh không hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng, như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra?

Còn gì buồn bằng khi trai gái đã trao chọn trái tim nhưng lại không thể đến được với nhau? Nỗi ai oán ấy cứ giằng xé trong lòng khiến tâm người ta đau còn hơn dao cắt. Đôi khi phải rơi lệ, nghẹn ngào không nói thành lời, ai oán oán ai?.

Trèo lên cây khế nửa ngày,
Ai làm chua xót lòng này khế ơi?.
Mặt trăng sánh với mặt trời,
Sao Hôm sánh với sao Mai chằng chằng.
Mình ơi có nhớ ta chăng?
Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời.

“Ai...”? Ai làm “chua xót” lòng người? Có nhiều lí do khiến ngươi ta không thể đến với nhau. Vào thời ngày xưa, chủ yếu là do xã hội, do quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Tội cho chàng trai “Trèo lên cây khế nửa ngày”, bối rối trước duyên phận lứa đôi, cất lên câu hỏi nghe thương xót thay. Thế nhưng, dù vậy, tình cảm của chàng trai là nguyên vẹn, thủy chung, son sắt. Hình ảnh “mặt trời”, “trăng”, “sao” là hình ảnh của thiên nhiên vũ trụ bất tận, tượng trưng cho tình yêu bất diệt của chàng. Dù vậy, dù biết rằng có khó khăn, trắc trở với tình yêu đôi lứa, chàng vẫn khẳng định “Ta như sao Vượt chờ Trăng giữa trời”. Đó là tiếng gọi tha thiết bộc lộ nỗi niềm chờ đọi mòn mỏi vô vọng của chàng trai với cô gái. Hình ảnh “sao Vượt chờ Trăng” là một hình ảnh đẹp, tựa như ánh sáng của tình người lấp lánh trong ca dao ta.
...
Sự đẹp đẽ và linh thiêng của tình yêu vốn đã đuợc cha ông chúng ta nhận ra và ca ngợi từ lâu. Từ khi còn nhỏ, con người đã biết yêu. Xuất phát đầu tiên là tình mẫu tử, phụ tử, ... và rộng hơn là tình ái quốc. Trong vô vàn những cung bậc tình cảm ấy, tình yêu lứa đôi là một nốt nhạc vang lên du dương khiến xao xuyến lòng ngừoi hơn bao giờ hết. Nó ngân nga, khi trẩm khi bổng và đậu hờ trên từng con chữ ý thơ của ca dao ta. Tình yêu trong ca dao ảnh hưởng hướng ta đến những khát khao, ước vọng tốt đẹp trong cuộc sống, giúp ta vượt qua những khó khăn, trắc trở lứa đôi, đôi khi còn khiến ta thêm giữ vững tình cảm trong lòng. Ca dao , nếu xem nó là một bức tranh, thì tình yêu phải chăng là một phần màu sắc tô lên bức tranh ấy?

VIết bởi misszoo và HD
 
1. Tình yêu trong văn học dân gian Việt Nam

Sự xung đột giữa chủ nghĩa phong kiến VN và chủ nghĩa cá nhân Tây phương do ảnh hưởng Tây hóa sau khi người Pháp truyền bá tư tưởng họ vào VN tạo nên một phong trào đổi mới đứng đầu là nhóm Tự Lực Văn Đoàn ở Hà Nội và đối kháng là những nhà văn còn trĩu nặng ảnh hưởng xã hội cũ như Nguyễn Công Hoan làm cho người ta thêm nghĩ rằng xã hội VN chịu ảnh hưởng Nho giáo nặng nề, qua đó tình yêu giữa trai gái bị ngăn cấm triệt để, đám thanh niên, nhất là con gái chẳng có một chút tự do nào trong chuyện yêu đương hay chọn người hôn phối. Câu tục ngữ “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” trở thành câu nói đầu cửa miệng của những bậc cha mẹ muốn hoàn toàn kiểm soát và điều khiển việc hôn nhân của con cái. Nó cũng là câu nói đầu cửa miệng của những người muốn chống lại chế độ phong kiến hà khắc trong việc hôn nhân.

Thực ra, chỉ đối với một số gia đình trung lưu và thượng lưu trong xã hội cũ - một số chứ không phải tất cả, muốn gìn giữ cái mà họ là “gia phong” mới nắm lấy quyền quyết định hôn nhân con cái, mới có việc “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” mà thôi.

Khi con cái khôn lớn, cha mẹ muốn chọn cho con người hôn phối làm thế nào để con cái có hạnh phúc về sau. Có lẽ đó là ý niệm trước nhất của họ. Nhưng hạnh phúc đó như thế nào? Đó là câu hỏi lớn với nhiều tiêu chuẩn chọn lựa mà tôi sẽ bàn trong đề tài hôn nhơn. Có lẽ những tiêu chuẩn đó làm nảy sinh ra việc ngăn cấm con cái yêu đương trước khi thành vợ chồng.

Từ những yêu cầu khắt khe đó, người con trai, con gái lớn lên sẽ không có tình yêu trước hôn nhân?

Trong những gia đình như tôi vừa trình bày ở trên, điều đó khá rõ. Dĩ nhiên, không thiếu những trường hợp ngoại lệ như chuyện tình giữa Phạm Thái và Trương Quỳnh Như trong lịch sử văn học ta. Ngoài ra, sự tích Trương Quân Thụy và Thôi Oanh Oanh trong lịch sử văn học Trung Hoa cũng có ảnh hưởng nặng nề trong văn học cũng như trong xã hội Việt Nam.

Ngay trong văn học bác học, một thứ văn học dành cho người có học, có nghĩa là trong xã hội cũ, ít ra, họ cũng thuộc từ giai cấp trung lưu trở lên thì sự kiện “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” là hẳn nhiên. Bên cạnh đó, con trai, con gái vẫn cứ yêu nhau mà cha mẹ không biết, có khi trước hay ngoài cả hôn nhơn. Điều nầy rất rõ ràng.

Chẳng hạn như với cô Kiều trong “Truyện Thúy Kiều” tác phẩm nổi tiếng bậc nhất trong văn học chữ Nôm thì gia tư Kiều thuộc “thường thường bậc trung” có nghĩa là thuộc giới trung lưu, và “thuộc dòng nho gia”. Mặc dù cha mẹ có dạy “tường đông ong bướm đi về mặc ai” nhưng chính Kiều đã yêu ngay chàng Kim (Kim Trọng) khi hai người mới gặp nhau lần đầu, rồi “hẹn hò vườn thúy”, thậm chí Kiều còn lợi dụng lúc cha mẹ vắng nhà, “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” sang nhà Kim Trọng, cắt tóc thề non hẹn biển, v.v...

Trong giới bình dân sự kiện ấy có khác đi chăng?
Quả thật là không!

Đọc những tác phẩm như “Đồng quê” của Phi Vân, giải thưởng Gia Long năm 1943, những tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh như “Ngọn cỏ gió đùa”, “Cha con nghĩa nặng” v.v... nói về đời sống dân quê ở trong Nam hoặc “Nhà quê” của Ngọc Giao, “Quê người” của Tô Hoài, “Sợ sống” của Lê Văn Trương, v.v... và một số bài thơ của Nguyễn Bính, nói về đời sống người dân quê ở miền Bắc, ta thấy người dân quê Việt Nam vượt ra ngoài cái mà người ta gọi là “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó.” Họ yêu nhau rất tự nhiên, cả trước khi cha mẹ biết và trước khi cưới. Trong cuốn tiểu thuyết “Tỵ Bái” của Nguyễn Hoạt, ông mô tả cảnh sống rất trụy lạc của một làng quê ngoài Bắc, cảnh mà trong truyện Kiều gọi là “Trên bộc, trong dâu”. Chủ ý của Nguyễn Hoạt là muốn nói lên cảnh sa đọa, bóc lột và bất công của xã hội Việt Nam thời tiến chiến, là chỗ đất tốt để Cộng Sản dễ gieo mầm khởi loạn.

Khung cảnh thiên nhiên trữ tình và môi trường xã hội nông nghiệp dễ làm nẩy sinh tình yêu. Trước hết, cảnh thiên nhiên nào mà chẳng đẹp! Một khung trời xanh biếc, một chiều vàng gió lộng với những tầng mây rực rỡ huy hoàng, cảnh đồng ruộng mênh mông với tiếng lúa rì rào, những dòng sông hiền hòa lặng lẽ, v.v... tác động không ít lên tình yêu thiên nhiên của người ta, khiến người ta mở rộng lòng ra với đời. Thứ hai, việc đồng áng khiến trai gái dễ gần gũi, tiếp xúc với nhau, không chỉ có khung cảnh “Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa” mà thôi mà trai gái làm chung công việc đồng áng trên một thửa ruộng, trên một cánh đồng, trong sân phơi, trong vườn nhà. Công việc đồng áng nặng nhọc và cần nhiều nhân công trong một thời gian nhất định. Ví dụ: Khi cấy, gặt người ta cần tập trung nhiều người và công việc phải kết thúc trong một thời gian ngắn ngủi. Do đó, người nhà quê phải làm “vần công”, nhà nầy giúp nhà kia, rồi trao đổi luân phiên như thế. Hay là các bạn thợ cấy, thợ gặt đi làm mướn từ làng nầy qua làng khác. Đó là lúc trai gái làm việc chung với nhau, đùa giỡn, ca hát. Việc ca hát thịnh hành nhất là vào những đêm trăng giã gạo, trai gái chia hai phe hát đối đáp, v.v... Ngoài ra, trai gái nhà ở kế liền nhau cũng là cơ hội hai người gặp gỡ, chuyện trò, dẫn dắt đến tình yêu.

Sau đây, viện dẫn vài câu ca dao chứng minh những trường hợp trên:

Ví dụ 1:

Hỡi cô gánh nước quang mây
Cho anh một gáo tưới cây ngô đồng
Cây ngô đồng cành cao cành thấp
Ngọn ngô đồng là dọc lá ngang
Quả dưa gang ngoài xanh trong trắng
Quả mướp đắng ngoài trắng trong vàng
Từ ngày anh gặp mặt nàng
Lòng càng ngao ngán, dạ càng ngẩn ngơ

Ở thôn quê, con gái phải ra giếng hoặc ra sông gánh nước. Nước giếng thường để uống, nước sông để tắm giặt hay tưới cây. Người con gái gánh nước đi qua chỗ người con trai. Anh chàng giả xin nước tưới cây ngô đồng. Thực ra, anh ta chỉ mượn ý cây ngô đồng để tỏ tình cùng nàng:

Quang là tiếng Bắc, tiếng Trung và Nam gọi là gióng. Gióng làm bằng cây mây. Anh ta dùng hình ảnh cây ngô đồng cành cao cành thấp hay lá ngô đồng chiếc dọc chiếc ngang, cũng như trái dưa ngoài vỏ trong ruột khác nhau. Tất cả đều giống như tình yêu của anh đối với nàng ngổn ngang nhiều thứ.

Ví dụ 2:

Hỡi anh đi đường cái quan
Dừng chân đứng lại em than đôi lời
Đi đâu vội mấy anh ơi
Cái quần cái áo như người nhà ta
Cái ô em để trong nhà
Khen ai mở khóa đưa ra cho chàng

Đây là lời hát diễu không hẳn là của người con gái mà có thể là bạn cô ấy. Hai người đang làm công việc đồng áng (cấy lúa hay gặt) bên đường cái quan. Đường cái là đường lớn (cái=lớn), đường của quan đi, đường chạy ngựa trạm đưa tin tức của các quan hay triều đình. Người con gái giả bộ nhìn quen qua cái áo cái quần của người đi đường đang mặc, và cả cái ô (dù) người ấy đang cầm. Ai đem dù ra cho chàng đây, ý muốn trêu ghẹo rằng chính người bạn gái đang cùng làm việc đã đưa cho chàng dùng.

Ví dụ 3:

Nàng về giã gạo ba trăng
Để anh gánh nước Cao Bằng về ngâm
Nước Cao Bằng ngâm thì trắng gạo
Anh biết em có liệu được chăng
Trần trần như cuội cung trăng
Biết rằng cha mẹ có bằng lòng không
Để anh chờ đợi uổng công

Người con trai nói với người con gái hễ hai người lấy được nhau thì đẹp đôi lắm, giống như lúa ba trăng ngâm với nước Cao Bằng thì gạo trắng lắm. Lúa ba trăng là lúa trồng ba tháng thì gặt. Nước Cao Bằng có nghĩa là nước đầu sông Hồng Hà, không đỏ như ở hạ lưu. Thế nhưng anh ta thì nghèo, trần lưng không có áo mặc như chú cuội ngồi chăn trâu trên mặt trăng. Anh ta sợ cha mẹ cô gái chê nghèo mà không gã, khiến anh ta phải chờ đợi uổng công.

Ví dụ 4:

Nhớ ai con mắt lim dim
Chân đi thất thểu như chim tha mồi
Nhớ ai hết đứng lại ngồi
Ngày đêm tơ tưởng một người tình nhân

Khi yêu đương, người ta nhớ nhau là một điều rất thường. Hình ảnh người yêu “Con mắt lim dim” và “đi thất thểu” làm người ta nhớ, nhớ ngày nhớ đêm đến người tình. Người ta không thể làm việc gì cho xong vì nhớ quá, “hết đứng lại ngồi”.

Nói về nhớ người yêu, ca dao còn nhiều câu như sau:

Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than

Tình nhớ là tình nóng. Nó không lạnh bao giờ. Nhớ làm cho lòng người ta “như lửa đốt”, “như đứng đống lửa như ngồi đống than.” Nhớ thì vẫn nhớ nhưng phải giấu kín cha mẹ, sợ bị rầy la:

Nhớ ai em những khóc thầm
Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai, ai nhớ bây giờ nhớ ai

Nói về sự nhớ nhung của trai gái yêu đương, có lẽ bài ca dao sau đây là một trong những bài hay nhất:

Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên

Bài ca dao dưới dạng câu hỏi nhưng thực ra đó là câu tán thán. Khăn vắt lên vai mà hờ hững rớt xuống đất là vì nhớ! Đèn thương nhớ mà không tắt vì “đêm đêm thắp ngọn đèn dầu, Ngọn đèn dầu khô cạn nước mắt nầy không khô”. Thắp đèn ngồi nhìn, nhớ người tình và khóc. Dù có tắt đèn đi ngủ cũng không ngủ được (Mắt ngủ không yên).

Những hình ảnh khăn vắt vai hờ hững, chong đèn ngồi nhớ, hay sững sờ quên việc là điều rất thường thấy trong tình trường. Người đàn bà nhà quê thường có khăn vắt vai để lau mặt, lau mồ hôi cho tiện khi đang làm công việc. Trong nam, họ thường dùng khăn rằn. Tục dùng khăn rằn ảnh hưởng từ chiếc khăn rằn của người Miên đồng bằng sông Cửu Long.

Người ta cũng nhớ tới lời thề “nguyện ước ba sinh”, sợ xa cách và sợ người yêu đi lấy chồng khác:

Ví dụ 5:

Nhớ lời nguyện ước ba sinh
Xa xôi ai có biết tình chăng ai
Khi về hỏi liễu Chương Đài (*)
Cành xuân đã bẻ cho ai một cành
Có yêu anh thì bẻ quách cho anh

(*) Hàn Hủ đời Đường (Trung Hoa) có người vợ tên là Liễu thị. Ông đi làm quan xa để vợ ở lại tại phố Chương Đài, kinh thành Trường An. Viết thư, cho vợ: “Chương Đài liễu. Tích nhật thanh thanh kim tại phủ. Giả ưng phan chiết tha nhân thủ.” (Cây liễu Chương Đài xanh xanh ngày xưa nay còn không hay có kẻ khác bẻ mất rồi). Giặc Phiên chiếm Trường An bắt mất Liễu thi. Tướng Hứa Tuấn bắt lại được, nhà vua bèn trao về lại cho Hàn Hủ.

Ví dụ 6:

Tình cờ mà gặp nhau đây
Mượn cắt cái áo, mượn may cái quần
May xong, anh trả tiền công
Bao giờ lấy chồng anh đỡ vốn cho
Giúp em một thúng xôi vò
Một con lợn béo, một vò rượu tăm
Giúp em đôi chiếu em nằm
Đôi chăn em đắp, đôi tằm em đeo
Giúp em quan tám tiền cheo
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau.

Người con trai giả bộ làm quen để tỏ tình với người con gái. Những thứ anh ta gọi là “giúp”, thực sự đó là quà cưới của chàng rể sắm sửa cho cô dâu. Dù yêu nhau trước hôn nhân nhưng cũng cưới hỏi đầy đủ lễ nghi đàng hoàng.

Ví dụ 7:

Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước ra vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em có chồng em tiếc lắm thay
Ba đồng một miếng trầu cay
Sao em không hỏi những ngày còn không
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gở
Chim vào lồng biết thuở nào ra

Đây là lời đối đáp giữa hai người con trai và con gái nhà ở kế cận nhau. Người con trai yêu thầm người con gái, không dám bày tỏ. Khi người con gái đã lấy chồng chàng mới dám thố lộ tình yêu. Khi đó thì đã trễ rồi, vì cô ta đã có chồng, giống như “chim vào lồng”, như “cá cắn câu.”

Ví dụ 8:

Trăm năm diều(*) nỗi hẹn hò,
Cây đa bến cộ (*) con đò khác đưa
Cây đa bến cộ còn lưa(*)
Con đò đã thác (*) năm xưa tê (*) rồi.

(*) Tiếng địa phương Trị Thiên: diều=nhiều. Cộ=cũ. Còn lưa=Còn lại. Thác=chết (tiếng Việt cổ). Tê=kia.

Truyện kể ngày xưa có anh học trò trên đường về kinh đô Huế ứng thí, gặp cô lái đò bên sông. Hai người yêu nhau và thề hẹn. Anh học trò thi hỏng, lưu lạc xứ người mấy năm. Đến khi trở về bến sông cũ thì người con gái không còn giữ lời thề cũ nữa, đã đi lấy chồng.

Ví dụ 9:

Cây đa trốc gốc
Thợ mộc đang cưa
Gặp em đứng bóng ban trưa
Trách trời vội tối phân chưa hết lời.

Cây đa thường trồng ở đầu làng, đầu đình, nơi linh thiêng, trai gái đến đó thề hẹn cùng nhau. Nay “cây đa trốc gốc, thợ mộc đang cưa”, có nghĩa là lời thề không còn, mối tình bị chia xẻ. Chàng gặp cô nàng đã trễ tràng (ban trưa), chưa kịp tỏ bày hết tâm sự thì nàng đã đi lấy chồng hay qua đời sớm (trời vội tối).

Ví dụ 10:

Cầu Trường tiền (*) sáu vài mười hai nhịp
Em qua không kịp tội lắm người ơi
Chẳng thà không biết thời thôi
Biết rồi mỗi kẻ mỗi nơi cũng buồn.

(*) Cầu Trường Tiền hay Tràng Tiền ở Huế, kinh đô đời Nguyễn, nối hai bờ sông Hương.

Cầu nối liền hai bờ để hai người yêu đến với nhau. Nhưng một người qua không kịp cầu, có nghĩa là người kia đã kết hôn (cưới vợ hay lấy chồng). Yêu nhau mà không lấy được nhau chỉ làm cho thêm buồn lòng.
Hỡi anh đi đường cái quan,
Dừng chân đứng lại em than đôi lời

Đây là lời người con gái muốn tỏ tình cùng con trai
Hỡi cô tát nước bên đàng
Cớ sao múc ánh trăng vàng đổ đi?

Lời người con trai trêu ghẹo và muốn tỏ tình cùng cô gái
Hết mùa “toóc” rạ (*) rơm khô
Bạn về quê bạn biết mô mà tìm
(*) “Toóc” hay rạ, phần dưới của cây lúa sau khi đã gặt (phần trên của cây lúa, có bông, gọi là rơm), dùng thay củi hay đốt để làm phân.

Hết mùa gặt, “toóc” rơm ngoài đồng đã khô, lúc đó, “bạn” (người yêu) về quê (sau khi gặt thuê), không còn gặp nhau được nữa.
Qua cầu ngả nón trông cầu
Cầu bao nhiêu dịp dạ em sầu bấy nhiêu

Cầu nối liền hai bờ, cho người hai bên sông qua lại gặp gỡ và yêu đương. Nay cầu vẫn còn mà tình không còn, cho nên cầu dài bao nhiêu thì lòng buồn bấy nhiêu.
Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói dạ thương mình bấy nhiêu.

Đình làng, chỗ thờ thành hoàng, người xây dựng lên làng đó, trai gái thường đến đó thề bồi. Nay tình yêu tan vỡ, trông đình, nhớ lời thề cũ, càng thương mình và thấy nhớ yêu người cũ.
Thương nhau cởi áo cho nhau
Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay

Tình yêu hai người khá mãnh liệt, cô nàng dám cởi áo cho chàng để chàng giữ cái hơi. Rồi về nhà nói dối với mẹ.
Tóc mai sợ vắn sợ dài
Lấy nhau chẳng đặng thương hoài ngàn năm

Tóc mai là những sợi tóc ngắn ở trán, thường trang điểm cho khuôn mặt thêm đẹp, duyên dáng. Có thể đã cắt tóc nầy mà thề nguyện với nhau. Tóc còn đó mà không lấy nhau được, tình yêu có bao gờ quên!?

Lưu ý bạn đọc. Bây giờ nhiều người thường sửa chữ thương thành chữ yêu (“Thương nhau cởi áo...” thành “Yêu nhau cởi áo... ), như vậy là sai. Người xưa ít khi dùng chữ yêu mà hay dùng chữ thương. “Anh có thương tui không?” hoặc “Thương chàng lắm lắm chàng ơi.” “Thương nhau lắm, cắn nhau đau.” Chữ yêu là chữ của người có học, hay thường dùng trong văn chương. Giới bình dân dùng chữ thương. Thương là hy sinh, là cho mà không đòi lại, không so sánh nhiều ít, hơn thua, không giống như Xuân Diêu “Yêu là chết ở trong lòng một ít” và “Cho rất nhiều song chẳng nhận bao nhiêu!”

Ngoại trừ một số bần nông, cố nông, sự cách biệt trong xã hội nông nghiệp Việt Nam không quá xa nên việc hôn nhân không nhiều trở ngại về giai cấp, giàu nghèo như trong xã hội phong kiến Ây Tây. Vả lại, mục đích chính của hôn nhân là hạnh phúc lứa đôi nên điều cần thiết để thành công trong đời sống vợ chồng không phải là giàu có hay địa vị mà chính là sự hòa thuận yêu thương nhau của hai người. “Thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn.” Từ ý nghĩa đó, quan điểm hôn nhân của người nhà quê Việt Nam thường ít khi khắt khe về giàu nghèo hay giai cấp. Chẳng hạn như trong truyện cổ tích “Chữ Đồng Tử và công chúa Tiên Dung” thì Chữ Đồng Tử là một anh chàng đánh cá nghèo khổ đến nỗi không có cả cái khố mà mặc, trong khi đó Tiên Dung là một công chúa. Tuy nhiên, hai người vẫn yêu nhau ngoài ý kiến của vua cha (Chữ Đồng Tử lúc gặp công chúa thì đã mồ côi cả cha lẫn mẹ). Trong đời sống vợ chồng họ thành công vượt bực vì thuận hòa với nhau. Theo quan điểm chung của người Việt, tình yêu đó, hôn nhân đó là do Trời sắp đặt.

Trong khi đó thì chuyện tình giữa Trương Chi, anh thuyền chài và Mỵ Nương con quan tể tướng thì tan vỡ. Mỵ Nương yêu tiếng hát của Trương Chi nhưng khi thấy Trương Chi thì nàng thất vọng vì chàng xấu xí (mặt rỗ) và nghèo. Yếu tố chính làm tan vỡ tình yêu là vì chàng xấu trai quá chứ chưa chắc vì chàng nghèo. Ngược lại, Trương Chi yêu Mỵ Nương vì nàng đẹp chứ không phải vì nàng là con quan tể tướng. Do đó, qua truyện nầy, yếu tố mỹ thuật (đẹp xấu) trở thành vấn đề quan trọng trong tình yêu. Tuy nhiên, Trương Chi vẫn yêu thầm cho đến chết và trái tim hóa đá. Yếu tố làm tình yêu tan vỡ là vì Trương Chi xấu trai hay vì sự xa cách giàu nghèo, người dân thường và gia đình quan to?!

Suy cho cùng, đẹp vẫn thường là yếu tố không kém quan trọng trong tình yêu và hôn nhơn. Do đó, có câu tục ngữ an ủi cho ai lấy chồng “xấu trai”: “Củi tre dễ nấu, chồng xấu dễ sai.”

Trong truyện “Bích câu kỳ ngộ” (Tú Uyên -Giáng Kiều) có một yếu tố quan trọng khác thường thấy trong tình yêu của người Việt Nam. Đó là: “Trai tài. Gái sắc”. Tú Uyên học giỏi, có nghĩa là văn hay chữ tốt, Giáng Kiều là nàng tiên, -không có nàng tiên xấu bao giờ. Hai người yêu nhau trước khi thành hôn.

Tài, ngoài nghĩa văn hay chữ tốt còn có nghĩa là người chỉ huy. Người con gái ngoài cái đẹp còn phải buôn bán giỏi (Một yếu tố khác trong công-dung-ngôn-hạnh). Chẳng hạn “Trai khôn tìm vợ chợ đông, Gái khôn tìm chồng giữa đám ba quân.”

Truyện Từ Thức lại cho thấy một tiêu chuẩn khác nữa trong tình yêu: Tính hào hiệp của người đàn ông. Từ Thức cầm áo lấy tiền để chuộc nàng tiên khỏi bị bắt tội vì làm gãy cành hoa. Nàng tiên trong truyện “cảm” Từ Thức, trước hết không phải vì Từ Thức đẹp trai. Trong truyện không mô tả Từ Thức đẹp hay không đẹp. Cũng không phải vì Từ Thức học giỏi và làm quan. Hai người gặp nhau rất tình cờ, không ai biết quá khứ của ai. Nàng yêu chàng vì chàng có lòng cao thượng, hào hoa. Ngay khi ấy, có thể Từ Thức thấy nàng đẹp nhưng chưa yêu. Chàng từ quan trở về quê cũ không phải vì người chàng yêu mà vì chàng chán cảnh quan trường. Chàng đi “ngao du sơn thủy” không phải để tìm nàng mà vì chàng thấm nhuần đạo Tiên (Lão). Chàng gặp lại nàng là do sự sắp xếp của tiên mẫu, của Trời. Nếu chàng yêu thắm thiết nàng, có lẽ Từ Thức sẽ không xin vợ trở về dương thế. Sự kiện nầy làm cho mối tình hai người tan vỡ. Từ Thức không bao giờ gặp lại vợ nữa.

Chủ nghĩa cá nhân không phát triển mạnh trong xã hội Việt Nam. Yêu đương là điều tự nhiên của trai gái, nhưng mục đích cuối cùng của nó là hôn nhân. Vì vậy, họ yêu nhau không phải chỉ để yêu chơi, một trò chơi mà rất tôn trọng mối tình của họ. Do đó, trong tình yêu, người Việt Nam rất hay thề bồi. Ý nghĩa lời thề là giữ trọn lòng chung thủy, không quên nhau, không bỏ nhau, v.v... Nơi họ thường đến thề thường là nơi thờ phượng linh thiêng, chẳng hạn như ở đình làng là nơi thờ thành hoàng, người lập ra làng ấy, cây đa bên đình hay ở đầu làng, ở đền chùa miếu mạo hay chỉ vào vầng trăng mà thề như trong truyện Kiều. Có khi những lời thề đó rất độc, đem tính mạng và danh dự để bảo đảm cho lời thề của mình. Từ ý nghĩa đó, mỗi người chỉ có một nhân tình mà thôi.

Ca dao có câu:

Sông dài mà lắm đò ngang,
Em nhiều nhân ngãi, em mang oán thù.

Không phải là không có sự phân biệt trong tình yêu của người Việt Nam. Khi người con gái đi lấy chồng, họ thuộc về gia đình chồng, không còn thuộc gia đình họ nữa. Lâu lâu, người con gái mới về thăm lại cha mẹ mình còn thường thì bận bịu lo công việc nhà chồng. Đặc biệt khi có con cái thì họ chẳng có thì giờ để về thăm cha mẹ nữa. Lấy chồng người cùng làng, hay gần làng còn có dịp lui tới. Lấy chồng xa, việc đi lại khó khăn, việc thăm viếng cha mẹ càng khó khăn.

Câu ca dao sau đây bảy tỏ lòng trông ngóng, chờ mong của một người vợ lấy chồng ở xa:

Sáng trăng suông vằng vặc cái đêm hôm rằm
Nửa đêm và sáng trăng bằng ngọn tre
Em trót yêu anh cho trọn một bề
Để anh thấp thoáng ngồi kề bóng trăng
Sự tình nầy ai thấu cho chăng!
Để anh ngồi tựa bóng trăng chịu sầu
Gánh tương tư một dịp đôi ba cầu
Bắc Nam đôi ngã chịu sầu đôi nơi
Con chim khôn chết mệt vì mồi
Chim kêu réo rắt gọi người tình chung
Hai chúng ta vấn vít sợi tơ hồng
Nồi đồng thì úp vung đồng
Con gái xứ Bắc lấy chồng Đồng Nai
Giậm chân xuống đất kêu trời
Chồng tôi vô Quảng biết đời nào ra

Tục ngữ có câu “Nồi nào úp vung nấy” có nghĩa là cần có sự đồng nhất giữa hai vật, hai người, sự hài hòa, hòa hợp giữa hai bên. Trong ý nghĩa của câu ca dao trên thì người Bắc nên lấy chồng miền Bắc hay người Nam lấy chồng người Nam. Vô Quảng không hẳn chỉ là tỉnh Quảng Nam ngày nay. Trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh, xứ Nam tức là đạo Quảng Nam, là đằng Trong, là từ sông Gianh trở vào. Ngày xưa, phương tiện di chuyển khó khăn, việc đi lại hai miền rất nhiều cách trở, cho nên lấy chồng xa xứ là một điều rất trở ngại làm cho hai vợ chồng nhiều khi phải sống xa nhau, người chồng đi xa lâu không thấy về.

Điều cấm kỵ thứ hai là kết hôn với những người làm nghề ca xướng. Tục ngữ có câu “Xướng ca vô loại.” Trong truyện Nguyễn Kỳ và người ca nữ, cuối cùng hai người không lấy dược nhau cũng bởi lý do nầy.

Nhìn chung, Việt Nam là một xã hội tôn trọng luân lý, có khi vì ảnh hưởng Nho giáo, nhất là Tống Nho, nên có nghiêm khắc trong vấn đề quan hệ nam nữ, nhưng cũng không quá khắt khe đến độ có thể triệt tiêu tình cảm của con người, nhất là tình yêu trai gái là tình yêu tự nhiên trong cuộc sống của con người và sự tồn tại của nhân loại. Trong viễn tượng đó, trong con người Việt Nam, nhất là ở nông thôn, tình yêu lứa đôi nảy nở rất tự nhiên, trong sáng và chung thủy, không thiên về vật dục như trong xã hội Âu Mỹ. Tình yêu của họ có mục đích rõ rệt là nhằm tiến tới hôn nhân và xây đắp tương lai, thiên về trách nhiệm đối với gia đình và xã hội, chứ không quá trọng về mục đích hưởng thụ khoái lạc như người Âu Tây.

Tuy nhiên, qua việc Âu hóa và qua nhiều cuộc chiến tranh lâu dài, mục đích hướng thượng đó ngày nay trong xã hội Việt Nam bị vẩn đục đi rất nhiều. Đó là một điều đáng tiếc vậy.


Từ blog : nhatquy.violet.vn
 

VnKienthuc lúc này

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top