Tình hình xuất khẩu gạo và cà phê của Việt Nam

Tongthieugia

New member
Xu
0
Nước ta đã trở thành nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về gạo, cà phê, song đồng thời cũng phải chịu những tổn thất do giá gạo và cà phê suy giảm.

Kể từ năm 1989, nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo, sau đó là cà phê với vị trí thứ hai, thứ ba thế giới. Song do giá cả các mặt hàng này hạ thấp liên tục từ cuối thập kỷ 1990 đến nay đã gây cho ngành sản xuất gạo và cà phê nước ta những tổn thất rất lớn. Ngay trong năm 2001, giá gạo còn tiếp tục hạ thấp tới 12,2%, và giá cà phê hạ thấp 39,9% so với năm 2000.

Thực tế của thế giới cho thấy, trong vòng vài thập kỷ gần đây, giá cả các hàng nông phẩm và nguyên liệu bị hạ thấp liên tục và không ổn định, do những thay đổi về công nghệ sản xuất và sử dụng cũng như những thay đổi trong cơ cấu tiêu dùng. Trong những năm tới đây chưa có những dự báo đảm bảo chắc chắn là giá các hàng nông sản và nguyên liệu không giảm nữa.

Việc xuất khẩu hàng nông phẩm vào thị trường Mỹ như cá basa và tôm của ta gần đây lại còn bị các nhà nuôi cá tôm Mỹ phản ứng và gây rắc rối nhằm bảo vệ thị trường sản xuất của họ.
Vấn đề là thị trường thế giới cho đến nay gần như đã bão hòa, và sản phẩm nào cũng đều đã có các ông chủ chiếm giữ thị phần.

cfxk.PNG

Cà phê tăng giá đột biến

Nước ta là một thị trường mới nổi, nên ta sản xuất thêm nhiều gạo, cà phê, cá basa..., thì người khác phải giảm sản xuất những mặt hàng này, nếu không sẽ dẫn tới tình trạng dư thừa, cung vượt cầu, giá cả sẽ hạ, hoặc dẫn tới những giải pháp bảo hộ thương mại.

Một trong các lý do chủ yếu làm cho giá gạo và cà phê giảm liên tục là nước ta đã gia tăng xuất khẩu gạo từ 2,0 triệu tấn năm 1995 lên tới trên 4 triệu tấn năm 1999 và từ 248 ngàn tấn cà phê năm1995 lên tới trên 500 ngàn tấn năm 2000.

Cung về gạo và cà phê đã vượt cầu, do đó giá liên tục giảm. Đứng trước tình trạng giá gạo và cà phê giảm, những người sản xuất gạo và cà phê không có cách gì chống đỡ, ngoài việc phải thu hẹp sản xuất. ở đây cung cầu của thị trường đã điều tiết giá cả và sản xuất. Người sản xuất buộc phải thu hẹp sản xuất khi giá cả thị trường đã thấp hơn chi phí sản xuất.

Trường hợp cá basa của ta xuất khẩu vào Mỹ lại có một sự khác biệt là thị trường Mỹ có cả người tiêu dùng cá basa và người sản xuất cá da trơn tương tự. Do cá basa của ta rẻ hơn, thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường Mỹ với thị phần khoảng 2% đã đặt những người nuôi cá basa ở Mỹ trước nguy cơ phá sản.

Trong trường hợp này người dân Mỹ nuôi cá đã kiện lên chính phủ Mỹ và có thể có ba khả năng giải quyết: Nếu Việt Nam bán phá giá thì phải chịu mức thuế 190%; Nếu không, Chính phủ Mỹ có thể áp dụng biện pháp hạn chế định lượng bằng cô-ta nhập khẩu cá basa; Hoặc Mỹ sẽ tăng thuế nhập khẩu tạm thời, có thời hạn lên đến mức đủ bảo vệ những người nuôi cá. Cuối cùng là Mỹ đã tăng thuế nhập khẩu cá basa Việt Nam vào Mỹ.

catra.PNG
Nguồn cá xuất khẩu gặp khó khăn​

Từ hai trường hợp trên đây ta có thể thấy rằng việc nghiên cứu tìm hiểu thị trường, xác định dung lượng các thị trường, các giới hạn của thị trường và khả năng thâm nhập tối đa của hàng Việt Nam vào các thị trường đó là một vấn đề rất quan trọng.

Nước ta đã xuất khẩu cà phê vào thị trường Mỹ mà không gặp trở ngại gì, vì người Mỹ không trồng cà phê, nhưng giới hạn lại là tổng cầu về cà phê trên thế giới. Không có sự nghiên cứu đánh giá chính xác tổng cầu này chắc sẽ gây ra những tổn hại cho ta khi gia tăng quá mức một mặt hàng xuất khẩu nào đó.

ST
 
Gạo là một trong những mặt hàng thuộc nhóm hàng lương thực, được sản xuất và tiêu dùng chủ yếu ở Châu á. Cũng như các mặt hàng lương thực khác, Chính phủ các nước luôn có chính sách và khuyến khích tăng cung trong nước để đảm bảo an ninh lương thực. Do vậy, khối lượng gạo trao đổi chiếm khoảng 6 – 7% so với sản lượng sản xuất của thế giới. Trong thương mại thế giới, khối lượng và giá trị buôn bán mặt hàng gạo ở mức tương đương với lúa mì và chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng giá trị thương mại hàng hóa.

Sản xuất lúa gạo ở Việt Nam kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới, sản lượng lúa gạo đã gia tăng nhanh chóng. Trong 10 năm (1991 – 2001), bình quân diện tích tăng 1,73%/năm, năng suất tăng 3,2%/năm và sản lượng tăng 5%/năm. Việt Nam từ một nước thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, chiếm khoảng 17% lượng gạo xuất khẩu toàn cầu. Hiện nay, theo mức kim ngạch xuất khẩu, gạo được xem là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với giá trị xuất khẩu năm 2002 đạt 726 triệu USD, tăng hơn 3 lần so với năm 1991 và chiếm 4,4% tổng giá trị xuất khẩu (kể cả xuất khẩu dầu thô).

= Tuy nhiên, sản xuất và xuất khẩu lúa gạo ở Việt Nam vẫn chưa hoàn toàn là một lựa chọn hướng về xuất khẩu. Dư cung gạo không phải bắt nguồn từ yêu cầu tăng cường xuất khẩu mà chủ yếu từ chính sách an ninh lương thực. Do vậy trong sản xuất lúa gạo từ trước đến nay, Việt Nam vẫn chủ yếu chú trọng đến năng suất mà ít quan tâm đến các giống gạo ngon có giá trị xuất khẩu cao (những giống gạo thường cho năng suất thấp).

Căn cứ vào tình hình và yêu cầu thực tiễn, việc khai thác triệt để hơn nữa những tiềm năng to lớn của đất nước trong sản xuất cũng như tìm kiếm cách thức tiếp cận thị trường, giữ vững và phát triển thị phần mặt hàng gạo có hiệu qủa tối ưu luôn là vấn đề đòi hỏi sự nghiên cứu và giải quyết.

[PDF]https://server1.vnkienthuc.com/files/1/Thuong mai/TM150.pdf[/PDF]
 
Cà phê của ta dù khá chu toàn nhưng khâu tiếp thị quảng cáo kém chuyên nghiệp, trong khi cà phê hãng nước ngoài họ mơi thâm nhập mà đã rất sôi động cạnh tranh

Lý do chủ yếu làm cho giá gạo và cà phê giảm liên tục là nước ta đã gia tăng xuất khẩu gạo từ 2,0 triệu tấn năm 1995 lên tới trên 4 triệu tấn năm 1999 và từ 248 ngàn tấn cà phê năm1995 lên tới trên 500 ngàn tấn năm 2000.


Cung về gạo và cà phê đã vượt cầu, do đó giá liên tục giảm. Đứng trước tình trạng giá gạo và cà phê giảm, những người sản xuất gạo và cà phê không có cách gì chống đỡ, ngoài việc phải thu hẹp sản xuất. ở đây cung cầu của thị trường đã điều tiết giá cả và sản xuất. Người sản xuất buộc phải thu hẹp sản xuất khi giá cả thị trường đã thấp hơn chi phí sản xuất.


Trường hợp cá basa của ta xuất khẩu vào Mỹ lại có một sự khác biệt là thị trường Mỹ có cả người tiêu dùng cá basa và người sản xuất cá da trơn tương tự. Do cá basa của ta rẻ hơn, thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường Mỹ với thị phần khoảng 2% đã đặt những người nuôi cá basa ở Mỹ trước nguy cơ phá sản.


Trong trường hợp này người dân Mỹ nuôi cá đã kiện lên chính phủ Mỹ và có thể có ba khả năng giải quyết: Nếu Việt Nam bán phá giá thì phải chịu mức thuế 190%; Nếu không, Chính phủ Mỹ có thể áp dụng biện pháp hạn chế định lượng bằng cô-ta nhập khẩu cá basa; Hoặc Mỹ sẽ tăng thuế nhập khẩu tạm thời, có thời hạn lên đến mức đủ bảo vệ những người nuôi cá. Cuối cùng là Mỹ đã tăng thuế nhập khẩu cá basa Việt Nam vào Mỹ.
 
Theo số liệu thống kê của Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), tổng lượng gao xuất khẩu của Việt Nam tính từ đầu năm đến ngày 13/06 đã đạt mức 2,969 triệu tấn, tăng 3,5% tương ứng 99.000 tấn so với mức 2,870 triệu tấn cùng kỳ năm ngoái. Lũy kế trị giá FOB xuất khẩu đạt mức 1,285 tỷ USD, trị giá CIF 1,350 tỷ USD. Như vậy, khối lượng xuất khẩu gạo đã đạt khoảng 39% so với mục tiêu 7,5 triệu tấn đề ra từ đầu năm.

Tính riêng từ ngày 01/06 đến ngày 13/06/2013, Việt Nam đã xuất khẩu được 180.853 tấn gạo, trị giá FOB 73,521 triệu USD, trị giá CIF 81,729 triệu USD.

Giá gạo Việt Nam loại 5% tấm, cuối tuần trước (15/6) đang nằm ở mức 375 – 385 USD/tấn so với gạo Thái Lan cùng chất lượng hiện có giá 495 – 505 USD/tấn.
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top