Vui Học Văn
Cộng tác viên
- Xu
- 487
Nguyễn Đình Chiểu, còn được biết đến với các bút danh Mạnh Trạch, Trọng Phủ, Hối Trai, sinh ngày 1 tháng 7 năm 1822 tại làng Tân Khánh, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay là thành phố Hồ Chí Minh).
Cha ông là Nguyễn Đình Huy, thư ký Văn hàn ty của Tổng trấn Lê Văn Duyệt, bản thân ông là người xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên (nay là xã Phong An, huyện Phong Điền, TT-Huế). Mẹ của ông là Trương Thị Thiệt, người làng Thanh Ba, huyện Phước Lộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh Gia Định.
Họa cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu. Nguồn: internet
Trong tuổi niên thiếu, Nguyễn Đình Chiểu đã chứng kiến cảnh loạn lạc của xã hội trong thời điểm đó, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi tại Gia Định. Cuộc nổi dậy này đã khiến cha ông phải bỏ trốn ra Huế và bị cách chức. Năm 1833, cha ông đã đưa ông tới Huế để tiếp tục học tập khi ông mới 12 tuổi và sống ở đó cho đến khi ông 19 tuổi.
Năm 1843, khi Nguyễn Đình Chiểu 21 tuổi, ông đỗ Tú tài ở trường thi Gia Định. Khi đó, một nhà họ Võ hứa gả con gái cho ông.
Sau đó, năm 1847, ông ra Huế để chờ thi khoa Kỷ Dậu 1849, nhưng trước khi kịp thi, ông đã nhận được tin mẹ mất tại Sài Gòn (1849). Trên đường trở về, ông chịu tang mẹ và do thời tiết khắc nghiệt, vất vả và đau buồn nên ông bị bệnh và mù cả đôi mắt. Trong thời gian nghỉ lại Quảng Nam để chữa bệnh, tuy bệnh không hết, nhưng ông đã được một danh y giỏi truyền dạy nghề thuốc.
Sau những biến cố như đui mù, mất mẹ, hôn thê bội ước, cảnh nhà sa sút…, ông đã đóng cửa chịu tang cho đến năm 1851, ông mới mở lớp dạy học và làm thuốc.
Năm 1854, bà Lê Tăng Quýnh một người học trò cảm phục ông, nên đã xin gả cô em gái của mình là Lê Thị Điền cho thầy…
Kể từ sau những thời khắc đầy khó khăn của cuộc chiến tranh và sự thống trị của thực dân Pháp, Nguyễn Đình Chiểu đã không ngừng thể hiện tình yêu và hoài bão của mình thông qua sáng tác truyện thơ. Trong suốt gần chục năm sau đó, ông đã sáng tác những tác phẩm nổi tiếng như Lục Vân Tiên và Dương Từ – Hà Mậu, nhằm gửi gắm tình cảm và khát khao của mình.
Tuy nhiên, cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu không chỉ có những thành công về nghệ thuật. Trong bối cảnh Pháp chiếm thành Gia Định vào ngày 17 tháng 2 năm 1859, ông cùng gia đình đã phải chạy về quê vợ ở làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc. Tại đây, ông đã sáng tác Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một tác phẩm được nhiều người đánh giá cao.
Khi ba tỉnh miền Đông Việt Nam rơi vào tay quân Pháp, Nguyễn Đình Chiểu không chịu sống trong khu vực đó bị chiếm đóng. Ông cùng gia đình đã xuôi thuyền về làng An Đức, tổng Bảo An, tỉnh Vĩnh Long (nay là huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre). Tại đây, ông tiếp tục dạy học, bốc thuốc và giữ liên lạc với các sĩ phu yêu nước như Phan Văn Trị, Nguyễn Thông và các lực lượng kháng chiến. Ông từ chối mọi cám dỗ của đối phương và luôn kiên trì với lý tưởng độc lập tự do của dân tộc.
Thời gian ở đây, Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác nhiều tác phẩm thơ văn bi tráng nhất, tiếc thương cho những người bạn, đồng bào và những nghĩa sĩ đã mất.
Ngày 3 tháng 7 năm 1888, Nguyễn Đình Chiểu qua đời tại Ba Tri, Bến Tre. Người ta kể lại rằng ngày đưa ông đi an táng, cả cánh đồng An Bình Đông, nay là An Đức, trắng xóa khăn tang của những người mến mộ ông.
tong hop
Cha ông là Nguyễn Đình Huy, thư ký Văn hàn ty của Tổng trấn Lê Văn Duyệt, bản thân ông là người xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên (nay là xã Phong An, huyện Phong Điền, TT-Huế). Mẹ của ông là Trương Thị Thiệt, người làng Thanh Ba, huyện Phước Lộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh Gia Định.
Họa cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu. Nguồn: internet
Trong tuổi niên thiếu, Nguyễn Đình Chiểu đã chứng kiến cảnh loạn lạc của xã hội trong thời điểm đó, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi tại Gia Định. Cuộc nổi dậy này đã khiến cha ông phải bỏ trốn ra Huế và bị cách chức. Năm 1833, cha ông đã đưa ông tới Huế để tiếp tục học tập khi ông mới 12 tuổi và sống ở đó cho đến khi ông 19 tuổi.
Năm 1843, khi Nguyễn Đình Chiểu 21 tuổi, ông đỗ Tú tài ở trường thi Gia Định. Khi đó, một nhà họ Võ hứa gả con gái cho ông.
Sau đó, năm 1847, ông ra Huế để chờ thi khoa Kỷ Dậu 1849, nhưng trước khi kịp thi, ông đã nhận được tin mẹ mất tại Sài Gòn (1849). Trên đường trở về, ông chịu tang mẹ và do thời tiết khắc nghiệt, vất vả và đau buồn nên ông bị bệnh và mù cả đôi mắt. Trong thời gian nghỉ lại Quảng Nam để chữa bệnh, tuy bệnh không hết, nhưng ông đã được một danh y giỏi truyền dạy nghề thuốc.
Sau những biến cố như đui mù, mất mẹ, hôn thê bội ước, cảnh nhà sa sút…, ông đã đóng cửa chịu tang cho đến năm 1851, ông mới mở lớp dạy học và làm thuốc.
Năm 1854, bà Lê Tăng Quýnh một người học trò cảm phục ông, nên đã xin gả cô em gái của mình là Lê Thị Điền cho thầy…
Kể từ sau những thời khắc đầy khó khăn của cuộc chiến tranh và sự thống trị của thực dân Pháp, Nguyễn Đình Chiểu đã không ngừng thể hiện tình yêu và hoài bão của mình thông qua sáng tác truyện thơ. Trong suốt gần chục năm sau đó, ông đã sáng tác những tác phẩm nổi tiếng như Lục Vân Tiên và Dương Từ – Hà Mậu, nhằm gửi gắm tình cảm và khát khao của mình.
Tuy nhiên, cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu không chỉ có những thành công về nghệ thuật. Trong bối cảnh Pháp chiếm thành Gia Định vào ngày 17 tháng 2 năm 1859, ông cùng gia đình đã phải chạy về quê vợ ở làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc. Tại đây, ông đã sáng tác Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một tác phẩm được nhiều người đánh giá cao.
Khi ba tỉnh miền Đông Việt Nam rơi vào tay quân Pháp, Nguyễn Đình Chiểu không chịu sống trong khu vực đó bị chiếm đóng. Ông cùng gia đình đã xuôi thuyền về làng An Đức, tổng Bảo An, tỉnh Vĩnh Long (nay là huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre). Tại đây, ông tiếp tục dạy học, bốc thuốc và giữ liên lạc với các sĩ phu yêu nước như Phan Văn Trị, Nguyễn Thông và các lực lượng kháng chiến. Ông từ chối mọi cám dỗ của đối phương và luôn kiên trì với lý tưởng độc lập tự do của dân tộc.
Thời gian ở đây, Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác nhiều tác phẩm thơ văn bi tráng nhất, tiếc thương cho những người bạn, đồng bào và những nghĩa sĩ đã mất.
Ngày 3 tháng 7 năm 1888, Nguyễn Đình Chiểu qua đời tại Ba Tri, Bến Tre. Người ta kể lại rằng ngày đưa ông đi an táng, cả cánh đồng An Bình Đông, nay là An Đức, trắng xóa khăn tang của những người mến mộ ông.
tong hop