• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Tinh thần doanh nhân và doanh nghiệp nhỏ

  • Thread starter Thread starter HuyNam
  • Ngày gửi Ngày gửi
H

HuyNam

Guest
Tinh thần doanh nhân và doanh nghiệp nhỏ



Những doanh nghiệp nhỏ thành công có vai trò thiết yếu đối với việc duy trì sự năng động trong nền kinh tế Hoa Kỳ. Những con số nêu ra dưới đây tự nó đã nói lên tất cả:



  • 99% doanh nghiệp Hoa Kỳ có quy mô nhỏ;
  • Các doanh nghiệp nhỏ tạo ra khoảng 75% công ăn việc làm mới trong nền kinh tế Hoa Kỳ mỗi năm;
  • Các doanh nghiệp nhỏ chiếm 99,7% lực lượng sử dụng lao động;
  • Các doanh nghiệp nhỏ chiếm 50,1% lực lượng lao động tư nhân;
  • Các doanh nghiệp nhỏ chiếm 40,9% doanh số bán hàng của khu vực tư nhân ở Hoa Kỳ.


Chính sự sáng tạo, đổi mới, tự chủ và lòng quyết tâm của các chủ doanh nghiệp nhỏ đã giúp họ chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế Hoa Kỳ. Các doanh nghiệp nhỏ cho phép ngày càng mở rộng sự tham gia của nhiều giới trong xã hội, tạo công ăn việc làm, phi tập trung quyền lực kinh tế và giúp người dân có cơ hội trong tương lai. Sở hữu một doanh nghiệp nhỏ tuy vất vả nhưng không phải không có thành quả. Sở hữu doanh nghiệp sẽ thúc đẩy quyền tự do cá nhân và đem lại nhiều quyền hạn cho mỗi cá nhân. Điều đóNó còn củng cố và duy trì sự ổn định chính trị và xã hội, thúc đẩy sự đổi mới, tăng năng suất lao động, và do đó tạo thêm nhiều của cải cho địa phương và thậm chí cả quốc gia nữa.Tuy nhiên, bản thân các doanh nghiệp nhỏ không thể thực hiện được điều đó. Chính phủ Hoa Kỳ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nhân. Hoa Kỳ thực hiện chính sách giảm thiểu rào cản pháp lý, loại bỏ tệ quan liêu nhằm xây dựng một môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp nhỏ và giúp duy trì sự hoạt động của các cửa hàng tạp hóa và những cửa hàng bán lẻ ở các địa phương. Nếu không có sự quan tâm đúng mực, các chính sách của cChính phủ có thể bóp nghẹt sự phát triển của khu vực doanh nghiệp nhỏ trong bất kỳ nền kinh tế nào.Nhằm xây dựng môi trường thuận lợi cho sự hưng thịnh của các doanh nghiệp nhỏ ở Hoa Kỳ, Tổng thống George W. Bush đã cùng với khu vực tư nhân, các tổ chức phi lợi nhuận, các tổ chức cộng đồng và tín ngưỡng tập trung nguồn lực, tài năng và chuyên môn để đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế và doanh nghiệp, nhất là ở những khu vực còn thiếu sự quan tâm. Các tổ chức nêu trên cùng nhau hợp tác đào tạo những người Mỹ có quan tâm về tinh thần kinh doanh. Họ tổ chức các lớp học về cách tuyển dụng, đàm phán ký kết hợp đồng và tiếp thị sản phẩm.Đầu tư của Chính phủ cho các doanh nghiệp nhỏ không chỉ đem lại lợi ích cho chính các doanh nghiệp này mà còn làm lợi cho cả nền kinh tế và xã hội chúng ta nói chung. Một doanh nghiệp nhỏ hoạt động tốt sẽ tạo công ăn việc làm cho cộng đồng và giúp cả người sử dụng lao động và người lao động có cơ hội được hưởng những thành quả trong cộng đồng. Trong thời kỳ khó khăn, chính những cửa hàng tạp hóa lại giúp chúng ta vươn tới thời kỳ tươi sáng hơn. Chính phủ phải có trách nhiệm đảm bảo các chính sách của mình tạo điều kiện thuận lợi – chứ không phải là rào cản – cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp nhỏ hưng thịnh và khuyến khích người dân làm chủ doanh nghiệp nhỏ.
 
Doanh nghiệp nhỏ góp phần mở rộng nền kinh tế Hoa Kỳ như thế nào?


Derek Leebaert


Các doanh nghiệp nhỏ đóng góp cho cả toàn bộ nền kinh tế và xã hội Hoa Kỳ nhiều hơn nhiều so với những gì con số có thể tính toán qua chi tiêu và lợi nhuận mà các doanh nghiệp này đem lại. Những doanh nghiệp quy mô nhỏ có xu hướng đổi mới nhiều hơn về mặt kinh tế so với các công ty lớn hơn, có thể ứng phó tốt hơn trước nhu cầu luôn thay đổi của người tiêu dùng và tạo nhiều cơ hội hơn cho phụ nữ, các nhóm sắc tộc thiểu số cũng như thúc đẩy hoạt động ở những khu vực có tỷ lệ thất nghiệp caonghèo đói. Tác giả cho rằng “Xây dựng, điều hành và thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ phát triển nằm trong chuỗi tuần hoàn của sáng tạo và đem lại sự giàu có cho những con người đầy nhiệt huyết và suy nghĩ chín chắn khắp mọi nơi. Không có bí quyết nào, và tiền bạc thường không quan trọng bằng sự kết hợp giữa ý chí tưởng và quyết tâm hành động”.



Derek Leebaert là Giáo sư Hành chính công tại Đại học Georgetown. Ông là đồng tác giả bộ sách ba tập do Nhà xuất bản Viện Công nghệ Massachusettes (MIT) ấn hành về cuộc cách mạng công nghệ thông tin, đồng thời là cố vấn cho công ty tư vấn toàn cầu Management Assessment Partners (MAP).

Du khách đến Hoa Kỳ sẽ thấy có rất nhiều tờ báo và tạp chí dành riêng cho doanh nghiệp: Nhật báo Phố Wall, Fortune, Forbes, Business Week, Barron’s. Du khách cũng thấy người ta nhắc tới chỉ số chứng khoán Dow Jones và S&P 1000 trên đài phát thanh và truyền hình – những số liệu thống kê phản ánh diễn biến của thị trường chứng khoán theo giá trị của các công ty lớn nhất Hoa Kỳ. Cụm từ Fortune 500 do tạp chí Fortune đưa ra cách đây 50 năm chỉ thứ hạng các công ty hàng đầu ở Hoa Kỳ: General Motors, General Electric, DuPont và gần đây hơn là Microsoft và Oracle. Tuy nhiên, những thương hiệu như Ford, Coca Cola và IBM có lẽ là những cái tên quá đỗi quen thuộc ở đất nước của du khách hàng vài thập kỷ. Trong bối cảnh đó, du khách có thể có cảm giác rằng nền kinh tế, công ăn việc làm, sự đổi mới và xuất khẩu ở Hoa Kỳ hoàn toàn do các công ty khổng lồ đó chi phối.

Rất nhiều người Mỹ cũng có cảm nhận như vậy, song đáng tiếc điều đó lại là sai. Lẽ dĩ nhiên, 500 hay 1.000 công ty lớn nhất cũng đã đủ là nguồn tư liệu viết bài cho các phóng viên, như có thể thấy qua mục tin thời sự hàng ngày về những vụ bê bối liên quan tới hội đồng quản trị và việc thôn tính các công tychuyển giao tập đoàn. Những công ty đó thực sự được người ta chú ý tới và có ảnh hưởng chính trị thực sự. Nhờ quy mô và sự ổn định tương đối của mình, các công ty này cũng trở thành nơi chứa đựng quỹ lương hưu và vốn đầu tư dài hạn của rất nhiều người Mỹ. Họ cũng chiếm phần lớn trong tổng lượng hàng hóa và dịch vụ ở Hoa Kỳ. Nhưng để có thể hiểu quy mô đầy đủ sản lượng kinh tế của quốc gia cũng như việc tạo công ăn việc làm và sức đổi mới trong nền kinh tế Hoa Kỳ chứ chưa nói tới nguồn gốc của những tập đoàn khổng lồ này, chúng ta cần tìm hiểu bức tranh đằng sau những bài báo trên trang nhất đó.

THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG Ở HOA KỲ

Các doanh nghiệp quy mô lớn và nhỏ không phải là những mảng khu vực riêng biệt trong nền kinh tế Hoa Kỳ. Trái lại, họ mua sản phẩm của nhau và tận dụng sự đổi mới của mỗi bên để tạo ra tăng trưởng kinh tế. Các doanh nghiệp nhỏ hơn thường là những doanh nghiệp có thâm niên ít hơn do các doanh nhân tự thân khởi xướng. Chính điều đó đã góp phần thúc đẩy hơn nữa tốc độ tăng trưởng kinh tế thông qua việc thách thức các công nghệ và cách làm cũ. Đến lượt nó, tăng trưởng kinh tế lại thôi thúc các hoạt động của doanh nhân tinh thần kinh doanh thông qua việc tạo thị trường và tạo nguồn vốn cho cả nam lẫn nữ đủ sức táo bạo để tự chèo lái trong biển cả sóng gió của nền "kinh tế" không ngừng được mở rộng.


Nhờ phong trào khởi sự doanh nghiệp như vậy nên Hoa Kỳ đã thu lợi nhiều hơn từ chu trình tăng trưởng nêu trên so với các quốc gia phát triển khác. Xét ở góc độ nào đó, tinh thần kinh doanh hiển hiện ở khắp mọi nơi ở Hoa Kỳ, và điều đó không có nghĩa là nó chỉ bó hẹp trong phạm vi ngành công nghệ cao như báo chí thường đưa tin. Một doanh nghiệp nhỏ cũng không nhất thiết phải là một doanh nghiệp mới. Nhưng duy trì sự tồn tại của nó đòi hỏi một doanh nhân không chỉ đơn thuần tránh cạm bẫy của đồng tiền mà còn phải có được sức mạnh vươn tới và có được vị thế như của các tập đoàn lớn.

Doanh nghiệp nhỏ không phải chỉ duy nhất được định nghĩa lượng bằng theo doanh thu, hay số lượng nhân viên hoặc thời gian tồn tại mà còn phải bằng vai trò của nó trong nền kinh tế. Chẳng hạn, một công ty chế tạo "quy mô nhỏ" là công ty có dưới 500 công nhân, trong khi đó một công ty bán buôn "quy mô nhỏ" lại có thể có dưới 100 nhân viên. Vì mức chi phí nguyên liệu có khác nhau đối với mỗi chủ doanh nghiệp, nên chẳng hạn một doanh nghiệp trải rửa thảm sẽ được coi là "nhỏ" nếu doanh thu hàng năm của công ty đạt dưới 4 triệu đô-la trong khi một công ty xây dựng "quy mô nhỏ" lai có mức doanh thu khoảng 30 triệu đô-la. Các nhà thống kê đòi hỏi sự chính xác như vậy để gắn kết các doanh nghiệp này với các chương trình Chính phủ cho vay vốn, đào tạo và miễn giảm thuế của chính phủ dành cho những công ty đem lại tăng trưởng.

Quả thực, có những doanh nghiệp "siêu nhỏ" có doanh thu dưới một triệu đô-la mỗi năm – một con số tương đối nhỏ trong giới doanh nghiệp – chúng ta có thể nghĩ như vậy cho đến khi nhận thấy rằng những doanh nghiệp siêu nhỏ đó lại chiếm tới 15% nền kinh tế Hoa Kỳ. Ở một thái cực khác, chúng ta có thể thấy có những "nhà sản xuất quy mô nhỏ" có tới 500 công nhân mặc dù hầu hết vẫn thuộc sở hữu gia đình – và có khoảng 330.000 công ty riêng lẻ, tạo công ăn việc làm cho khoảng bảy triệu người.

Từ một doanh nghiệp phần mềm do hai người khởi xướng tới đội xe tải giúp xây dựng các thành phố, khu vực doanh nghiệp nhỏ đã trở thành chất xúc tác thúc đẩy mở rộng kinh tế do:

chiếm tới 99,7% lực lượng sử dụng lao động ở Hoa Kỳ, và điều đó có nghĩa là chỉ khoảng 17.000 công ty, chiếm 0,3% tỷ lệ sử dụng lao động, có 500 hoặc nhiều nhân viên hơn;



  • tạo ra một nửa tổng sản phẩm phi nông nghiệp cho nền kinh tế Hoa Kỳ, tạo công ăn việc làm cho một nửa số người Mỹ không làm việc trong nhà nước trong khi hàng năm tạo thêm 60% đến 80% số công ăn việc làm mới (ngoài chính phủ);
  • chiếm 97% công ty xuất khẩu, và đóng góp 29% tổng giá trị xuất khẩu. Đây là những điểm quan trọng nếu chúng ta biết rằng trong suốt 10 năm qua, xuất khẩu đóng góp khoảng 25% vào tăng trưởng kinh tế và tạo ra khoảng 12 triệu công ăn việc làm;
  • giành được khoảng 24% tổng số hợp đồng của Chính phủ, từ đóng tàu tới việc in các cuốn sách nhỏ giới thiệu.
Các doanh nghiệp nhỏ thường là khởi nguồn cho những doanh nghiệp lớn, như đã được minh chứng qua lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập của hãng máy tính Apple do ba thành viên của Câu lạc bộ Máy tính Homebrew sáng lập năm 1976. Nhưng không phải tất cả trong tổng số 23 triệu doanh nghiệp nhỏ ở Hoa Kỳ khát khao lọt vào danh sách Fortune 500. Có những công ty chẳng hạn như công ty ủ bia Anchor Steam đã nhận thấy rằng lợi nhuận có thể bắt nguồn từ ý muốn cưỡng lại việc mở rộng quy mô. Các công ty như thế đóng góp cho nền kinh tế bằng cách tạo ra những sản phẩm và dịch vụ ngáchchuyên biệt mà các tập đoàn lớn không cung cấp và thường đòi hỏi giá thành cao hơn cho sự chuyên môn hóa như vậy. Chính sự đa dạng và năng động của nền kinh tế đã giúp đảm bảo tính liên tục trong phát triển.

ĐỔI MỚI VÀ LINH HOẠT

Các doanh nghiệp nhỏ cũng là chất xúc tác thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, góp phần quan trọng vào tổng sản phẩm quốc dân và đóng góp cho xã hội nói chung lớn hơn nhiều so với những con số chi tiêu và lợi nhuận mà họ đạt được. Chúng ta hãy xem xét những điểm sau.

Về đổi mới trong kinh tế:



  • số lượng các bằng phát minh sáng chế tính theo mỗi công nhân trong các doanh nghiệp nhỏ cao gấp 13 đến 14 lần so với các công ty lớn;
  • các bằng phát minh sáng chế của các doanh nghiệp nhỏ có khả năng lọt vào danh sách 1% được trích dẫn nhiều nhất (tức là quan trọng nhất) cao gấp hai lần so với các công ty lớn;
  • các doanh nghiệp nhỏ chiếm tới 39% số nhân công công nghệ cao như các nhà khoa học, kỹ sư, chuyên gia công nghệ thông tin, và chiếm phần lớn trong tổng số những sáng tạo trong các công ty của Hoa Kỳ;
  • những doanh nghiệp này có khả năng dễ dàng thiết lập các liên minh và quan hệ hợp tác mới – trái ngược hẳn với các công ty lớn có lợi ích cạnh tranh rõ ràng như có thể thấy qua việc so sánh giữa các công ty công nghệ sinh học với các tập đoàn dược phẩm khổng lồ của Hoa Kỳ.
Về mức độ linh hoạt trong kinh tế:



  • Ngân sách dồi dào dành cho công nghệ thông tin đã cho phép các doanh nghiệp nhỏ nhanh chóng đáp ứng những nhu cầu luôn thay đổi của khách hàng: các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới 45% tổng ngân sách dành cho công nghệ ở Hoa Kỳ.
  • Những công ty có từ 100 đến 1000 công nhân cấp ngân sách cho công nghệ nhanh gấp tám lần so với các tập đoàn, do đó càng cho phép chủ các doanh nghiệp này liên hệ chặt chẽ với người sử dụng sản phẩm và dịch vụ của họ;
  • Bằng cách áp dụng các kỹ thuật sản xuất linh hoạt với sự hỗ trợ của công nghệ và các phương pháp tối ưu mới, các doanh nghiệp nhỏ có thể thích ứng nhanh hơn với các điều kiện kinh tế luôn thay đổi;
  • Các doanh nghiệp nhỏ còn là nơi giảm thiểu "dư chấn" bắt nguồn từ những biến động về công ăn việc làm do việc giảm biên chế và toàn cầu hóa gây ra: 53% doanh nghiệp nhỏ hoạt động ở địa điểm bên ngoài nơi ở của một cá nhân, từ dịch vụ làm tóc cho những người hàng xóm cho tới tư vấn cho các doanh nghiệp nhỏ và lớn khác.
Về việc đảm bảo ổn định xã hội:



  • Các doanh nghiệp nhỏ là cửa ngõ đón nhận lực lượng nhân công mới hoặc trước đây đã bị gạt bỏ trong nền kinh tế: chẳng hạn, các doanh nghiệp nhỏ của phụ nữ đã đem lại doanh thu khoảng 1000 tỷ đô-la mỗi năm và tạo công ăn việc làm cho hơn 7 triệu người;
  • Các doanh nghiệp nhỏ ngày càng tạo nhiều cơ hội kinh doanh cho các sắc tộc thiểu số. Theo số liệu điều tra dân số, các sắc tộc thiểu số hiện làm chủ 4,1 triệu doanh nghiệp, mỗi năm có doanh thu 695 tỷ đô-la và tạo công ăn việc làm cho 4,8 triệu người;
  • Các doanh nghiệp nhỏ cũng tạo ra hoạt động kinh tế ở những khu vực nghèo đóicó tỷ lệ thất nghiệp cao: khoảng 800.000 công ty (90% trong số đó là các doanh nghiệp siêu nhỏ) nằm ở những khu vực nghèo nhất trong 100 thành phố lớn nhất Hoa Kỳ.
  • Các doanh nghiệp nhỏ đem lại sự tự chủ và hài lòng trong công việc: các nghiên cứu cho thấy hầu hết các doanh nghiệp được thành lập là để đổi đời chứ không phải do thiếu giải pháp thay thế. Mỗi tháng ở Hoa Kỳ có khoảng 500.000 doanh nghiệp mới được thành lập.
CHUỖI TUẦN HOÀN

Doanh nghiệp nhỏ chiếm đa số trong nền kinh tế Hoa Kỳ, nhưng ảnh hưởng của chúng còn lớn hơn quy mô tương đối lớn nêu trên. Do sự thịnh vượng của các nền kinh tế ngày càng phụ thuộc vào việc khai thác tri thức chứ không phải là nguyên liệu thô nên lợi ích từ sự đổi mới, sáng tạo, linh hoạt, chuyên môn hóa và tùy biến theo nhu cầu khách hàng trên quy mô lớn – cho dù là bán bánh sandwich hay lập phần mềm máy tính – lớn hơn bao giờ hết. Mặc dù tỷ lệ người Mỹ làm việc trong các công ty nằm trong danh sách Fortune 500 đã dần giảm đi (từ 20% lực lượng lao động năm 1980 xuống mức dưới 9% hiện nay), song trong suốt hơn 10 năm vừa qua, trung bình mỗi năm có 9,36% dân số đã tự khởi đầu doanh nghiệp của chính họ.

Có những thành công – 2/3 doanh nghiệp mới có từ một nhân công trở lên vẫn hoạt động sau hai năm thành lập – và cả những thất bại thực sự. Nhưng những thất bại đó đã không gây ra sự kỳ thị ở nước Mỹtrong xã hội. Ta Họ có thể lại bắt đầu từ đầu, có thể sáng tạo hơn, hiểu biết thị trường hơn và có những đồng minh kinh doanh mới. Thành lập, điều hành và thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ nằm trong chuỗi tuần hoàn sáng tạo và đem lại sự giàu có cho những người có chí và quyết tâm hành động ở bất cứ nơi đâu. Không có một bí mật nào nhưng thông thường tiền bạc ít quan trọng bằng sự kết hợp giữa ý tưởng chí và nỗ lực hành động.



 
Doanh nghiệp nhỏ trong lịch sử Hoa Kỳ


Christopher Conte

Vốn từ lâu người Mỹ đã đề cao các doanh nghiệp nhỏ không chỉ vì đây là lực lượng xây dựng nền kinh tế mà còn thúc đẩy dân chủ. Hơn một thế kỷ qua, Hoa Kỳ đã thực thi nhiều đạo luật nhằm ngăn chặn doanh nghiệp lớn cạnh tranh không bình đẳng với các doanh nghiệp nhỏ. Cho dù doanh nghiệp nhỏ có tạo ra số công ăn việc làm không tương xứng hay không vẫn còn là điều chưa rõ, song rõ ràng họ đã có ảnh hưởng tới các doanh nghiệp lớn – những đơn vị đã áp dụng các thực tiễn phương pháp sản xuất linh hoạt của các công ty nhỏ hơn.

Christopher Conte, nguyên là biên tập viên và phóng viên của tờ Nhật báo Phố Wall, là nhà báo nghiệp dư chuyên đưa tin về nhiều vấn đề chính sách công khác nhau.


Ngày nay, các doanh nghiệp cả lớn lẫn nhỏ dường như đã đạt đến điểm cân bằng nào đó. Chẳng hạn, tỷ trọng của các doanh nghiệp nhỏ trong GDP Hoa Kỳ năm 1958 đạt 57% và kể từ 1980 đến nay còn khoảng 50%. Nếu Calvin Coolidge vẫn còn sống đến ngày hôm nay hẳn ông sẽ xem xét kỹ những con số đó và vẫn bảo vệ quan điểm của ông cho rằng công việc chính của Hoa Kỳ là kinh doanh. Nhưng ông cũng có thể nói thêm rằng kinh doanh ở Hoa Kỳ có đủ mọi loại quy mô – cả lớn lẫn nhỏtừ nhỏ đến lớn.



Calvin Coolidge, Tổng thống Hoa Kỳ trong thời kỳ "đầy biến động" trong thập niên 1920, đã có tuyên bố nổi tiếng rằng "công việc chính của Hoa Kỳ là kinh doanh". Trong 100 năm đầu tiên sau ngày lập quốc – cho đến tận những năm 1880 – có thể khẳng định rằng sự sống động của Hoa Kỳ chính là sự sống động của các doanh nghiệp nhỏ bởi lẽ gần như tất cả mọi doanh nghiệp trong những năm đó đều có quy mô nhỏ. Tất nhiên, kể từ đó đến nay, các doanh nghiệp lớn đã làm lu mờ đáng kể vị trí của các doanh nghiệp nhỏ, song đại đa số – xấp xỉ 90% các doanh nghiệp ở Hoa Kỳ có dưới 20 công nhân – vẫn có quy mô nhỏ. Hơn nữa, các doanh nghiệp nhỏ tiếp tục nằm sâu trong tiềm thức của người dân Hoa Kỳ.

Các doanh nghiệp không còn sự lựa chọn nào khác ngoài quy mô nhỏ trong những ngày đầu lập quốc. Giao thông chậm chạp và thiếu hiệu quả, khiến thị trường manh mún, không thể tiếp sức cho doanh nghiệp có quy mô lớn. Các định chế tài chính cũng quá nhỏ, không đủ sức cung cấp cho các doanh nghiệp lớn. Năng lực sản xuất cũng hạn chế vì gió, nước và sức lực của gia súc là những nguồn năng lượng duy nhất. Song, cho dù các doanh nghiệp này có quy mô nhỏ vì bất kỳ lý do nào đi chăng nữa, người Mỹ vẫn thích cách tổ chức như vậy. Họ cho rằng các doanh nghiệp nhỏ sẽ tạo ra bản sắc và thúc đẩy dân chủ. Như Thomas Jefferson, Tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ, đã nói, một quốc gia có nhiều nông dân và doanh nhân sẽ tránh được sự phụ thuộc. Sự lệ thuộc "là căn nguyên của thói ỷ lại và tha hóa, bóp chết mọi đức hạnh và sẽ là những công cụ thực hiện tham vọng mù quáng".

Lòng tin của người Mỹ vào doanh nghiệp nhỏ đã được thử thách trong cuối những năm 1800. Đường sắt, điện tín, sự phát triển của máy hơi nước và tốc độ tăng dân số nhanh chóng đã tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp – nhất là những doanh nghiệp sử dụng nhiều vốn như sơ chế kim loại, chế biến thực phẩm, chế tạo máy móc và hóa học – đã có thể mở rộng quy mô và tăng cường hiệu quả hoạt động. Nhiều người ăn mừng vì có mức lương cao hơn, giá rẻ hơn cùng với sự ra đời của các doanh nghiệp lớn, song cũng có nhiều người khác lo lắng những phẩm chất mà Jefferson cổ xúy có thể sẽ bị phôi pha. Nhà sử học Mansel Blackford đã viết trong cuốn Lịch sử Doanh nghiệp nhỏ ở Hoa Kỳ "Thậm chí ngay cả khi người ta theo đuổi mô hình mà họ cho là ưu việt về hiệu quả và năng suất lao động chỉ có ở các doanh nghiệp lớn mới có thể có thì người Mỹ vẫn cứ trân trọng chủ các doanh nghiệp nhỏ về tính tự chủ và độc lập".

PHÁP LUẬTQUY VÀ THỰC TIỄN KINH TẾ

Như Blackford đã miêu tả, các nhà hoạch định chính sách đã không ngừng tìm cách hài hòa giữa việc đề cao những lợi ích mà các doanh nghiệp lớn mang lại cho họ với sự trân trọng dành cho chủ doanh nghiệp nhỏ. Năm 1887, Quốc hội Hoa Kỳ đã ban hành Đạo luật Thương mại Liên bang để điều tiết các tuyến đường sắt, một phần là để bảo vệ các doanh nghiệp nhỏ trước hiện tượng được coi là độc quyền tự nhiên. Sau đó, Đạo luật Chống độc quyền Sherman (1890) và Đạo luật Chống độc quyền Clayton (1914) đã tìm cách ngăn chặn các công ty lớn thao túng thị trường. Kế đến, Đạo luật Robinson-Patman ban hành năm 1936 và Đạo luật Miller-Tydings ban hành năm 1937 đã tìm cách kìm hãm những chuỗi cửa hàng bán lẻ quy mô lớn.

Tuy nhiên, trong mỗi đạo luật nêu trên, những người cổ xúy doanh nghiệp nhỏ đã phải xoa dịu quan điểm của nhiều nghị sỹ chống đối sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế và coi doanh nghiệp lớn hoạt động hiệu quả hơn nhiều doanh nghiệp nhỏ. Nhiều kết quả thỏa hiệp đã hạn chế khả năng của các doanh nghiệp lớn sử dụng sức mạnh để bóp nghẹt cạnh tranh nhưng không ngăn cản họ phát triển lớn mạnh thông qua các biện pháp được coi là công bằng. Chẳng hạn, Đạo luật Sherman thực chất không phải để đã không thẳng tay đàn ápchia nhỏ các doanh nghiệp lớn mà trên thực tế nó đã được sử dụng để ngăn chặn sự cấu kết giữa nhiều doanh nghiệp nhỏ cũng như giữa nhiều doanh nghiệp lớn. Tương tự, Đạo luật Clayton thực chất không cấm các doanh nghiệp lớn mà chỉ cấm các biện pháp cạnh tranh "không công bằng" mà thôi.

Năm 1953, các nhà lập pháp đã có cách tiếp cận khác: Họ đã thiết lập Cơ quan Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ (SBA) – một cơ quan thuộc chính quyền liên bang giúp đào tạo, đảm bảo nguồn vốn và hợp đồng đất đai của các doanh nghiệp nhỏ với các cơ quan chính phủ, đồng thời giúp họ huy động vốn vay. Rất có thể định lượng tác động thực sự của SBA, song nhiều nhà kinh tế tin rằng trong nhiều năm qua, các doanh nghiệp nhỏ đã tồn tại được là nhờ tình hình kinh tế và sự tài tình của các doanh nghiệp này hơn là nhờ các đạo luật. Trong một số ngành như sản xuất đồ nội thất, sẻ gỗ và dịch vụ, các doanh nghiệp nhỏ tiếp tục đóng vai trò quan trọng bởi lẽ hiệu quả kinh tế nhờ quy mô vốn trước đây cho phép các doanh nghiệp có thể lớn mạnh trong những lĩnh vực khác gần như không còn nữa.

Trong một số ngành, doanh nghiệp nhỏ đã tìm thấy thế mạnh thị trường ngách cho riêng họ ở những khu vực có nhu cầu quá nhỏ, không phù hợp với sản xuất quy mô lớn. Blackford đã dẫn chứng trường hợp Công ty Buckeye Steel Castings ở Columbus, Ohio, thành lập năm 1881 và đã phát triển mạnh trong nhiều năm nhờ sản xuất trục nối toa xe lửa tự động. Ông cũng nêu trường hợp hàng loạt công ty dệt quy mô nhỏ ở Philadelphia đã tồn tại được trong suốt thế kỷ 20 nhờ sản xuất để đáp ứng nhu cầu thị trường may mặc liên tục biến động theo mùa. Gần đây hơn, một số công ty công nghệ thông tin cũng đã vươn lên, sản xuất phầm mềm cho các ứng dụng đòi hỏi sự chuyên biệt cao, và rất nhiều công ty Internet quy mô nhỏ bán những sản phẩm nhằm vào những phân khúc thị trường rất hẹp.

Nhiều doanh nghiệp vẫn duy trì quy mô nhỏ đơn giản chỉ vì những ông chủ của họ không muốn mở rộng quy mô. Các nhà kinh tế đã nhấn mạnh tới một vai trò khác của các doanh nghiệp nhỏ: trong những thời kỳ suy thoái kinh tế như thời kỳ Đại Suy thoái trong thập niên 1930, suy thoái trong những năm 1973-1975 và 1980-1982, rất nhiều người bị thất nghiệp trong những công ty lớn đã thành lập doanh nghiệp nhỏ của riêng họ để vượt qua thời kỳ khó khăn.

Nhìn chung, mặc dù ước mơ được điều hành doanh nghiệp của chính mình đã trở thành nhân tố làm tăng số lượng các doanh nghiệp nhỏ ở Hoa Kỳ, song xu hướng chung từ những năm 1880 đến nay cho thấy số lượng doanh nghiệp nhỏ tỷ lệ thuận với tỷ lệ tăng dân số, nhưng tỷ trọng tương đối trong tổng sản lượng kinh tế của khu vực này lại giảm đi do có nhiều tập đoàn lớn nổi lên trong các ngành khác nhau. Ngay cả SBA cũng phải ngầm thừa nhận xu hướng tăng quy mô khi định cỡ doanh nghiệp nhỏ. Trong những năm 1950, SBA coi bất kỳ công ty nào có dưới 250 công nhân đều là doanh nghiệp nhỏ, nhưng hiện nay họ lai tính những công ty có tới 500 công nhân mới là quy mô nhỏ. Dẫu vậy, đại đa số các doanh nghiệp ở Hoa Kỳ vẫn có quy mô nhỏ. Chẳng hạn, theo số liệu của SBA trong năm 2002, mới chỉ có 16.845 công ty có từ 500 nhân viên trở trong khi số công ty có số lượng nhân công ít hơn là 5.680.914.

TẦM QUAN TRỌNG CỦA QUY MÔ

Đặc biệt trong thập niên 1970 và 1980, các doanh nghiệp nhỏ đã chứng tỏ sức bền bỉ của nó. Vào thời đó, cạnh tranh từ nước ngoài đã làm giảm số lượng các công ty chế tạocơ bản, quy mô lớn nhỏ trong các ngành như sắt thép, xe hơi và dệt may. Trong nền kinh tế toàn cầu mới, dịch vụ lại trở nên quan trọng hơn trong khi sản xúat chế tạo lại giảm tầm quan trọng. Điều đó đã dẫn tới vai trò ngày càng lớn của các công ty quy mô nhỏ vốn trước đây chiếm vị trí chủ đạo trong nhiều ngành dịch vụ. Nhưng một số nhà kinh tế lại thấy có thêm nhiều lý do khiến các doanh nghiệp nhỏ ngày càng đóng vai tròng quan trọng hơn trong tổng thể nền kinh tế. Họ lập luận rằng trong nền kinh tế toàn cầu cạnh tranh cao độ và thay đổi nhanh chóng như hiện nay, những công ty có thể đổi mới, tùy biến sản phẩm và thích ứng nhanh với hoàn cảnh luôn thay đổi sẽ có lợi thế. Các doanh nghiệp nhỏ với cơ chế quản lý ít thứ bậc hơn và có lực lượng lao động ít liên kết thành công đoàn hơn dường như hội đủ tất cả mọi yêu cầu đó. Hơn nữa, họ còn có thêm một lợi thế nữa do chi phí vận chuyển giảm đi và sự nổi lên của Internet càng tạo điều kiện cho họ dễ dàng cạnh tranh trên quy mô toàn cầu.

Mối quan tâm về doanh nghiệp nhỏ đã lên đến đỉnh điểm vào năm 1987 khi David Birch, nhà kinh tế và là người sáng lập công ty nghiên cứu Cognetics Inc. đã cho rằng các doanh nghiệp nhỏ gần như tạo ra toàn bộ công ăn việc làm mới trong nền kinh tế. Những kết quả nghiên cứu của Birch đã thu hút sự quan tâm của dư luận rộng rãi và cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Song nhiều nhà kinh tế đã phản bác quan điểm đó. Chẳng hạn, trong nghiên cứu năm 1993, Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia phát hiện không những các công ty có 500 công nhân trở xuống đã thực sự không tạo thêm công ăn việc làm trong giai đoạn 1972-1988 mà còn bị phá sản thường xuyên hơn. Do đó, tổ chức nghiên cứu tư nhân, phi đảng phái này đã kết luận tác động thực sự của các doanh nghiệp này đối với công ăn việc làm cũng không lớn hơn so với các doanh nghiệp lớn.

Cho dù thế nào đi chăng nữa, trong những năm gần đây, các doanh nghiệp nhỏ có thể đã cố gắng giữ thị phần của họ song vẫn chưa giành lại được thị phần đã bị rơi vào tay các doanh nghiệp lớn trong thế kỷ trước. Theo tạp chí Economist, một phần là vì các doanh nghiệp lớn có khả năng cạnh tranh tốt hơn nhờ đã đúc kết được những bài học từ các đối thủ cạnh tranh nhỏ hơn. Năm 1999, tạp chí này đã công bố các doanh nghiệp lớn ngày càng hoạt động giống như các doanh nghiệp nhỏ, "lấy ý kiến từ cấp dưới để ra quyết định, tổ chức lại bộ máy theo các nhóm và đơn vị sản phẩm và ngày càng nhạy bén kinh doanh hơn".




 
[h=2] Vai trò của Chính phủ trong việc khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ phát triển
[/h]
Steve Strauss
Do công việc kinh doanh trên thế giới do chủ các doanh nghiệp nhỏ thực thiện nên các chính phủ cần thực thi các chính sách khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp như vậy. Chính phủ có thể đem lại những ảnh hưởng tích cực nhất bằng năm cách làm cho vốn dễ tiếp cận hơn và hỗ trợ cho doanh nghiệp, thúc đẩy tinh thần kinh doanh, giảm thiểu rào cản pháp lý và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Steve Strauss, Luật sư, tác giả, bình luận viên trên truyền hình và phụ trách chuyên mục kinh doanh trên tờ USA Today, là một trong những chuyên gia hàng đầu Hoa Kỳ về tinh thần kinh doanh và phát triển doanh nghiệp.
Cuối thập niên 1970, một xã ở Trung Quốc rơi vào cảnh khánh kiệt và những người nông dân lãnh đạo xã nghèo đói tới mức họ quyết định liều mạng và dám làm điều không tưởng: Những người nông dân ngấm ngầm tư nhân hóa và chia đất. Mỗi người nông dân được chia một thửa ruộng để tự lo lương thực, sử dụng và bán số lương thực dư thừa nếu còn.
Trong vòng một năm, xã đó trở thành một trong những xã giàu nhất Trung Quốc và không có gì đáng ngạc nhiên, họ đã thu hút sự chú ý của những vị lãnh đạo. Nhưng thay vì lên án đó là tư tưởng đi ngược chế độ cộng sản, chính quyền lại chính thức khen ngợi những thửa ruộng tư nhân trong xã. Thế là mọi thứ đã đã trở thành dĩ vãng - theo lời của họ. Bước ngoặt tư bản chủ nghĩa của Trung Quốc đã trở thành chương trình xoá đói giảm nghèo lớn nhất trong lịch sử thế giới, giải phóng hàng triệu người khỏi cảnh nghèo đói chỉ trong vòng vài thập niên.
Nếu nói các chính sách của Chính phủ có thể tác động mạnh tới sự phát triển và lớn mạnh của doanh nghiệp nhỏ thì như thế vẫn còn quá khiêm tốn. Trong một thế giới đầy rẫy sự nghèo đói và thiếu thốn thì doanh nghiệp nhỏ là một công cụ có năng lực đã được thực tế chứng minh là đủ để không những xóa đi mọi đau khổ mà còn tạo ra một tầng lớp trung lưu vững chắc, một nguồn thuế ổn định và tăng cường ổn định xã hội. Nói tóm lại, doanh nghiệp nhỏ là một định hướng đúng đắn.
Một câu hỏi được đặt ra là đối với những quốc gia muốn thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ thì cần thực hiện những chính sách nào để đạt được mục tiêu đó? Tôi cho rằng có năm lĩnh vực chủ chốt mà các chính sách đúng đắn của chính phủ có thể có tác động rất lớn đối với sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ.
TẠO ĐIỀU KIỆN TIẾP CẬN VỐN DỄ DÀNG
Khi tôi còn nhỏ, cha tôi có vài cửa hàng bán thảm. Một hôm, tôi được giao viết bài luận kể về cách kiếm sống của cha tôi. Vì đối với tôi, mô tả "một ông chủ cửa hàng bán lẻ thảm" rất khó nên tôi đã nhờ cha tôi kể về công việc của mình. Ông nói "Bố là một doanh nhân con ạ". Hơi bất ngờ, tôi đã hỏi tiếp điều đó có nghĩa là gì và ông đã trả lời "Doanh nhân là người biết mạo hiểm với tiền bạc để kiếm ra tiền bạc".
Đó sẽ vẫn là lời mô tả hay mà tôi từng được nghe cho dù đến nay tôi đã biết rằng doanh nhân thực sự chỉ thích những mạo hiểm nhỏ với khả năng thất bại dự tính trước được. Do đó, nếu một chính phủ muốn thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ thì họ phải đề cao những chính sách giảm thiểu những mạo hiểm cố hữu trong kinh doanh. Bằng cách đó, mọi người sẽ tự nguyện rời bỏ sự an phận trong công việc của mình để khởi đầu những doanh nghiệp mới.
Vậy chính sách cần thiết đầu tiên để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ là hỗ trợ những doanh nhân tương lai tiếp cận nguồn vốn cần có thể có thể khởi nghiệp.
Ở Hoa Kỳ, chúng tôi có Cơ quan Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ (SBA) có nhiệm vụ giúp các doanh nhân tiếp cận nguồn vốn cần có để chấp nhận thử thách khi khởi sự doanh nghiệp nhỏ. Điều đáng chú ý là SBA không thực sự cho vay mà chỉ bảo lãnh cho các khoản vay. Các ngân hàng sẽ dễ cho những doanh nghiệp mới khá rủi ro vay hơn khi họ biết SBA và Chính phủ Hoa Kỳ bảo lãnh việc trả nợ, ngay cả khi người vay không trả được . Kết quả là nền kinh tế Hoa Kỳ luôn năng động và có tới 99% doanh nghiệp là các doanh nghiệp nhỏ.
Do vậy, điều đầu tiên mà bất kỳ chính phủ nào đang mong muốn khuyến khích doanh nghiệp nhỏ nên làm là xây dựng quỹ cho vay có bảo lãnh của liên bang. Việc tiếp cận vốn dễ dàng sẽ tạo nền móng vững chắc cho khu vực doanh nghiệp nhỏ sống động.
ĐÀO TẠO TINH THẦN DOANH NHÂN
Có rất nhiều yêu cầu cần thiết để tạo ra một nền kinh tế thành công với sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ, nhưng chắc chắn yêu cầu quan trọng là phải có những doanh nhân dám khởi sự doanh nghiệp mới. Để thực hiện điều đó, người dân phải có khả năng được học kỹ năng kinh doanh. Có nhiều cách để chính phủ có thể giúp họ thực hiện điều này:

  • Xây dựng "vườn ươm doanh nghiệp". Vườn ươm doanh nghiệp là cơ sở giúp những doanh nghiệp mới bắt đầu có chỗ để phát triển. Thông thường, những vườn ươm doanh nghiệp này gắn liền với các trường đại học. Các giáo sư và các chuyên gia khác dành thời gian và chuyên môn của họ để dạy cho những doanh nhân mới mọi thứ, từ bán hàng, tiếp thị cho tới luật pháp và thuế. Khi những ông chủ doanh nghiệp nhỏ tương lai này đã kết thúc khóa học kinh doanh cấp tốc đó, họ sẽ khởi sự doanh nghiệp của mình, còn những doanh nhân mới sẽ lại đến và thế chỗ của họ. Các chính phủ có thể tạo động lực tài chính dành cho các trường đại học để xây dựng những vườn ươm doanh nghiệp ngay trong khuôn viên của trường.
  • Sử dụng Internet. SBA có các khóa đào tạo trực tuyến, giảng dạy kỹ năng và ý tưởng kinh doanh cho bất kỳ ai có thể truy cập Internet qua địa chỉhttps://sba.gov/training/coursestake.html. Bất kỳ chính phủ nào muốn thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển đều nên xem xét thực hiện những điều tương tự.
  • Thuê chuyên gia. Cũng như vậy, có thể thuê các chuyên gia về doanh nghiệp vừa và nhỏ giảng dạy kỹ năng kinh doanh trực tuyến. Hàng tuần tôi đều viết bài cho chuyên mục kinh doanh của tờ USA Today. Tham khảo tại địa chỉhttps://www.usatoday.com/money/smallbusiness/front.htm.
CỔ VŨ VÀ THÚC ĐẨY DOANH NGHIỆP NHỎ
Không chỉ các chủ doanh nghiệp mới cần phải được đào tạo những kỹ năng cần thiết để có thể thành công mà ngay cả những ông chủ hiện nay cũng nên được chăm lo để khuyến khích thêm nhiều người khởi sự doanh nghiệp mới. Ở Costa Rica và Uruguay, các hội chợ và triển lãm doanh nghiệp nhỏ đã thừa nhận doanh nghiệp nhỏ và tinh thần doanh nhân. Uruguay cũng đã thưởng cho những doanh nghiệp có đóng góp cho xã hội. Như vậy, chính phủ có thể làm rất nhiều điều để khuyến khích doanh nghiệp nhỏ phát triển. Ví dụ:

  • Tài trợ giải "Doanh nhân tiêu biểu trong năm". Một giải thưởng thường niên cấp địa phương và quốc gia, nếu được tuyên truyền tốt, cũng sẽ giúp ích nhiều trong việc khuyến khích óc nhạy bén kinh doanh.
  • Tận dung chuyên môn của các lãnh đạo doanh nghiệp. Bất cứ quốc gia nào muốn thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ cũng cần phải có dân chúng ngưỡng mộ doanh nhân. Một trong những biện pháp chính phủ có thể áp dụng là kêu gọi các nhà lãnh đạo doanh nghiệp giúp giải quyết các khó khăn và vướng mắc. Những ủy ban ruybăng xanh (ủy ban gồm những công dân xuất chúng) của chính phủ nên tận dụng nguồn tri thức của doanh nhân.
TẠO MÔI TRƯỜNG THUẾ VÀ PHÁP QUY PHÙ HỢP
Các đạo luật thuế của một quốc gia là một trong những công cụ tốt nhất để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ. Chẳng hạn ở Hoa Kỳ, luật thuế được thay đổi thường xuyên vì người ta cho rằng có thể sử dụng các hình thức trợ cấp thuế, khấu trừ thuế và giảm thuế để thúc đẩy sự phát triển nhóm doanh nghiệp này hay doanh nghiệp khác.
Ví dụ, gần 98% các doanh nghiệp của Canada là những doanh nghiệp nhỏ. Hiệp hội Kế toán Quản lý của Canada gần đây đã kiến nghị với Quốc hội Canada rằng cách tốt nhất để khuyến khích hơn nữa sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ là thay đổi chính sách thuế như:

  • giảm thuế suất doanh nghiệp;
  • trợ cấp thuế cho đầu tư vào giáo dục và đào tạo;
  • tăng cường giảm thuế cho đầu tư.
Ngoài giảm thuế để khuyến khích việc thành lập doanh nghiệp, điều quan trọng là phải giảm và tiến tới loại bỏ những quy định của chính phủ cản trở sự phát triển của doanh nghiệp. Thủ tục pháp lý càng đơn giản và nhanh bao nhiêu, doanh nghiệp nhỏ càng có khả năng mở rộng bấy nhiêu.
BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Bất cứ chính phủ nào muốn khuyến khích doanh nghiệp nhỏ cũng cần ban hành những đạo luật bảo vệ những sáng kiến đổi mới của doanh nhân. Đổi mới là trụ cột cho sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ, nhưng nếu những sáng tạo đổi mới không được pháp lý bảo vệ thì các doanh nhân sẽ khó có thể chấp nhận những rủi ro cần thiết để tìm tòi những giải pháp mới giải quyết những khó khăn trong xã hội. Do đó, các chính sách của chính phủ bảo vệ bằng phát minh sáng chế, bản quyền và thương hiệu có ý nghĩa vô cùng quan trọng nếu muốn các doanh nghiệp nhỏ phát triển.

Cuối cùng, bất kỳ chính phủ nào muốn thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ cũng cần thực thi những chính sách giúp doanh nhân ít phải mạo hiểm hơn nhưng lại thu được nhiều lợi hơn. Có như vậy sự thành công của doanh nghiệp nhỏ mới là sự thành công của chính mình.


 
Vai trò của Chính phủ trong việc khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ phát triển


Steve Strauss

Do công việc kinh doanh trên thế giới do chủ các doanh nghiệp nhỏ thực thiện nên các chính phủ cần thực thi các chính sách khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp như vậy. Chính phủ có thể đem lại những ảnh hưởng tích cực nhất bằng năm cách làm cho vốn dễ tiếp cận hơn và hỗ trợ cho doanh nghiệp, thúc đẩy tinh thần kinh doanh, giảm thiểu rào cản pháp lý và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.

Steve Strauss, Luật sư, tác giả, bình luận viên trên truyền hình và phụ trách chuyên mục kinh doanh trên tờ USA Today, là một trong những chuyên gia hàng đầu Hoa Kỳ về tinh thần kinh doanh và phát triển doanh nghiệp.


Cuối thập niên 1970, một xã ở Trung Quốc rơi vào cảnh khánh kiệt và những người nông dân lãnh đạo xã nghèo đói tới mức họ quyết định liều mạng và dám làm điều không tưởng: Những người nông dân ngấm ngầm tư nhân hóa và chia đất. Mỗi người nông dân được chia một thửa ruộng để tự lo lương thực, sử dụng và bán số lương thực dư thừa nếu còn.

Trong vòng một năm, xã đó trở thành một trong những xã giàu nhất Trung Quốc và không có gì đáng ngạc nhiên, họ đã thu hút sự chú ý của những vị lãnh đạo. Nhưng thay vì lên án đó là tư tưởng đi ngược chế độ cộng sản, chính quyền lại chính thức khen ngợi những thửa ruộng tư nhân trong xã. Thế là mọi thứ đã đã trở thành dĩ vãng - theo lời của họ. Bước ngoặt tư bản chủ nghĩa của Trung Quốc đã trở thành chương trình xoá đói giảm nghèo lớn nhất trong lịch sử thế giới, giải phóng hàng triệu người khỏi cảnh nghèo đói chỉ trong vòng vài thập niên.

Nếu nói các chính sách của Chính phủ có thể tác động mạnh tới sự phát triển và lớn mạnh của doanh nghiệp nhỏ thì như thế vẫn còn quá khiêm tốn. Trong một thế giới đầy rẫy sự nghèo đói và thiếu thốn thì doanh nghiệp nhỏ là một công cụ có năng lực đã được thực tế chứng minh là đủ để không những xóa đi mọi đau khổ mà còn tạo ra một tầng lớp trung lưu vững chắc, một nguồn thuế ổn định và tăng cường ổn định xã hội. Nói tóm lại, doanh nghiệp nhỏ là một định hướng đúng đắn.

Một câu hỏi được đặt ra là đối với những quốc gia muốn thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ thì cần thực hiện những chính sách nào để đạt được mục tiêu đó? Tôi cho rằng có năm lĩnh vực chủ chốt mà các chính sách đúng đắn của chính phủ có thể có tác động rất lớn đối với sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ.

TẠO ĐIỀU KIỆN TIẾP CẬN VỐN DỄ DÀNG

Khi tôi còn nhỏ, cha tôi có vài cửa hàng bán thảm. Một hôm, tôi được giao viết bài luận kể về cách kiếm sống của cha tôi. Vì đối với tôi, mô tả "một ông chủ cửa hàng bán lẻ thảm" rất khó nên tôi đã nhờ cha tôi kể về công việc của mình. Ông nói "Bố là một doanh nhân con ạ". Hơi bất ngờ, tôi đã hỏi tiếp điều đó có nghĩa là gì và ông đã trả lời "Doanh nhân là người biết mạo hiểm với tiền bạc để kiếm ra tiền bạc".

Đó sẽ vẫn là lời mô tả hay mà tôi từng được nghe cho dù đến nay tôi đã biết rằng doanh nhân thực sự chỉ thích những mạo hiểm nhỏ với khả năng thất bại dự tính trước được. Do đó, nếu một chính phủ muốn thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ thì họ phải đề cao những chính sách giảm thiểu những mạo hiểm cố hữu trong kinh doanh. Bằng cách đó, mọi người sẽ tự nguyện rời bỏ sự an phận trong công việc của mình để khởi đầu những doanh nghiệp mới.

Vậy chính sách cần thiết đầu tiên để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ là hỗ trợ những doanh nhân tương lai tiếp cận nguồn vốn cần có thể có thể khởi nghiệp.

Ở Hoa Kỳ, chúng tôi có Cơ quan Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ (SBA) có nhiệm vụ giúp các doanh nhân tiếp cận nguồn vốn cần có để chấp nhận thử thách khi khởi sự doanh nghiệp nhỏ. Điều đáng chú ý là SBA không thực sự cho vay mà chỉ bảo lãnh cho các khoản vay. Các ngân hàng sẽ dễ cho những doanh nghiệp mới khá rủi ro vay hơn khi họ biết SBA và Chính phủ Hoa Kỳ bảo lãnh việc trả nợ, ngay cả khi người vay không trả được . Kết quả là nền kinh tế Hoa Kỳ luôn năng động và có tới 99% doanh nghiệp là các doanh nghiệp nhỏ.

Do vậy, điều đầu tiên mà bất kỳ chính phủ nào đang mong muốn khuyến khích doanh nghiệp nhỏ nên làm là xây dựng quỹ cho vay có bảo lãnh của liên bang. Việc tiếp cận vốn dễ dàng sẽ tạo nền móng vững chắc cho khu vực doanh nghiệp nhỏ sống động.

ĐÀO TẠO TINH THẦN DOANH NHÂN

Có rất nhiều yêu cầu cần thiết để tạo ra một nền kinh tế thành công với sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ, nhưng chắc chắn yêu cầu quan trọng là phải có những doanh nhân dám khởi sự doanh nghiệp mới. Để thực hiện điều đó, người dân phải có khả năng được học kỹ năng kinh doanh. Có nhiều cách để chính phủ có thể giúp họ thực hiện điều này:


  • Xây dựng "vườn ươm doanh nghiệp". Vườn ươm doanh nghiệp là cơ sở giúp những doanh nghiệp mới bắt đầu có chỗ để phát triển. Thông thường, những vườn ươm doanh nghiệp này gắn liền với các trường đại học. Các giáo sư và các chuyên gia khác dành thời gian và chuyên môn của họ để dạy cho những doanh nhân mới mọi thứ, từ bán hàng, tiếp thị cho tới luật pháp và thuế. Khi những ông chủ doanh nghiệp nhỏ tương lai này đã kết thúc khóa học kinh doanh cấp tốc đó, họ sẽ khởi sự doanh nghiệp của mình, còn những doanh nhân mới sẽ lại đến và thế chỗ của họ. Các chính phủ có thể tạo động lực tài chính dành cho các trường đại học để xây dựng những vườn ươm doanh nghiệp ngay trong khuôn viên của trường.
  • Sử dụng Internet. SBA có các khóa đào tạo trực tuyến, giảng dạy kỹ năng và ý tưởng kinh doanh cho bất kỳ ai có thể truy cập Internet qua địa chỉhttps://sba.gov/training/coursestake.html. Bất kỳ chính phủ nào muốn thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển đều nên xem xét thực hiện những điều tương tự.
  • Thuê chuyên gia. Cũng như vậy, có thể thuê các chuyên gia về doanh nghiệp vừa và nhỏ giảng dạy kỹ năng kinh doanh trực tuyến. Hàng tuần tôi đều viết bài cho chuyên mục kinh doanh của tờ USA Today. Tham khảo tại địa chỉhttps://www.usatoday.com/money/smallbusiness/front.htm.

CỔ VŨ VÀ THÚC ĐẨY DOANH NGHIỆP NHỎ

Không chỉ các chủ doanh nghiệp mới cần phải được đào tạo những kỹ năng cần thiết để có thể thành công mà ngay cả những ông chủ hiện nay cũng nên được chăm lo để khuyến khích thêm nhiều người khởi sự doanh nghiệp mới. Ở Costa Rica và Uruguay, các hội chợ và triển lãm doanh nghiệp nhỏ đã thừa nhận doanh nghiệp nhỏ và tinh thần doanh nhân. Uruguay cũng đã thưởng cho những doanh nghiệp có đóng góp cho xã hội. Như vậy, chính phủ có thể làm rất nhiều điều để khuyến khích doanh nghiệp nhỏ phát triển. Ví dụ:


  • Tài trợ giải "Doanh nhân tiêu biểu trong năm". Một giải thưởng thường niên cấp địa phương và quốc gia, nếu được tuyên truyền tốt, cũng sẽ giúp ích nhiều trong việc khuyến khích óc nhạy bén kinh doanh.
  • Tận dung chuyên môn của các lãnh đạo doanh nghiệp. Bất cứ quốc gia nào muốn thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ cũng cần phải có dân chúng ngưỡng mộ doanh nhân. Một trong những biện pháp chính phủ có thể áp dụng là kêu gọi các nhà lãnh đạo doanh nghiệp giúp giải quyết các khó khăn và vướng mắc. Những ủy ban ruybăng xanh (ủy ban gồm những công dân xuất chúng) của chính phủ nên tận dụng nguồn tri thức của doanh nhân.

TẠO MÔI TRƯỜNG THUẾ VÀ PHÁP QUY PHÙ HỢP

Các đạo luật thuế của một quốc gia là một trong những công cụ tốt nhất để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ. Chẳng hạn ở Hoa Kỳ, luật thuế được thay đổi thường xuyên vì người ta cho rằng có thể sử dụng các hình thức trợ cấp thuế, khấu trừ thuế và giảm thuế để thúc đẩy sự phát triển nhóm doanh nghiệp này hay doanh nghiệp khác.

Ví dụ, gần 98% các doanh nghiệp của Canada là những doanh nghiệp nhỏ. Hiệp hội Kế toán Quản lý của Canada gần đây đã kiến nghị với Quốc hội Canada rằng cách tốt nhất để khuyến khích hơn nữa sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ là thay đổi chính sách thuế như:


  • giảm thuế suất doanh nghiệp;
  • trợ cấp thuế cho đầu tư vào giáo dục và đào tạo;
  • tăng cường giảm thuế cho đầu tư.
Ngoài giảm thuế để khuyến khích việc thành lập doanh nghiệp, điều quan trọng là phải giảm và tiến tới loại bỏ những quy định của chính phủ cản trở sự phát triển của doanh nghiệp. Thủ tục pháp lý càng đơn giản và nhanh bao nhiêu, doanh nghiệp nhỏ càng có khả năng mở rộng bấy nhiêu.

BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ

Bất cứ chính phủ nào muốn khuyến khích doanh nghiệp nhỏ cũng cần ban hành những đạo luật bảo vệ những sáng kiến đổi mới của doanh nhân. Đổi mới là trụ cột cho sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ, nhưng nếu những sáng tạo đổi mới không được pháp lý bảo vệ thì các doanh nhân sẽ khó có thể chấp nhận những rủi ro cần thiết để tìm tòi những giải pháp mới giải quyết những khó khăn trong xã hội. Do đó, các chính sách của chính phủ bảo vệ bằng phát minh sáng chế, bản quyền và thương hiệu có ý nghĩa vô cùng quan trọng nếu muốn các doanh nghiệp nhỏ phát triển.

Cuối cùng, bất kỳ chính phủ nào muốn thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ cũng cần thực thi những chính sách giúp doanh nhân ít phải mạo hiểm hơn nhưng lại thu được nhiều lợi hơn. Có như vậy sự thành công của doanh nghiệp nhỏ mới là sự thành công của chính mình.


 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top