Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HÓA
Văn hóa Việt Nam
Tính liên văn hóa - một thái độ giáo dục
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="PHÚC KEYNES" data-source="post: 95617" data-attributes="member: 147652"><p><span style="font-family: 'times new roman'">Báo <strong>Doanh nhân Sài Gòn cuối tháng</strong></span></p><p><span style="font-family: 'times new roman'">04-2009</span></p><p><strong><span style="font-family: 'times new roman'">--- o0o ---</span></strong></p><p> </p><p style="text-align: center"><span style="font-family: 'times new roman'"><strong>TÍNH LIÊN VĂN HÓA - MỘT THÁI ĐỘ GIÁO DỤC</strong></span></p><p></p><p style="text-align: right"><span style="font-family: 'times new roman'"><strong>Bùi Văn Nam Sơn </strong></span></p><p></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><strong>1. Sự kiện và sự kiện văn hóa</strong></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'">Vào buổi bình minh của thời Cận đại (thế kỷ 16-18), có hai nhà tư tưởng lớn người Pháp chủ trương hai con đường khác nhau và đều gây ảnh hưởng sâu đậm đến ngày nay. Một ông là Michel de Montaigne. Với ông, con đường có mục đích tự thân; đi để mà đi, thế thôi. Ông viết: “Nếu tôi lỡ bỏ qua một cảnh đẹp đáng nhìn? Thì tôi cứ quay lại, đàng nào cũng nằm trên con đường đi của tôi thôi mà! Tôi chẳng việc gì phải bám vào một con đường có sẵn, dù đó là đường thẳng hay đường cong”<a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftn1" target="_blank"><strong><strong><u>[1]</u></strong></strong></a>. Ông không chờ đợi một sự “tiến bộ” theo đường thẳng, nếu phải vì thế mà bỏ qua bao cỏ lạ hoa thơm. Tác giả của bộ <em>Essais</em> (1580) nổi tiếng chấp nhận và thích thú với <em>đường vòng</em>.</span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'">Ông kia, René Descartes, thì lại rất ghét những ai “không bao giờ biết giữ vững một con đường để đi thẳng đến đích”<a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftn2" target="_blank"><strong><strong><u>[2]</u></strong></strong></a>. Tác giả cũng lừng danh không kém của <em>Discours de la Methode / Luận văn về Phương pháp</em> (1637) chủ trương: nếu bị lạc trong rừng rậm thì phải chọn một con đường - bất kể theo hướng nào - rồi cương quyết đi thẳng cho tới khi thấy ánh sáng. Ông tin vào “phương pháp” có giá trị siêu-thời gian, siêu-kinh nghiệm, hay nói ngắn, ông không thích <em>đường vòng</em>. Với Descartes, “rừng rậm” là hình ảnh của cái xa lạ, nguy hiểm, thù địch; còn sự “vững chắc của nhận thức” là kết quả của việc loại trừ hết những thứ đó, nhờ vào “Phương pháp”. Không lạ gì khi quyển Essais có tính đối thoại, “biện chứng” (dialogic), còn quyển Discours có tính chặt chẽ, quy luật (nomologic). Một bên chuộng việc “lý giải” những cái mới mẻ, bất ngờ, bên kia yên tâm “áp dụng” thành tựu có sẵn của phương pháp. Một bên quan tâm đến nhu cầu <em>định hướng</em> của con người cụ thể, bên kia sẵn sàng chấp nhận sự “cào bằng”, hy sinh hiện hữu cá biệt cho <em>tri thức</em> có phương pháp.</span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'">Là môn đồ của trường phái Descartes, Émile Durkheim, một trong các ông tổ của xã hội học hiện đại, xem <em>những</em> <em>sự kiện xã hội (faits socials)</em> như <em>những sự vật (comme des choses)</em>, vì, để bảo đảm tính khách quan của nhận thức khoa học xã hội, <em>sự kiện xã hội</em> phải có một đời sống riêng, độc lập với những biểu hiện cá nhân, và được tái hiện trên cơ sở một tính thuần lý siêu cá nhân (“une existence propre: indépendente de ses manifestations individuelles”)<a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftn3" target="_blank"><strong><strong><u>[3]</u></strong></strong></a>. Thế nhưng, cách hiểu ấy lại hầu như ngược hẳn với bản chất của <em>sự kiện văn hóa</em>. Sự kiện, tự nó, là vô nghĩa, trong khi sự kiện văn hóa là cái gì <em>có ý nghĩa</em>. Nhận ra trong chuỗi âm thanh (“sự kiện”) một giai điệu, đó là văn hóa. Bảy trăm cảnh sát bảo vệ năm cây anh đào ở Hà Nội mấy ngày vừa qua, tuy thật mỉa mai, cũng là văn hóa: năm cội anh đào không phải chỉ là… năm cái cây! Giống như mọi sự ẩn dụ, văn hóa chỉ có mặt khi một cái gì đó vượt ra khỏi chính nó, khi hình dung ra được cái không phải là bản thân nó. Chính <em>ý nghĩa</em> hay <em>tầm quan trọng </em>mới biến một sự kiện thành một <em>sự kiện văn hóa</em> <em>(fait culturel)</em> và khêu gợi nhu cầu lý giải. Không có lý giải, tức, không có cảm nhận, giải lý, phê phán, ắt không có các định chế giáo dục, không có văn hóa. Nghiên cứu văn hóa là đến với những “thành quả” như đến với những hiện tượng mà tầm quan trọng của chúng sẽ mất đi nếu không xét đến phần tham dự của con người. Nói cách khác, sự kiện văn hóa khác với sự kiện trần trụi chính là ở chỗ: văn hóa là ẩn dụ, tức là <em>đường vòng</em>.</span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'">Thêm vào đó, các thảm trạng của thế kỷ XX (chiến tranh, bạo lực, độc tài, nghèo đói, dốt nát…) càng làm cho các câu hỏi trở nên trầm trọng: tình trạng ấy còn kéo dài đến bao giờ? Còn lún sâu đến đâu nữa? Tri thức và hạnh phúc - giấc mơ và khẩu hiệu từ Thế kỷ Ánh sáng Âu Châu – kết hợp với nhau như thế nào? Và trước hết: đi về đâu một nền văn hóa không chỉ cho phép mà còn khuyến khích phân chia thế giới thành “của ta” và “của họ”, thành bạn và thù, thành ưu việt và thấp kém?</span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'">Các câu hỏi ấy là động lực cho sự hình thành một <em>bước ngoặt văn hóa (cultural turn)</em>, xuất phát từ một nhận thức thật đơn giản mà kinh hoàng: nền văn hóa rất mong manh và có thể <em>tiêu vong</em>. Không chỉ những nền văn hóa riêng lẻ đã và đang chết do hậu quả của chủ nghĩa thực dân mà nền văn hóa nói chung, như tổng thể của thế giới do con người tạo ra và ban cho nó ý nghĩa: “nếu trước kia con người sợ mãnh lực tự nhiên tiêu diệt thì bây giờ sợ trước thế giới do chính mình kiến tạo nên”<a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftn4" target="_blank"><strong><strong><u>[4]</u></strong></strong></a>. (Adorno: “sau Ausschwitz, không thể làm thơ được nữa và mọi “văn hóa” trở thành rác rưởi!”. Ta có thể thêm: sau “Cách mạng văn hóa”, sau “chế độ Pol Pot”, sau, sau…). Không hề cường điệu những nguy cơ để rơi vào một thuyết bi quan về văn hóa, các nhà tư tưởng hàng đầu trên thế giới (mà tiên phong là các nhà triết học văn hóa) đang nỗ lực tìm lối thoát. Thay vì tiếp tục nuôi dưỡng ảo tưởng đi tìm một “vương quốc” của cái trực tiếp; cái nguyên thủy hay cái tuyệt đối ở đàng sau hay phía bên kia thế giới của những hình thức biểu trưng hay những hiện tượng văn hóa như trước đây, người ta đang hướng mắt vào những hiện tượng, những ý nghĩa, những giá trị, những hình thái văn hóa hiện thực của bản thân thế giới này. Thay vì phải chọn lựa giữa con đường thong dong (nhưng có thể lạc lối!) của Montaigne và sự hiệu quả của con đường thẳng (nhưng mang tính độc quyền và độc tôn) của Descartes, có lẽ con người hiện đại sẽ chọn <em>những con đường vòng</em> để sống còn, vốn dành cho những thân phận hữu hạn, không biết nhưng không mất hy vọng ở tương lai. Văn hóa - theo nghĩa từ nguyên của chữ <em>cultura</em> là vun trồng, nuôi dưỡng – cho thấy: thực tại bao giờ cũng có thể do con người kiến tạo nên, và chính văn hóa sẽ cung cấp những tiêu chuẩn cho việc con người khai phá, bảo vệ và mạnh bước tiến vào những con đường vòng. Văn hóa chỉ ra đời khi không có hay không còn những thúc ép của cơm áo, thời thế, khi hận thù, sợ hãi được gác lại; nói ngắn, khi thực tại được nhìn bằng một cách nào đó để cho sự cởi mở, sự tò mò và lòng khao khát cái mới có vị trí xứng đáng của chúng. Khi bảo rằng con người là một “sinh vật văn hóa”, ta không suy tưởng theo giác độ nhân học cho bằng theo giác độ triết học văn hóa. Thật thế, sự “ranh mãnh” của lý tính con người được hiện thực hóa như là <em>văn hóa</em>, chứ không phải <em>ở trong</em> lịch sử như cách nghĩ của Hegel! Sau sự sụp đổ của mọi thứ “biện thần luận” (mang màu sắc tín ngưỡng hay thế tục) hứa hẹn một sự <em>hòa giải</em> toàn diện, con người còn một niềm an ủi - nhỏ bé nhưng quý giá - đó là: kỳ cùng, thông qua những chủ đề và những luận điểm của triết học văn hóa, ta sẽ đi tới kết quả: ta có thể đi những <em>con đường vòng</em>. Một trong những con đường vòng ấy là <em>tính liên-văn hóa</em> trong một thế giới ngày càng nhỏ bé và gần gũi.</span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><strong>2. Tính liên-văn hóa (Interculturality): yêu cầu của thời đại</strong></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'">Đi liền với tiến trình toàn cầu hóa, “liên-văn hóa” đang trở thành một chủ đề thời sự, và bắt đầu được thiết lập như một ngành học “hàn lâm” hẳn hoi<a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftn5" target="_blank"><strong><strong><u>[5]</u></strong></strong></a>. Khuôn khổ một bài báo chỉ cho phép giới thiệu thật ngắn gọn.</span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'">Liên-văn hóa, như một môn học, được xét ở bốn viễn tượng: triết học, tôn giáo, chính trị và giáo dục.</span></p><p> </p><ul> <li data-xf-list-type="ul"><span style="font-family: 'times new roman'">trong viễn tượng triết học, liên-văn hóa là một <em>thái độ, </em>một <em>tinh thần</em> và một sự <em>thức nhận</em> rằng mọi thành tựu của tư tưởng nhân loại đều là những biến thái của một <em>philosophia perennis (“triết học vĩnh cửu”)</em>, trong đó sự tương đồng giữa các <em>câu hỏi</em> quan trọng hơn sự dị biệt giữa các <em>câu trả lời</em>, từ đó ngăn chặn việc biến một truyền thống hay một hình thái triết học nhất định thành hình thái tuyệt đối như là định nghĩa duy nhất cho chân lý triết học. Với nhận thức ấy, có lẽ đã đến lúc cần phải viết lại một bộ lịch sử tư tưởng, - và nói riêng, một lịch sử triết học - của nhân loại.</span></li> <li data-xf-list-type="ul"><span style="font-family: 'times new roman'">trong viễn tượng tôn giáo, tính liên-tôn giáo là tên gọi khác của tính liên-văn hóa, bởi một <em>religio perennis / sanatara dharma </em>(“tôn giáo vĩnh cửu”) cũng mang nhiều tấm áo tín ngưỡng khác nhau. Tất nhiên, bản thân tính liên-tôn giáo không phải là một tôn giáo để người ta tin theo. Nhưng, đó là một <em>thái độ</em> khiến ta cởi mở và khoan dung. Ngoài ra, nó cũng giúp ta tránh được mọi cám dỗ của óc cuồng tín tôn giáo và thuyết “bảo căn” (fundamentalism).</span></li> <li data-xf-list-type="ul"><span style="font-family: 'times new roman'">trong viễn tượng chính trị, tính liên-văn hóa cũng là một tên gọi khác của tinh thần cộng hòa-dân chủ, không chấp nhận bạo lực và sự độc quyền thống trị.</span></li> <li data-xf-list-type="ul"><span style="font-family: 'times new roman'">trong viễn tượng giáo dục - và đây là viễn tượng quan trọng nhất -, <em>thái độ, tinh thần và sự thức nhận</em> liên-văn hóa về cả ba viễn tượng trên cần được dạy và học trong gia đình và xã hội, từ nhà trẻ cho đến đại học, trong tư tưởng lẫn hành động. Chỉ có như thế mới hy vọng sớm ngăn chặn tư tưởng cục bộ, toàn thủ (integrism), vị chủng, bởi một khi chúng đã chiếm lĩnh vũ đài thì mọi nỗ lực giáo dục đều đã trở nên quá muộn.</span></li> </ul> <p style="text-align: right"><span style="font-family: 'times new roman'">Đã đăng trên <em>Doanh nhân Sài Gòn Cuối tháng, </em>04.2009.</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'">Nguồn: Bản điện tử của nhà triết học Bùi Văn Nam Sơn</span></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref1" target="_blank"></a></span></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref1" target="_blank"><strong><strong><u>[1]</u></strong></strong></a>Michel de Montaigne, Essais (III, 9), 1998, tr. 497.</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref2" target="_blank"><strong><strong><u>[2]</u></strong></strong></a>René Descartes, Discours de la Méthode, 1996, tr. 25, 41.</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref3" target="_blank"><strong><strong><u>[3]</u></strong></strong></a>Émile Durkheim, Les Règles de la méthode sociologique, 1927, tr. 19.</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref4" target="_blank"><strong><strong><u>[4]</u></strong></strong></a>Karl Jaspers: Die geistige Situation der Zeit / Hoàn cảnh tinh thần của Thời đại, 1931, 1999, tr. 16.</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref5" target="_blank"><strong><strong><u>[5]</u></strong></strong></a>Ở Đức, Đại học Bremen là đại học đầu tiên thiết lập môn “văn hóa tỉ giảo” như môn học chính thức trong khoa triết học với hai ghế giáo sư thực thụ cho Hans-Jörg Sandkühler và Ram Adhar Mall và nhiều giáo sư thỉnh giảng từ Ấn Độ, Mỹ-Latinh, Nhật, Hàn Quốc, Tunesie, Ai Cập. (Xem: Homepage của Đại học Bremen).</span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="PHÚC KEYNES, post: 95617, member: 147652"] [FONT=times new roman]Báo [B]Doanh nhân Sài Gòn cuối tháng[/B][/FONT] [FONT=times new roman]04-2009[/FONT] [B][FONT=times new roman]--- o0o ---[/FONT][/B] [CENTER][FONT=times new roman][B]TÍNH LIÊN VĂN HÓA - MỘT THÁI ĐỘ GIÁO DỤC[/B][/FONT][/CENTER] [RIGHT][FONT=times new roman][B]Bùi Văn Nam Sơn [/B][/FONT][/RIGHT] [FONT=times new roman][B]1. Sự kiện và sự kiện văn hóa[/B][/FONT] [FONT=times new roman]Vào buổi bình minh của thời Cận đại (thế kỷ 16-18), có hai nhà tư tưởng lớn người Pháp chủ trương hai con đường khác nhau và đều gây ảnh hưởng sâu đậm đến ngày nay. Một ông là Michel de Montaigne. Với ông, con đường có mục đích tự thân; đi để mà đi, thế thôi. Ông viết: “Nếu tôi lỡ bỏ qua một cảnh đẹp đáng nhìn? Thì tôi cứ quay lại, đàng nào cũng nằm trên con đường đi của tôi thôi mà! Tôi chẳng việc gì phải bám vào một con đường có sẵn, dù đó là đường thẳng hay đường cong”[URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftn1"][B][B][U][1][/U][/B][/B][/URL]. Ông không chờ đợi một sự “tiến bộ” theo đường thẳng, nếu phải vì thế mà bỏ qua bao cỏ lạ hoa thơm. Tác giả của bộ [I]Essais[/I] (1580) nổi tiếng chấp nhận và thích thú với [I]đường vòng[/I].[/FONT] [FONT=times new roman]Ông kia, René Descartes, thì lại rất ghét những ai “không bao giờ biết giữ vững một con đường để đi thẳng đến đích”[URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftn2"][B][B][U][2][/U][/B][/B][/URL]. Tác giả cũng lừng danh không kém của [I]Discours de la Methode / Luận văn về Phương pháp[/I] (1637) chủ trương: nếu bị lạc trong rừng rậm thì phải chọn một con đường - bất kể theo hướng nào - rồi cương quyết đi thẳng cho tới khi thấy ánh sáng. Ông tin vào “phương pháp” có giá trị siêu-thời gian, siêu-kinh nghiệm, hay nói ngắn, ông không thích [I]đường vòng[/I]. Với Descartes, “rừng rậm” là hình ảnh của cái xa lạ, nguy hiểm, thù địch; còn sự “vững chắc của nhận thức” là kết quả của việc loại trừ hết những thứ đó, nhờ vào “Phương pháp”. Không lạ gì khi quyển Essais có tính đối thoại, “biện chứng” (dialogic), còn quyển Discours có tính chặt chẽ, quy luật (nomologic). Một bên chuộng việc “lý giải” những cái mới mẻ, bất ngờ, bên kia yên tâm “áp dụng” thành tựu có sẵn của phương pháp. Một bên quan tâm đến nhu cầu [I]định hướng[/I] của con người cụ thể, bên kia sẵn sàng chấp nhận sự “cào bằng”, hy sinh hiện hữu cá biệt cho [I]tri thức[/I] có phương pháp.[/FONT] [FONT=times new roman]Là môn đồ của trường phái Descartes, Émile Durkheim, một trong các ông tổ của xã hội học hiện đại, xem [I]những[/I] [I]sự kiện xã hội (faits socials)[/I] như [I]những sự vật (comme des choses)[/I], vì, để bảo đảm tính khách quan của nhận thức khoa học xã hội, [I]sự kiện xã hội[/I] phải có một đời sống riêng, độc lập với những biểu hiện cá nhân, và được tái hiện trên cơ sở một tính thuần lý siêu cá nhân (“une existence propre: indépendente de ses manifestations individuelles”)[URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftn3"][B][B][U][3][/U][/B][/B][/URL]. Thế nhưng, cách hiểu ấy lại hầu như ngược hẳn với bản chất của [I]sự kiện văn hóa[/I]. Sự kiện, tự nó, là vô nghĩa, trong khi sự kiện văn hóa là cái gì [I]có ý nghĩa[/I]. Nhận ra trong chuỗi âm thanh (“sự kiện”) một giai điệu, đó là văn hóa. Bảy trăm cảnh sát bảo vệ năm cây anh đào ở Hà Nội mấy ngày vừa qua, tuy thật mỉa mai, cũng là văn hóa: năm cội anh đào không phải chỉ là… năm cái cây! Giống như mọi sự ẩn dụ, văn hóa chỉ có mặt khi một cái gì đó vượt ra khỏi chính nó, khi hình dung ra được cái không phải là bản thân nó. Chính [I]ý nghĩa[/I] hay [I]tầm quan trọng [/I]mới biến một sự kiện thành một [I]sự kiện văn hóa[/I] [I](fait culturel)[/I] và khêu gợi nhu cầu lý giải. Không có lý giải, tức, không có cảm nhận, giải lý, phê phán, ắt không có các định chế giáo dục, không có văn hóa. Nghiên cứu văn hóa là đến với những “thành quả” như đến với những hiện tượng mà tầm quan trọng của chúng sẽ mất đi nếu không xét đến phần tham dự của con người. Nói cách khác, sự kiện văn hóa khác với sự kiện trần trụi chính là ở chỗ: văn hóa là ẩn dụ, tức là [I]đường vòng[/I].[/FONT] [FONT=times new roman]Thêm vào đó, các thảm trạng của thế kỷ XX (chiến tranh, bạo lực, độc tài, nghèo đói, dốt nát…) càng làm cho các câu hỏi trở nên trầm trọng: tình trạng ấy còn kéo dài đến bao giờ? Còn lún sâu đến đâu nữa? Tri thức và hạnh phúc - giấc mơ và khẩu hiệu từ Thế kỷ Ánh sáng Âu Châu – kết hợp với nhau như thế nào? Và trước hết: đi về đâu một nền văn hóa không chỉ cho phép mà còn khuyến khích phân chia thế giới thành “của ta” và “của họ”, thành bạn và thù, thành ưu việt và thấp kém?[/FONT] [FONT=times new roman]Các câu hỏi ấy là động lực cho sự hình thành một [I]bước ngoặt văn hóa (cultural turn)[/I], xuất phát từ một nhận thức thật đơn giản mà kinh hoàng: nền văn hóa rất mong manh và có thể [I]tiêu vong[/I]. Không chỉ những nền văn hóa riêng lẻ đã và đang chết do hậu quả của chủ nghĩa thực dân mà nền văn hóa nói chung, như tổng thể của thế giới do con người tạo ra và ban cho nó ý nghĩa: “nếu trước kia con người sợ mãnh lực tự nhiên tiêu diệt thì bây giờ sợ trước thế giới do chính mình kiến tạo nên”[URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftn4"][B][B][U][4][/U][/B][/B][/URL]. (Adorno: “sau Ausschwitz, không thể làm thơ được nữa và mọi “văn hóa” trở thành rác rưởi!”. Ta có thể thêm: sau “Cách mạng văn hóa”, sau “chế độ Pol Pot”, sau, sau…). Không hề cường điệu những nguy cơ để rơi vào một thuyết bi quan về văn hóa, các nhà tư tưởng hàng đầu trên thế giới (mà tiên phong là các nhà triết học văn hóa) đang nỗ lực tìm lối thoát. Thay vì tiếp tục nuôi dưỡng ảo tưởng đi tìm một “vương quốc” của cái trực tiếp; cái nguyên thủy hay cái tuyệt đối ở đàng sau hay phía bên kia thế giới của những hình thức biểu trưng hay những hiện tượng văn hóa như trước đây, người ta đang hướng mắt vào những hiện tượng, những ý nghĩa, những giá trị, những hình thái văn hóa hiện thực của bản thân thế giới này. Thay vì phải chọn lựa giữa con đường thong dong (nhưng có thể lạc lối!) của Montaigne và sự hiệu quả của con đường thẳng (nhưng mang tính độc quyền và độc tôn) của Descartes, có lẽ con người hiện đại sẽ chọn [I]những con đường vòng[/I] để sống còn, vốn dành cho những thân phận hữu hạn, không biết nhưng không mất hy vọng ở tương lai. Văn hóa - theo nghĩa từ nguyên của chữ [I]cultura[/I] là vun trồng, nuôi dưỡng – cho thấy: thực tại bao giờ cũng có thể do con người kiến tạo nên, và chính văn hóa sẽ cung cấp những tiêu chuẩn cho việc con người khai phá, bảo vệ và mạnh bước tiến vào những con đường vòng. Văn hóa chỉ ra đời khi không có hay không còn những thúc ép của cơm áo, thời thế, khi hận thù, sợ hãi được gác lại; nói ngắn, khi thực tại được nhìn bằng một cách nào đó để cho sự cởi mở, sự tò mò và lòng khao khát cái mới có vị trí xứng đáng của chúng. Khi bảo rằng con người là một “sinh vật văn hóa”, ta không suy tưởng theo giác độ nhân học cho bằng theo giác độ triết học văn hóa. Thật thế, sự “ranh mãnh” của lý tính con người được hiện thực hóa như là [I]văn hóa[/I], chứ không phải [I]ở trong[/I] lịch sử như cách nghĩ của Hegel! Sau sự sụp đổ của mọi thứ “biện thần luận” (mang màu sắc tín ngưỡng hay thế tục) hứa hẹn một sự [I]hòa giải[/I] toàn diện, con người còn một niềm an ủi - nhỏ bé nhưng quý giá - đó là: kỳ cùng, thông qua những chủ đề và những luận điểm của triết học văn hóa, ta sẽ đi tới kết quả: ta có thể đi những [I]con đường vòng[/I]. Một trong những con đường vòng ấy là [I]tính liên-văn hóa[/I] trong một thế giới ngày càng nhỏ bé và gần gũi.[/FONT] [FONT=times new roman][B]2. Tính liên-văn hóa (Interculturality): yêu cầu của thời đại[/B][/FONT] [FONT=times new roman]Đi liền với tiến trình toàn cầu hóa, “liên-văn hóa” đang trở thành một chủ đề thời sự, và bắt đầu được thiết lập như một ngành học “hàn lâm” hẳn hoi[URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftn5"][B][B][U][5][/U][/B][/B][/URL]. Khuôn khổ một bài báo chỉ cho phép giới thiệu thật ngắn gọn.[/FONT] [FONT=times new roman]Liên-văn hóa, như một môn học, được xét ở bốn viễn tượng: triết học, tôn giáo, chính trị và giáo dục.[/FONT] [LIST] [*][FONT=times new roman]trong viễn tượng triết học, liên-văn hóa là một [I]thái độ, [/I]một [I]tinh thần[/I] và một sự [I]thức nhận[/I] rằng mọi thành tựu của tư tưởng nhân loại đều là những biến thái của một [I]philosophia perennis (“triết học vĩnh cửu”)[/I], trong đó sự tương đồng giữa các [I]câu hỏi[/I] quan trọng hơn sự dị biệt giữa các [I]câu trả lời[/I], từ đó ngăn chặn việc biến một truyền thống hay một hình thái triết học nhất định thành hình thái tuyệt đối như là định nghĩa duy nhất cho chân lý triết học. Với nhận thức ấy, có lẽ đã đến lúc cần phải viết lại một bộ lịch sử tư tưởng, - và nói riêng, một lịch sử triết học - của nhân loại.[/FONT] [*][FONT=times new roman]trong viễn tượng tôn giáo, tính liên-tôn giáo là tên gọi khác của tính liên-văn hóa, bởi một [I]religio perennis / sanatara dharma [/I](“tôn giáo vĩnh cửu”) cũng mang nhiều tấm áo tín ngưỡng khác nhau. Tất nhiên, bản thân tính liên-tôn giáo không phải là một tôn giáo để người ta tin theo. Nhưng, đó là một [I]thái độ[/I] khiến ta cởi mở và khoan dung. Ngoài ra, nó cũng giúp ta tránh được mọi cám dỗ của óc cuồng tín tôn giáo và thuyết “bảo căn” (fundamentalism).[/FONT] [*][FONT=times new roman]trong viễn tượng chính trị, tính liên-văn hóa cũng là một tên gọi khác của tinh thần cộng hòa-dân chủ, không chấp nhận bạo lực và sự độc quyền thống trị.[/FONT] [*][FONT=times new roman]trong viễn tượng giáo dục - và đây là viễn tượng quan trọng nhất -, [I]thái độ, tinh thần và sự thức nhận[/I] liên-văn hóa về cả ba viễn tượng trên cần được dạy và học trong gia đình và xã hội, từ nhà trẻ cho đến đại học, trong tư tưởng lẫn hành động. Chỉ có như thế mới hy vọng sớm ngăn chặn tư tưởng cục bộ, toàn thủ (integrism), vị chủng, bởi một khi chúng đã chiếm lĩnh vũ đài thì mọi nỗ lực giáo dục đều đã trở nên quá muộn.[/FONT] [/LIST] [RIGHT][FONT=times new roman]Đã đăng trên [I]Doanh nhân Sài Gòn Cuối tháng, [/I]04.2009.[/FONT][/RIGHT] [FONT=times new roman]Nguồn: Bản điện tử của nhà triết học Bùi Văn Nam Sơn[/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref1"] [B][B][U][1][/U][/B][/B][/URL]Michel de Montaigne, Essais (III, 9), 1998, tr. 497.[/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref2"][B][B][U][2][/U][/B][/B][/URL]René Descartes, Discours de la Méthode, 1996, tr. 25, 41.[/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref3"][B][B][U][3][/U][/B][/B][/URL]Émile Durkheim, Les Règles de la méthode sociologique, 1927, tr. 19.[/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref4"][B][B][U][4][/U][/B][/B][/URL]Karl Jaspers: Die geistige Situation der Zeit / Hoàn cảnh tinh thần của Thời đại, 1931, 1999, tr. 16.[/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref5"][B][B][U][5][/U][/B][/B][/URL]Ở Đức, Đại học Bremen là đại học đầu tiên thiết lập môn “văn hóa tỉ giảo” như môn học chính thức trong khoa triết học với hai ghế giáo sư thực thụ cho Hans-Jörg Sandkühler và Ram Adhar Mall và nhiều giáo sư thỉnh giảng từ Ấn Độ, Mỹ-Latinh, Nhật, Hàn Quốc, Tunesie, Ai Cập. (Xem: Homepage của Đại học Bremen).[/FONT] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HÓA
Văn hóa Việt Nam
Tính liên văn hóa - một thái độ giáo dục
Top