Thuế máu - Hồ Chí Minh

Thandieu2

Thần Điêu
Đề bài: Phân tích mâu thuẫn trào phúng được thể hiện trong phần I (Chiến tranh và người bản xứ) của đoạn trích ‘Thuế máu’’.

Nguyễn Ái quốc là vị lãnh tụ vĩ đại, một con người tiêu biểu cho lòng yêu nước như chính cái tên của Người. Tác phẩm ‘’Bản án chế độ thực dân Pháp’’ đã được Người viết trg thời gian hoạt động Cách mạng tại Pháp là một đòn đánh vào chủ nghĩa thực dân.Trg đó, phần I ‘’ Chiến tranh và người bản xứ’’ ở chương 1 ‘’Thuế máu’’ đã chỉ ra nhiều mâu thuẫn trào phúng để vạch rõ bộ mặt thực sự của quan cai trị Pháp với người dân bản xứ.

‘’Thuế máu’’là chương đầu tiên của tác phẩm. Thứ tự và cách đặt tên các phần trg chương gợi lên cả một quá trình lừa bịp, bóc lột kiệt quệ cái thứ ‘’thuế máu’’ cực kì trắng trợn, dã man của bọn thống trị thực dân.Từ quan hệ ‘’ Chiến tranh và người bản xứ’’( phần 1) đến ‘’chế độ lính tình nguyện’’( phần 2), tác giả chỉ ra ‘’kết quả của sự hi sinh’’( phần 3). Các phần cứ nối tiếp nhau làm nên một bản án đầy chất chiến đấu. Tác giả đặt tên cho phần 1 là ‘’chiến tranh và người bản xứ’’. Với nhan đề này, người đọc cảm nhận giữa 2 vế có ý nghĩa ngang bằng thông qua từ ‘’và’’. Nhg thực chất thì không phải như vậy, vì từ‘’người bản xứ’’ được đặt trg ngoặc kép mang ý nghĩa mỉa mai , chỉ cách nhìn miệt thị của bọn thực dân Pháp đối với người dân ở đất nước thuộc địa được nói đến. Qua đây, cách đặt nhan đề của tác giả cũng đã phần nào toát lên được mâu thuẫn trào phúng trong đoạn.

Mâu thuẫn trào phúng được tác giả nói tới trg phần 1’’chiến tranh và người bản xứ’’ trước hết thể hiện ở sự đối lập trg thái độ của quân cai trị đối với người dân thuộc địa trước chiến tranh và khi chiến tranh vừa xảy ra.’’Trước năm 1914, họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên An- nam- mít bẩn thỉu, cùng lắm thì chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta...’’. ‘’An- nam- mít’’- cái tên gọi mà bọn thực dân dùng để gọi người đan An- nam một cách miệt thị, mỉa mai mà khinh bỉ, được Nguyễn Ái Quốc sử dụng như một tên gọi mang sắc thái tu từ có ý nghĩa nghệ thuật của lối dùng ‘’ gậy ông đập lưng ông’’ nhẹ nhàng mà thâm thúy. Một lối viết dửng dưng và không lạnh lung, mà vô cùng sâu sắc. Thấp thoáng phập phông phía sau những ngôn từ là cả một sự mỉa mai, kín đáo. Người bản xứ, trước mặt bọn thực dân, vốn chỉ là’’ những tên da đen bẩn thỉu’’,’’ những tên An- nam- mít bẩn thỉu’’, tưởng không liên quan gì đến’’ đại sự chiến tranh’’, thậm chí không biết gì về các cuộc chiến tranh. Cái họ biết là hầu hạ và bị các quan hành hạ, tức là chỉ biết ’’kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị’’. Bởi vậy, khi đột ngột được nhận vinh dự đặc biệt, danh hiệu tối cao thì chính họ cũng không sao hiểu nổi. ‘’Lập tức họ biến thành những đứa ‘’con yêu ‘’, những người ‘’bạn hiền’’của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu...’’. Điều gì đã khiến cho họ từ địa vị quá thấp hèn, bị khinh miệt trở thành cao quý như vậy? Đó là thái độ đề cao tâng bốc mà các quan cai trị dành cho người dân thuộc địa thấp cổ bé họng. Nhưng không có phép lạ nào ở đây cả. Tác giả đã chỉ ra một gợi ý nhỏ là tất cả sự thực được phơi bày: ‘’ Ấy thế mà cuộc chiến tranh vui tươi vừa bùng nổ’’. Công chúng Pháp rất có thể đã bị bất ngờ. Tác giả đã gọi những người dân bản xứ là ‘’họ’’, trg khi lại gọi đại diện của chính quyền thực dân là ‘’các quan cai trị nhà ta’’. Điều đó giúp tác giả có được vị thế gần gũi với nhân dân Pháp, tâm sự và chỉ ra cho họ một sự thật: vị thế ‘’cao quý’’, ‘’vinh dự đột ngột’’ mà người bản xứ được ‘’hưởng’’ hiện tại chúng chẳng đem lại điều gì tốt đẹp cho họ cả, thậm chí thà rằng họ cứ là ‘’giống người bản thỉu’’còn hơn. Như vậy, tác giả đã khái quát lên được bản chất đểu giả của bọn thực dân Pháp với người dân thuộc địa.

Mâu thuẫn trào phúng thứ 2 đã được tác giả Nguyễn Ái Quốc thể hiện rất rõ trg phần 1 khi đối chiếu’’ cái vinh dự đột ngột’’mà người dân bản xứ được hưởng với ‘’cái giá quá đắt’’ mà họ phải chịu. Lời lẽ lừa bịp ngọt ngào của bọn chính quyền thực dân giống như những’’ viên đạn bọc đường’’ đã gây nên bao cái chết thương tâm cho người dân vô tội. Sự thật đằng sau những lời lẽ hào nhoáng, bóng bẩy kia là gì? Chiến tranh bùng nổ, người dân thuộc địa trở thành những vật hi sinh.họ phải đóng một thứ thuế không nằm trg văn bản luật định thông thường: thuế máu. Họ phải dùng máu, dùng tính mạng, dùng cuộc sống của mình để nộp thuế cho bọn thực dân.Ở đây, Nguyễn Ái Quốc nói về kết quả sự hi sinh của người dân thuộc địa: ‘’tổng cộng có 70vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp và trg số ấy 8 vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa’’. Mỗi câu chữ Nguyễn Ái Quốc dùng đều có nụ cười, sự dí dỏm, hài hước của một người am hiểu lẽ đời, tình đời và nền văn hóa khác nhau.Còn những người nô lệ bản xứ được kể đến là ‘’lấy máu mình tưới lên những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm lên những chiếc gậy của ngài thống chế’’,hay là ‘’trg lúc vượt biển, nhiều người bản xứ, sau khi được mời chứng kiến cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi đã được xuống tận đáy biển để bảo vệ quê hương của các loài thủy quái’’, một số khác’’ bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng vùng Ban- căng’’, hoặc ‘’bị tàn sát trên bờ song Mác- nơ, hoặc trg bãi đầm lầy miền Săm- pa- nhơ’’ ở miền Bắc nước Pháp, ‘’lúc chết còn tự hỏi phải chăng nước mẹ muốn chiếm ngôi nguyên phi trg cung cấm vua Thổ’’. Vẫn giữ nguyên giọng điêuh châm biếm,’’ vui vui’’ mà như cứa từng nhát dao sắc lạnh ấy, tác giả chứng minh bằng những dẫn chứng cụ thể mà thật xót xa. Với lối viết dí dỏm, hài hước có sức lôi cuốn, Nguyễn Ái Quốc đã dẫn dắt bạn đọc vào thế giới tình cảm của mình một cách tự nhiên.’’ Theo ý kiến của tất cả các cơ quan có thẩm quyền không thiên vị được giao cho sử dụng ở châu Âu vật liệu biết nói châu Á thì vật liệu này, đã không đưa lại kết quả tương xứng với chi phí rất lớn về chuyện chở và bảo quản’’. Họ phải dứt khoát chọn lấy một trg hai con đường:’’ đi lính tình nguyện hoặc xì tiền ra’’. Những người không trực tiếp chiến đấu thì cũng phải ‘’làm kiệt sức trg các xưởng thuốc súng’’, ‘’ kiệt quệ, mỏi mệt trg các nhà máy của bọn thực dân’’. Họ ‘’hít phải những luồng khí độc đỏ ối’’, họ ‘’ khạc ra từng miếng phổi’’ và kết thúc cũng là cái chết. Đằng sau những từ ngữ miêu tả đượm sắc thái trào phúng, người đọc có thể cảm nhận thấy sự căm giận sục sôi của tác giả nói riêng và của tất cả nhân dân Đông Dương nói chung trước dã tâm độc ác của chính quyền thực dân Pháp. Qua đó, hình ảnh những người dân bản xứ hiện lên với một kiếp sống nô lệ khổ đau, khốn cùng.

Với giọng mỉa mai, đả kích, Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần bộ mặt giả dối cũng như bản chất tàn ác của bọn quan lại luôn coi mình là quan ‘’phụ mẫu’’. Phần 1 trg chương ‘’Thuế máu’’ đã góp phần tạo tiếng nói đanh thép vào bản cáo trạng chung về tội ác của thực dân Pháp.
 
Dựa vào văn bản Thuế Máu hãy chứng minh thái độ của các quan cai trị trước và sau chiến tranh đối với người dân va số phận thảm thương qua phần 1 " Chiến tranh và người bản xứ".

Gợi ý:

Nguyễn Ái Quốc là một vị lãnh tụ vĩ đại, một con người tiêu biểu cho lòng yêu nước, như chính cái tên của Người. Tác phẩm “bản án chế độ thực dân Pháp” được Người viết trong thời gian hoạt động cách mạng tại Pháp là một đòn chí mạng giáng vào chủ nghĩa thực dân. Trong đó, phần I, “chiến tranh và người bản xứ” ở chương “thuế máu”, đã vạch rõ bộ mặt thật sự của quan cai trị Pháp với người bản xứ

“Thuế Máu” là chương đầu tiên của tác phẩm. Trong chương này, tác giả chủ yếu là nói lên sự tàn bạo bất nhân của các quan cai trị cầm quyền Pháp. Từ khi đặt ách cai trị lên đất nước ta, thực dân Pháp đã đưa ra hàng trăm thứ thuế ngặt nghèo để bóc lột dân Việt Nam. Nhưng thứ thuế mà độc ác nhất, bất cứ quốc gia bị đô hộ nào cũng lên án đó là “Thuế Máu”, là phải trả thuế bằng máu, hay có nghĩa là bắt buộc dân bản xứ phải đi lính, làm tiên phong trong các trận đánh của nước Mẹ, chịu chết thay cho các cấp chỉ huy, cho người Pháp. Vì thế, dùng từ “Thuế Máu” để đặt tên cho nhan đề của chương I, Nguyễn Ái Quốc đã nêu bật lên sự dã man của thực dân Pháp đối với đồng bào ta.

Trong phần “chiến tranh và người bàn xứ”, tác giả đã khái quát lên được bản chất đểu giả của bọn thực dân Pháp. Trước chiến tranh, chúng chỉ xem người bản xứ chúng ta là những tên An-nam-mít bẩn thỉu, chỉ biết làm cu li, kéo xe tay và giỏi ăn đòn của các quan cầm quyền. Ấy vậy mà khi chiến tranh xảy ra, những người bản xứ lại được yêu quí, được xem như những đứa “con yêu”, “bạn hiền”, những người bình thường bỗng dưng trở thành “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”. Nhưng thực chất thì chúng có yêu qu‎í gì dân ta đâu, chúng chỉ tìm mọi thủ đoạn lừa bịp, xảo quyệt để bắt buộc dân ta đi lính. Và chắc hẳn các bạn đã biết số phận của họ ra sao rồi! Để trả giá cho những “vinh dự” ấy họ phải rời bỏ quê hương của mình, đi làm bia đỡ đạn cho lính của nước mẹ, được vào cung cấm của vua Thổ, “lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngày thống chế”. Không những thế, họ còn được xuống bảo vệ các loại thủy quái sau khi được chứng kiến trò bắn ngư lôi. Chịu những cái chết vô nghĩa, tàn khốc, bi thảm. Đó là cái giá của người bản xứ phải trả cho cuộc sống nô lệ, cho những người tự xưng là “khai phá văn minh” đất nước họ. Nguyễn Ái Quốc đã dùng những con số biết nói rất cụ thể, cho ta thấy có rất nhiều người một đi không trở về: “tổng cộng có bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp, và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa.”

Khi viết tác phẩm, Người đã những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc, hàng loạt mĩ từ, có tác dụng mỉa mai, châm biếm được sử dụng như: “con yêu”, “bạn hiền”, “chiến tranh vui tươi”, “lập tức”..., nhằm vạch trần bộ mặt xảo trá, lật lọng của bọn thực dân Pháp. Chỉ ra rõ ràng thái độ của bọn cai trị đã thay đổi mau chóng như thế nào khi chiến tranh xảy ra với “Mẫu quốc” và mục đích của chúng chỉ là muốn lợi dụng xương máu của đồng bào ta mà thôi! Không chỉ vậy, Người còn rất linh hoạt trong việc kết hợp các phép đối lập, miêu tả, những giọng văn chua cay, thêm phần bình luận giúp người người đọc thấy rõ sự nham hiểm của chế độ thực dân Pháp đối với người bản xứ.

Đoạn trích trên là lời tố cáo đanh thép nhất đối với chính quyền Pháp thuộc, là đòn tiến công quyết liệt vào chủ nghĩa thực dân. Tác phẩm là một bức tranh cùng, tủi nhục của người dân nô lệ, không chỉ riêng ở nước ta mà còn ở các thuộc địa trên toàn thế giới. Tố cáo chế độ cai trị cũng có nghĩa là vạch ra con đường đấu tranh để giải phóng đất nước, giành quyền độc lập. Nguyễn Ái Quốc đã giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, chỉ ra cho các dân tộc bị nô lệ trên khắp thế giới một chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do.”

Tác phẩm trên vẫn có giá trị cho đến ngày nay, bởi vì nhiều nơi trên thế giới vẫn còn xảy ra chiến tranh. Nhân dân nhiều nước vẫn đang đổ máu để giành lại độc lập cho tổ quốc mình chứ nhất định không cúi đầu làm nô lệ, không chịu mất nước! Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh!
 
Có ý kiến cho rằng: Một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của văn bản Thuế máu là nghệ thuật châm biếm, trào phúng sắc sảo. Hãy làm sáng tỏ ?./.

Gợi ý:

* Nêu và giới hạn được vấn đề cần bàn luận ở đề bài.
* Phân tích và chứng minh nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả thể hiện chủ yếu qua các phương diện:
- Tác giả đã xây dựng được một hệ thống hình ảnh sinh động, giàu tính biểu cảm và sức mạnh tố cáo:
+ Những hình ảnh đó có tính xác thực, phản ánh chính xác tình trạng thực tế. Bản thân các hình ảnh ấy đã mang tính lí lẽ không thể chối cãi.
+ Những hình ảnh trong tác phẩm không chỉ xác thực mà còn thể hiện tính châm biếm, trào phúng sắc sảo và xót xa. Nhiều hình ảnh, nhất là ở phần Chiến tranh và người bản xứ mang đậm cảm hứng mỉa mai chua chát, cay đắng cho số phận thảm thương của người lính thuộc địa: Hình ảnh người dân thuộc địa bị bắt đi lính, phải xa quê hương đem thân đổi lấy những vinh dự hão huyền; hình ảnh người lính bị phơi thây trên chiến trường, làm mồi ngon cho loài thủy quái; bị thảm sát, bị đánh đập dã man và đối xử như súc vật hay ở hậu phương những người công nhân bị vắt kiệt sức, bị các loại bệnh tật khác nhau…

- Bên cạnh hình ảnh, tác giả sử dụng hệ thống từ ngữ mỉa mai, giễu cợt, châm biếm với mật độ dày đặc; những mĩ từ, danh hiệu hào nhoáng mà chính quyền thực dân khoác cho người lính thuộc địa để đả kích bản chất lừa bịp trơ trẽn như: “những đứa con yêu”, “những người bạn hiền”, “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”, “lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế”, “lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy”, “vật liệu biết nói”, “An-nam-mít”…

- Giọng điệu trào phúng đặc sắc:
+ Giọng giễu cợt, mỉa mai: “ấy thế mà”, “đùng một cái”…
+ Sử dụng thành công giọng điệu nhiễu nhại, nghệ thuật phản bác ( Đoạn cuối phần II) . Dùng liên tiếp các câu hỏi để nêu lên các sự thực đập lại lời lẽ của bọn cầm quyền.
+ Kết hợp giọng khách quan và giọng trữ tình để tạo hiệu quả châm biếm.
* Đánh giá: Nghệ thuật trào phúng sâu cay kết hợp với ngòi bút lập luận sắc bén đã vạch trần được bản chất độc ác; bộ mặt giả nhân, giả nghĩa của bọn chính quyền thực dân đồng thời khắc họa được số phận đau khổ, bi thảm của người dân thuộc địa lúc bấy giờ.
 
Giá trị nhân đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh trong đoạn trích "Thuế Máu" trích "Bản án chế độ thực dân Pháp".

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một di sản vô giá, đó là tư tưởng của Người, trong đó có tư tưởng nhân đạo. Tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” được Người viết trong thời gian hoạt động cách mạng tại Pháp là một đòn chí mạng giáng vào chủ nghĩa thực dân. Trong đó đoạn trích “Thuế Máu” đã vạch rõ bộ mặt thật sự của quan cai trị Pháp với người bản xứ,đồng thời ở tác phẩm này đã thể hiện một cách rõ nét giá trị nhân đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thuế máu là cách gọi riêng của Nguyễn Ái Quốc nhằm phơi bày số phận thảm thương của người dân thuộc địa đồng thời thể hiện lòng căm phẫn, thái độ mỉa mai của tác giả đối với tội ác ghê tởm của chính quyền thực dân.Người dân thuộc địa phải gánh chịu nhiều thứ thuế bất công, vô lý song vào thứ thuế tàn nhẫn, phũ phàng nhất là bị bóc lột xương máu, mạng sống.Tư tưởng nhân đạo Hồ Chí Minh được biểu hiện vô cùng đa dạng và phong phú, nó thấm đậm trong từng câu văn sắt thép và toàn bộ cuộc đời lẫn sự nghiệp của Người.

Chủ tịch Hồ Chí Minh có lòng yêu thương vô hạn đối với con người, thông cảm sâu sắc với mọi đau khổ của con người, từ đó vạch trần tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân, đế quốc gây ra cho con người. Người yêu thương, cảm thông vô hạn,sâu sắc với mọi đau khổ của đồng bào, trong hành trình bôn ba năm châu bốn biển tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc mang lại hạnh phúc cho đồng bào, Người đồng thời không ngừng vạch trần, tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân,bọn thực dân chỉ xem người bản xứ chúng ta là "những tên An-nam-mít bẩn thỉu, giỏi lắm chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta". Vậy mà phút chốc họ lại được xem như những "đứa con yêu", những người "bạn hiền" những người bình thường bỗng dưng trở thành "chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do". Và chắc hẳn chúng ta đã biết số phận của họ ra sao rồi!họ phải rời bỏ quê hương của mình, đi làm bia đỡ đạn cho lính của nước mẹ, không những thế, họ còn chịu những cái chết vô nghĩa, tàn khốc, bi thảm.Đến đây,tấm lòng nhân đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh lại rực sáng.Người đã yêu thương dân tộc ta đến vậy,đã đau xót,tê tái khi phải chứng kiến cảnh dân tộc bị bóc lột đau thương đến vậy.Chắc hẳn trong lòng mỗi chúng ta không khỏi chạnh lòng khi cảm nhận được những câu văn thấm đẫm giá trị nhân đạo của Bác. Và cái giá của người bản xứ phải trả là một cuộc sống nô lệ.Nguyễn Ái Quốc đã dùng những con số biết nói rất cụ thể, cho ta thấy có rất nhiều người một đi không trở về: tổng cộng có bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp, và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa.Bàn về chủ nghĩa nhân đạo Hồ Chí Minh, Tiến sỹ Hồ Bá Thâm đã viết: “Dân tộc Việt Nam trong quá trình đấu tranh và xây dựng đã hình thành nên chủ nghĩa nhân văn Việt Nam. Và ngày nay đã phát triển lên đỉnh cao mới mà ở đó chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh .... Nó cũng là một cơ sở và nội dung chủ yếu của chủ nghĩa duy vật nhân văn”. Song song với những tội ác bọn thực dân chúng đã gây ra,chúng còn sẵn sàng "trói, xích, nhốt người ta như nhốt xúc vật, sẵn sàng đàn áp dã man nếu như có chống đối", và kết quả tất yếu là dân trốn tránh, phải xì tiền, thậm chí tự làm nhiễm bệnh. Và dân tộc ta cần có một hướng đi sáng suốt trong tương lai đó là cuộc đấu tranh chống nạn áp bức dân tộc,bất công xã hội, đấu tranh chống nghèo đói, lạc hậu, dốt nát, đấu tranh chống cường quyền, độc đoán, quan liêu để hướng tới độc lập tự do, ấm no hạnh phúc cho dân tộc và nhân dân.

Cuộc đời chủ tịch Hồ Chí Minh, một cuộc đời đấu tranh không mệt mỏi cho độc lập của dân tộc, cho tự do và hạnh phúc của nhân dân, cho sự giải phóng nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh truyền lại cho chúng ta một đạo lý làm người là phải biết yêu thương và sống với nhau có tình nghĩa. bằng tình thương và sự ứng xử của mình,Người đã cho ta thấy được từng việc làm, từng cử chỉ, từng mối quan tâm ân cần đối với mỗi con người; tất cả đều toát lên tình yêu thương, sự tôn trọng, thái độ bao dung và niềm tin vào khả năng cải tạo của con người, dù cho họ có nhất thời lầm lạc.
Khép lại đoạn trích "Thuế Máu",chắc hẳn trong mỗi người vẫn còn đọng lại bao nỗi xót xa cho những đau khổ của dân tộc ta và các nước thuộc địa từng nếm trải,và trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Người kêu gọi: “Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám Thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh”. Lời nhắn gửi đó đã mang lại một luồng gió mới, thu hút nhiều thanh niên Việt Nam yêu nước học tập theo tấm gương yêu nước,tận tụy của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đi theo con đường cách mạng đúng đắn sau này.Chính vì sự nghiệp đó, với tư cách là người suốt đời phấn đấu hy sinh và cùng nhân dân mình thực hiện từng bước mà được thế giới công nhận Người là Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa của thế giới."Thế giới còn đổi thay nhưng chủ nghĩa nhân đạo cách mạng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con đường cách mạng chúng ta đi”.

 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top