Tìm hiểu bài " Bình Ngô đại cáo"

Bút Nghiên

ButNghien.com
Bình Ngô Đại Cáo

Bản dịch của Ngô Tất Tố


Thay trời hành hóa, hoàng thượng chiếu rằng,
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét.
Chứng cứ còn ghi.
Vưà rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thưà cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trờị
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc,
Ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,
Khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng,
Máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất,
Chân tay nào phục dịch cho vừa ?
Nặng nề những nổi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha;
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước,
Vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền,
Thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng,
Miịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng,
Vội vã hơn cứu người chết đói.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà,
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử,
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạọ
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng quuân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy,
Mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh
Mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong,
Giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất,
Ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn
Nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính
Lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người,
Gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc,
Để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín,
Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười,
Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm,
Chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường
Tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Dánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.
Bị ta chặn ở Lê Hoa,
Quân Vân Nam nghi ngờ, khiếp vía mà vỡ mật
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm,
Quân Mộc Thạnh xéo lên nhau, chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông,
Nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi,
Cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù,
Như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại,
Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
Về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
hết: Bản dịch của Ngô Tất Tố


I. VÀI VẤN ĐỀ CHUNG

1. Hoàn cảnh ra đời:

Cuối năm 1427, Vương Thông, tên tổng chỉ huy quân đội nhà Minh ở Việt Nam, đã phải mở cửa thành Ðông Quan đầu hàng. Cuộc kháng chiến 10 năm đã kết thúc vẻ vang. Thay mặt vua Lê, Nguyễn Trãi viết bài cáo nhằm tổng kết quá trình kháng chiến và tuyên cáo thành lập triều đại mới.

2. Về thể loại Cáo:

Nếu văn học động viên mọi người chiến đấu thì văn Cáo lại có ý nghĩa tuyên ngôn nhằm công bố cho mọi người biết những chủ trương chính trị trọng đại của toàn dân tộc như việc xác lập hòa bình, đánh đuổi giặc ngoại xâm và xây dựng vương triều mới.

Cáo viết bằng thể văn biền ngẫu, số câu chữ không hạn chế, văn phong mang tính chính luận nên trang trọng, sắc bén, lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục.

Kết cấu của bài đại cáo bình Ngô tuân thủ đúng kết cấu của các tác phẩm Thang cáo (được chép trong chương Thương Thư của sách Kinh Thư) và Vũ cáo hay đại cáo Vũ Thành (được chép trong chương Chu thư của sách Kinh Thư).

3. Về tựa đề bài Cáo:

Những quan niệm khác nhau về ý nghĩa của chữ Ngô trong Bình Ngô đại cáo

- Ngô: Một cách gọi theo thói quen của người Việt Nam thời đó để chỉ chung người trung Quốc.

- Ngô: tên vùng đất xuất thân của Chu Nguyên Chương (tức Minh Thành tổ).

- Ngô: Một cách gọi của nhân dân để chỉ những tên giặc gian ác, tàn bạo.

II. PHÂN TÍCH

1. Nêu luận đề chính nghĩa:

- Luận đề này được xây dựng dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa 3 yếu tố: Nhân nghĩa, dân và nước:

+ Nhân nghĩa: điếu dân phạt tội, bênh vực cho kẻ khốn cùng, chống lại các thế lực phi nhân.

+ Dân: Dân trong tác phẩm là những người thuộc tầng lớp thấp nhất nhưng lại chiếm đa số trong xã hội nông nghiệp thời đó. Ðó là những dân đen, con đỏ, thương sinh, phu phen, manh lệ, những người có vai trò lịch sử quan trọng, góp phần đánh đuổi giặc ngoại xâm và xây dựng đất nước.

+ Nước: Khái niệm nước bao gồm mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố

• Văn hiến
• Ðịa lý
• Phong tục tập quán
• Các triều đại chính trị
• Hào kiệt
• Truyền thống lịch sử vẻ vang

Những quan niệm của Nguyễn Trãi trong bài Cáo về Nhân nghĩa, Dân, Nước đều xuất phát từ chính thực tiễn kế thừa phát triển của truyền thống yêu nước, phù hợp với đạo đức truyền thống và hoàn cảnh lịch sử đương thời. Những quan niệm này, so với trước, đã có nhiều biến đổi, phát triển do sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử.

2. Vạch trần tội ác giặc:

Các nhà nghiên cứu xem đoạn văn này là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác khủng khiếp của giặc Minh trong 20 năm trên mảnh đất Ðại Việt.

Ðể đảm bảo vừa tăng cường sức thuyết phục vừa đạt được tính cô đọng, hàm súc của ngôn từ văn chương, Nguyễn Trãi sử dụng đan xen, kết hợp hàihòa giữa những hình ảnh mnag tính chất khái quát với những hình ảnh có tính cu, sinh động.

3. Tổng kết quá trình kháng chiến:

a. Hình ảnh của Lê Lợi buổi đầu kháng chiến

Tập trung miêu tả hình ảnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã khái quát toàn vẹn nưng phẩm chất tiêu biểu nhất của con người yêu nước ở thế kỷ XV. Những đặc điểm của con người yêu nước trong văn học thời kỳ này thường có đặc điểm sau:

- Xuất thân bình thường:
Ta đây
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình

- Có tấm lòng căn thù giặc sâu sắc:
Ngẫm thù lớn há đội trời
Căm giặc nước thề không cùng sống

- Khở đầu gặp nhiều khó khăn nhưng luôn có tinh thần vượt khó, kiên trì:
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng chí khắc phục gian nan

- Biết tập hợp, đoàn kết toàn dân:
Nhân dân bốn cõi một nhà dựng cần trúc ngọn cờ phất phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử hòa nước sông chén rượu ngọt ngào

- Biết sử dụng chiến lược, chiến thuật tài tình:
Thế trận xuất kỳ lấy yếu chống mạnh
Dùng quân mai phục lấy ít địch nhiều
- Biết nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa trong mọi hoạt động:
Ðem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân mà thay cường bạo

Có thể nói, Lê Lợi chính là hình ảnh tiêu biểu của những con người yêu nước dám hy sinh quên mình đứng dậy chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập tự do của dân tộc.

b. Miêu tả quá trình kháng chiến

- Ở đây, ta không tìm thấy những anh hùng cá nhân trong văn chương trung đại hay trong các tác phẩm anh hùng ca của Hy Lạp cổ đại. Bài Cáo tập trung làm sáng rõ vai trò của một tập thể anh hùng, những người mà trước kia văn học bác học chưa quan tâm đi sâu, khai thác

- Tuy nhiên, đối với tướng giặc, tác giả lại miêu tả đầy đủ, cụ thể từng gương mặt, họ tên, chức tước và tư thế thất bại của từng tên một.

- Cách sử dụng liệt kê ngày tháng thể hiện rõ nhịp độ dồn dập của những trận chiến thắng.

4. Tuyên bố hòa bình, xây dựng vương triều mới:

- Nhịp thơ dàn trải, trang trọng

- Khẳng định thế thịnh suy tất yếu

( Sưu tầm )​
 
Tư liệu tìm hiểu bài " Bình Ngô đại cáo "


Xuất xứ

Năm 1407, giặc Minh xâm lăng nước ta. Năm 1417, tại núi rừng Lam Sơn, Thanh Hoá, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa xưng là Bình Định Vương. Trải qua mười năm kháng chiến vô cùng gian lao và anh dũng, nhân dân ta quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi. Mùa xuân năm 1428 thay lời Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo "Bình Ngô Đại cáo". Nó là một luận văn chính trị, quân sự, đồng thời là áng "thiên cổ hùng văn"

Chủ đề

"Bình Ngô đại cáo" khẳng định sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt căm thù lên án tội ác ghê tởm của quân "cuồng Minh", ca ngợi những chiến công oanh liệt thuở "Bình Ngô", tuyên bố đất nươc Đại Việt bước vào kỷ nguyên mới độc lập, thái bình bền vững muôn thuở.

Phân tích

1. Đại Việt là một đất nước có truyền thống nhân nghĩa cao đẹp.

a) Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa, đem "quân điếu phạt" để tiêu diệt quân cường bạo, vì độc lập của nước, vì sự yên vui hạnh phúc của nhân dân:

"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"

b) Nguồn gốc của nhân nghĩa Đại Việt là nền văn hiến lâu đời.

Đâu phải "Nam man" là "man di mọi rợ". Như bọn hoàng đế phương Bắc thường láo xược phán truyền. Trái lại, Đại Việt là một quốc gia "vốn xưng nền văn hiễn đã lâu". Nền văn hiến ấp hợp thành bởi các nhân tố:

- Có núi sông bờ cõi "đã chia", đã " định phận tại Thiên thư".

- Có thuần phong mĩ tục.

- Có nền độc lập vững bền: "Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập", "hùng cứ một phương".

- Lắm nhân tài hào kiệt

- Có truyền thống anh hùng chống ngoại xâm, có những trang sử vàng chói lọi từng làm cho "Lưu Cung thất bại", "Triệu Tiết tiêu vong", "bắt sống Toa Đô", "giết tươi Ô mã".

2. "Bình Ngô đại cáo" là bản cáo trạng đanh thép, đầy căm thù tội ác quân "cuồng Minh".

Tác giả đứng trên quan điểm nhân nghĩa mà lên án quân xâm lược.

- Giặc Minh tàn sát dã man nhân dân ta:
"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ"

- Tàn phá môi trường môi sinh, bóc lột vơ vét thậm tệ:

"Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi"

- Bắt dân ta xuống bể mò ngọc trai, lên rừng bẫy hươu đen... gây ra bao thảm cảnh. Bọn thái thú, bọn tướng tá Thiên triều như một lũ quỷ khát máu vô cùng ghê tởm: "Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán!".

Tội ác của giặc Minh chồng chất như núi, đầy mưu mô xảo quyệt "dối trời, lừa dân... gây binh, kết oán". Một cách nói thâm xưng đầy căm thù, ám ảnh:

"Dơ bẩn thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Độc ác thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được?"

Từ xưa tới nay, chưa có nhà văn nào viết cụ thể mà khái quát tội ác xâm lược đối với nhân dân ta như Nguyễn Trãi.

3. Nguồn sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt:

a. Lãnh tụ nghĩa quân là một anh hung xuất chúng:

"Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
(...) Thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều".

b. Sức mạnh của lòng căm thù giặc và tinh thần đại đoàn kết dân tộc để chiến thắng quân xâm lược:

- “Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống"

- "Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới,
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào".

4. Quá trình phản công và toàn thắng:

a. Nguồn gốc của chiến thắng là sức mạnh nhân nghĩa:
"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy trí nhân để thay cường bạo"

b.Trận đầu thắng lớn, giáng sấm sét vào đầu lũ xâm lăng:
"Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay"

c. Giải phóng miền rộng lớn đất nước:
"Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về".

d. Quân ta càng đánh càng thắng to. Giặc Minh bị giáng những đòn chí mạng! Máu giặc chảy thành sông thây chết đầy nội.
"Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tụy Động thây chết đầy nội, nhơ để ngàn năm".

e. Viện binh giặc bị tiêu diệt: Liễu Thăng "cụt đầu", bá tước Lương Minh "đại bại từ vong", thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn, Đô đốc "Thôi Tụ" lê gối dâng tờ tạ tội, thượng thư Hoàng Phúc "trói tay để tự xin hàng". Cánh quân Vân Nam bị đánh "vỡ mật", quân Mộc Thạnh "xéo lên nhau để chạy thoát thân". Cảnh tượng chiến trường vô cùng rùng rợn, thảm đạm:

"Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường,
Xương Giáng, Bình Than máu hôi đỏ
Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc,
Thành Đan Xá thây chất đầy núi cỏ nội đầm đìa máu đen"

f. Giặc Minh bị hoàn toàn thất bại thảm hại. Viện binh "hai đạo tan tành"; Quân giặc các thành "cởi giáp ra hàng”. Lũ tướng tá Thiên triều và hàng chục vạn giặc bị bắt làm tù binh, hoặc đầu hàng đã bị tha tội chết, được đối xử nhân đạo:

"Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc.
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa về đến nước mà vẫn tim đập chân run.”

- Quá trình phản công là một quá trình vươn dậy của cả dân tộc với sức mạnh vỡ bờ, bất khả chiến thắng. Ngôn ngữ tráng lệ, giọng văn mang âm điệu anh hùng ca:

" Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông cũng cạn,
Đánh một trận, sạch không kình ngạc,
Đánh hai trận, tan tác chim muông ..."

5. Lời tuyên bố :

- Ngàn năm, vết nhục nhã sạch làu.
- Trời đất, tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ... là nguyên nhân chiến thắng.
- Sự nghiệp "Bình Ngô" là chiến công "oanh liệt ngàn năm"
- Đại Việt bước vào một kỷ nguyên mới: độc lập và thái bình vững chắc:
" Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới,
... Muôn thưở nền thái bình vững chắc"

Tổng kết


1." Bình Ngô đại cáo" được viết theo thể "cáo" lối liền ngẫu loại chính luận, dùng cho nhà vua để tuyên bố những vấn đề trọng đại cho toàn dân biết. " Bình Ngô đại cáo" vừa là một bản tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống giặc minh vừa là lời tuyên ngôn độc lập, hoà bình.

2. Lập luận đanh thép, giọng văn hùng hồn, ngôn ngữ tráng lệ. "Bình Ngô đại cáo" dào dạt tinh thần yêu nước, là áng "thiên cổ hùng văn" khẳng định sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt.


( Sưu tầm )
 
Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi


A.Tác giả

I. Cuộc đời


-Nguyễn Trãi (1380-1442) hiệu là Ức Trai, Quê ở Chi Ngại-Hải Dương.

Cha của Nguyễn TrãiNguyễn Phi Khanh đỗ Thái học sinh( tiến sĩ) mẹ là Trần Thị Thái con Trần Nguyên Đán_một quý tộc đời trần từng giữ chức vụ tể tướng trong triều.

- Ông mất mẹ (lúc năm tuổi) và ông ngoại (lúc mười tuổi) rất sớm nên thiếu thốn tình thương, nên ông rất yêu quê ngoại nơii ông sống những ngày đầy ắp yêu thương của tuổi ấu thơ trong vòng tay của mọi người. Sau này khi đi xa, lưu lạc không về thăm quê được ông cứ trăn trở, đau đáu tấm lòng nhìn về quê cha đất tổ.

-Năm tuổi mất mẹ, mười tuổi mất ông ngoại Nguyễn Trãi về Nhị Khê nơi cha dạy học.

- Tình hình đất nước rối ren, triều Trần mục nát, nhà Hồ lấn át truất ngôi vua và lập nên nhà Hồ.

-1400 đỗ Thái học sinh rồi cùng cha ra làm quan cho nhà Hồ.

-1407 giặc Minh xâm lược, Nguyễn Phi Khanh bị bắt, Nguyễn Trãi theo cha nhưng nghe lời cha trở về và bị quân Minh bắt giữ.Ông trốn khỏi tay giặc náu mình trong nhân dân, tìm theo Lê Lợi và kháng chiến cùng Lê Lợi.

Khi giặc Minh xâm lược nước ta cha con họ Hồ bị bắt, Nguyễn Phi Khanh cũng bị bắt chỉ có mình ông thoát.Tổng binh Trương Phụ bắt buộc Nguyễn Phi Khanh viết thư gọi, bất đắc dĩ ông phải ra hàng. Trương Phụ biết ông không hết sức giúp mình muốn giết đi nhưng thượng thư Hoàng Phúc thấy diện mạo kì lạ nên tha và giam lỏng ở thành Đông Quan. Thời gian này ông chịu rất nhiều cực khổ, ông sống cùng nhân dân và có điều kiện hiểu thêm về họ, hiểu được sức mạnh to lớn của nhân dân.Khi đến với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ông trở thành quân sư đắc lực cho Lê Lợi.

-1428 ông bị nghi oan và bị bắt giam, sau đó được tha ông xin về ở ẩn tại Côn Sơn.

-1440 Lê Thái Tông mời ông trở lại làm việc và giao cho nhiều nhiệm vụ quan trọng.

-1442 xảy ra vụ Lệ Chi Viên (trại vải) bị bọn gian tà ở triều đình vu oan, gia đình ông bị tru di tam tộc.

Khi đã đứng tuổi ông lấy Thị Lộ làm vợ. Thị Lộ biết ít nhiều về thơ văn và được vào hầu vua, làm lễ nghi học sĩ ngày đêm ở cạnh vua.Khi vua đi tuần miền Đông trở về trại vải huyện Gia Định, nghỉ đêm tại đó rồi mất .Đại thần là Trịnh Khả và Nguyễn Xí giết Thị Lộ lại bắt tội cả ông, giết 3 họ, thu điền sản sung công.

-1464 Lê Thánh Tông minh oan cho ông, cho sưu tầm thơ văn và tìm người con trai sống sót cho làm quan.

=>Nguyễn Trãi là bậc anh hùng dân tộc, một nhân vật toàn tài hiếm có, một danh nhân văn hóa thế giới.

=>Một con người chịu oan khiêm thảm khốc nhất trong lịch sử chế độ phong kiến VN.

II. Sự nghiệp thơ văn

1. Những tác phẩm chính

-Tp bằng chữ Hán:

+Quân trung từ mệnh tập
+Bình Ngô đại cáo
+Ức Trai thi tập
+Chí Linh sơn phú


-Tác phẩm bằng chữ Nôm: Quốc âm thi tập(254 bài)

-Sách địa lí: Dư địa ch

=>Nguyễn Trãi là tác giả xuất sắc ở nhiều thể loại văn học, trong sáng tác chữ Hán hay chữ Nôm, văn chính luận hay trữ tình đều có những thành tựu nghệ thuật lớn.Có thể nói Nguyễn Trãi là người khai sáng thơ ca tiếng Việt.

2.Nguyễn Trãi_nhà văn chính luận kiệt xuất.

-Văn chương của Nguyễn Trãi mang tinh thần chiến đấu vì độc lập dân tộc, vì đạo lí chính nghĩa.

-Ý thức dân tộc của Nguyễn Trãi phát triển rất cao, rất sâu sắc.

-Quan niệm sức mạnh vô địch bắt nguồn từ “chí nhân”, “đại nghĩa” bắt nguồn từ nhân nghĩa_một tư tưởng lớn, độc đáo của VN khi đó.

3.Nguyễn Trãi _nhà thơ trữ tình sâu sắc.

-Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi là sự kết tinh hài hoà giữa người anh hùng vĩ đại và con người trần thế nhất trần gian.

-Tác giả đau nỗi đau của con người, yêu tình yêu của con người.
-Tình yêu của Nguyễn Trãi dành cho thiên nhiên, đất nước, con người, cuộc sống.

*Nghệ thuât: Văn chương Nguyễn Trãi là thành tựu nghệ thuật mang ý nghĩa kết tinh tr6en cá hai bình diện cơ bản nhất là thể loại và ngôn ngữ.

B.Tác phẩm

I.Xuất xứ

Tháng 11.1428 kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, Nguyễn Trãi thay lời vua viết tuyên cáo cho toàn dân bịết.

II.Thể loại

Được viết theo thể cáo nhưng được coi là áng văn chính luận, viết theo lối văn biền ngẫu một câu có hai vế đối nhau.

III.Bố cục: 4 đoạn

IV.Phân tích

1.Đoạn 1: Chính nghĩa của cuộc kháng chiến

a.Nêu lí tưởng nhân nghĩa


“ Việc nhân nghĩa….trừ bạo”
-Nhân nghĩa: là lo cho dân đựơc sống vui, vì thương dân mà đánh đuổi lũ xâm lược và bọn tham tán trong nước→Lập trường của dân tộc
-Mở đầu bài Cáo tác giả nêu lên lí do của cuộc kháng chiến, vì nghĩa cứu dân diệt bạo tàn,đem bình yên cho dân.Ý tứ ngắn gọn,chặt chẽ→Nhân nghĩa là lí tưởng lớn cùa Nguyễn Trãi.

b. Tư cách độc lập của dân tộc

-Nước Đại Việt ta từ trước…
Vốn xưng nền văn hiến…
→Khẳng định chủ quyền của dân tộc ta và Trung Quốc ngang nhau
-Triệu, Đinh, Lí , Trần….
Hán, Đường, Tống, Nguyên….
….hào kiệt đời nào cũng có
→Khẳng định chủ quyền và tự hào về tư cách độc lập của đất nước ta qua cách viết sóng đôi
-Lưu Cung….Triệu Tiết….
…Bạch Đằng…
→Cách viết sánh đôi →sự thất bại của giặc chiến thắng của ta→nêu cao lòng tự hào dân tộc
=>Bằng giọng văn ngắn gọn,ý tứ lập luận đơn giản Nguyễn Trãi đã đưa ra những dẫn chứng đầy tính thuyết phục về sức mạnh của nhân nghĩa và chân lí, nói chung lại đó chính là sức mạnh của chính nghĩa.

2.Đoạn 2: Tố cáo tội ác của giặc Minh

-Nhân
-Thừa cơ
→Với hai từ này Nguyễn Trãi đã vạch rõ giọng điệu xảo trá của giặc Minh
-Những tội ác của giặc
+Nướng dân đen
+Vùi con đỏ
+Dối trời, lừa dân
+Gây binh, kết oán
+Thuế khoá, cống nạp
……
→Đánh giá khách quan, toàn diện, sáng suốt.
=>Tác giả liệt kê đủ mọi tội ác tham thàn, bạo ngược của giặc làm cho đời sống nhân dân vô cùng cực khổ
=>Lòng đau xót, căm thù giặc của tác giả
-Trúc Lam Sơn không ghi hết tội
Nước Đônh Hải không rửa sạch mùi
=>Hình ảnh tượng trưng mà cụ thể, khái quát thành lời cáo trạng phán xét tội ác của giặc.Tội ác của giặc gây căm phẫn cả đất trời, nhân dân chỉ còn cách đứng lên khởi nghĩa.

3.Đoạn 3:Tổng kết cuộc khởi nghĩa

a. Buổi đầu khởi nghĩa


-Không đội trời chung
-Đau lòng nhức óc
→Lòng căm thù giặc, nung nấu ý chí, đường lối khởi nghĩa
-Khó khăn
+quân thù đang mạnh
+nhân tài thiếu
+lương thực hết
+không binh sĩ
-Tâm trạng Lê Lợi
+Sách lược thao suy xét
+ngẫm trước tới nay
+trằn trọc, băn khoăn
→Ca ngợi Lê Lợi biết nhìn xa trônmg rộng đưa đến phương kế đánh giặc
-Phương kế đánh giặc
+Nhân dân 4 cõi một nhà, dựng cần trúc….
+Thế trận xuất kì….
→Phương kế toàn dân, đánh bất ngờ
=>Tài giỏi về quân sự, lấy đại nghĩa, chí nhân để thắng hung tàn, cường bạo.

b.Diễn bíên cuộc khởi nghĩa

-Trận Bồ Đằng…. miền Trà Lân…..
→Trận mở màn cho sự chuyển hướng của nghĩa quân
-Kết quả:
+Trần Trí, Sơn Thọ……..
+Lí An, Phương Chính….
→Thất bại của giặc
-Ninh Kiều máu chảy thành sông…
-Tuy Động thây chất đầy nội…
→Hai trận đánh lớn có tính chất bản lề của cuộc khởi nghĩa, giặc thua to ta càng quyết tâm đánh bằng mưu trí đánh bằng lòng người.
-Giặc kêu thêm viện binh
+Đinh mùi tháng chín Liễu Thăng….
+Năm ấy tháng mười Mộc Thạnh….
→Hai tướng giỏi, hai đạo quân mạnh, hai cách tiến quân→thế vững chãi giặc
-Chặt mũi tiên phong….
-Tuyệt nguồn lương thực….
→Cách dụng binh điêu luyện, tài giỏi
-Ngày 18, trận Chi Lăng…….
-Ngày 20, trận Mã Yên……..
-Ngày 25, bá tước Lương Minh…
-Ngày 28,……
→Nhịp điệu dồn dập, quân giặc bị tiêu diệt hết mảng này đến mảng khác
=>Khí thế long trời, lở đất của quân ta
-Sĩ tốt kén người hùng hổ
-Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
-Nổi gío to……
-Tổ kíên hổng………
→Nghệ thuật ước lệ, ẩn dụ→sức mạnh của ta thành sức mạnh của vũ trụ, giặc thua tan tác=>thế trận hoàn toàn thay đổi
-Đô đốc Thôi Tụ lê gối……..
-Thượng thư Hoàng Phúc trói tay….
-Lạng Giang, Lạng Sơn…….
-Xương Giang, Bình Than….
-Sắc phong vân phải đổi…
-Ánh nhật nguyệt phải mờ….
→Chiến thắng của ta, thất bại thảm hại của giặc làm đất trời phải biến sắc.

*Nguyên nhân thắng lợi

“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”

=>Sự kiện tiêu biểu, chọn lọc. Tác giả liệt kê từng sự kiện đối lập giữa chiến thắng của ta, thất bại của giặc.Ngôn ngữ diễn tả các động tác mạnh liên kết với nhau →những rung chuyển mạnh, dồn dập, dữ dội.Câu văn khi dài, khi ngắn, nhạc điệu hào sảng, âm thanh hào hùng.

4.Đoạn 4: Tuyên bố kết thúc chiến tranh mở ra kỉ nguyên mới.

-Xã tắc – vững bền
-Giang sơn – đổi mới
……..
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
→Khẳng định nền thái bình muôn thuở vết nhục ngàn đời đã rửa xong
-Âu cũng……
Xa gần……..đều hay
=>Chấm dứt bài Cáo bằng hai vế bốn chữ như tiếng trống ngân vang vĩnh viễn.Gịong văn thư thái, khoẻ khoắn, hả hê.

( Sưu tầm)
 
Cách đơn giản nhất là em COPPY toàn bài rồi PASTE về WORD .

Còn không , em vào File trên góc trái trên cùng của trang web, nhấp rồi chọn Save Page As... , rồi đặt địa chỉ lưu (để dễ tìm sau này).

Em cần lưu ý viết chữ tiếng Việt có dấu đúng chính tả. Và hạn chế đặt câu hỏi nhiều như trên .

Chúc vui !
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top