Thơ Nguyễn Trãi

Thandieu2

Thần Điêu
THƠ NGUYỄN TRÁI
Nguyễn Trãi: (1380 - 1442)
Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, người làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc (tức phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông). Năm 21 tuổi đỗ Thái học sinh (tiến sỹ) niên hiệu Thánh nguyên thứ 1 triều vua Hồ Quí Ly (1400). Làm quan đến chức Ngự sử đài chánh chưởng. Thân phụ là Nguyễn Phi Khanh, đỗ Bảng nhãn niên hiệu Long Khánh thứ 2 triều vua Trần Duệ tông (1374), vì cớ là hàn tộc mà lấy con gái Trần Nguyên Đán là tôn thất nhà Trần, theo phép nhà Trần không được bổ dụng.

Mãi đến triều nhà Hồ mới được dùng làm Trung thư thị lang. Khi quân Minh sang xâm lấn, hai cha con vua nhà Hồ bị bắt. Phi Khanh cũng bị giải về Tàu. Nguyễn Trãi khóc theo đến Nam quan. Phi Khanh ngoảnh lại bảo rằng: "Con về rửa hờn cho nước, báo thù cho cha, mới là người đại trung đại hiếu, không nên theo nhi nữ thường tình!" Nguyễn Trãi trở về đi theo Lê Thái Tổ khởi nghĩa ở Lam Sơn. Trong 10 năm kháng chiến với quân Minh, giúp vua Lê bằng mưu kế: phàm các văn thư từ trát giao thiệp với tướng nhà Minh, đều do một tay ông thảo thiện. Sau khi đã đánh đuổi ngoại xâm về Tàu, Nguyễn Trãi được phong tước Quan phục hầu, liệt vào hạng khai quốc công thần đệ nhất. Triều vua Lê Thái Tông được làm Nhập nội hành khiển (tức Tể tướng). Năm 60 tuổi, về trí sĩ tại Côn Sơn (thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Ba năm sau, vì án Nguyễn Thị Lộ, bị tru di tam tộc.

Sử chép: Niên hiệu đại bảo thứ 3 triều Lê Thái Tông (1442), nhà vua đi tuần phương đông, duyệt võ ở Chí Linh, Nguyễn Trãi đón xa giá đến chơi chùa Côn Sơn. Thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ, có tài sắc, được nhà vua vời. Khi xa giá đến vườn Lệ Chi (xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh) nhà vua bị bệnh sốt, Thị Lộ vào chầu suốt đêm rồi vua mất, ai nấy đều nói Thị Lộ thí nghịch, nên Nguyễn Trãi phải tội tru di. Năm ấy, Nguyễn Trãi 63 tuổi, có người thiếp đương có thai trốn được, sau sinh ra Nguyễn Ánh Vũ. Đời Lê Thánh Tông, Nguyễn Trãi được minh oan, truy tặng Tế văn hầu. Anh Vũ được bổ chức Tri châu.
 
CÚC

Người đua nhan sắc thủa xuân dương,

Nghỉ, chờ thu: cực lạ nhường!
Hoa nhan rằng đeo danh "ẩn dật",
Thức còn phô, bạn khách văn chương.
Tính tình nào đoái bề ong bướm,
Tiết muộn chẳng nài thủa tuyết sương.
Dầu thấy xuân lan cùng lọn được,
Ai ai đều có mỗ mùi hương.
 
TÙNG

Đống lương tài có mấy bằng mày,

Nhà cả đòi phen chống khỏe thay.
Cội rễ bền, dời chẳng động,
Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày.

Tuyết sương thấy đã đạng nhiều ngày,
Có thuốc trường sinh cành khỏe thay.
Hổ phách, phục linh nhìn mấy biết,
Dành, còn để trợ giúp dân này.
 
TRÚC

Hoa liễu chiều xuân cũng hữu tình,

Ưa mi vì bởi tiết mi thanh.
Đã từng có tiếng trong đời nữa,
Quân tử, ai chẳng mảng danh?

Danh quân tử, tiếng nhiều ngày,
Bảo khách tri âm mới biết hay.
Huống lại nhưng nhưng sinh biến tục,
Trượng phu tiết cứng khác người thay!
 
VÔ ĐỀ

Đã mấy thu nay để lề nhà,

Duyên nào đeo đẳng khó chăng tha.
Một thân lẩn quất đường khoa mục,
Hai chữ mơ màng việc quốc gia.
Tài liệt lạt nhiều nên kém bạn,
Người mòn mỏi hết, phúc còn ta.
Quân thân chưa báo, lòng canh cánh,
Tình phụ cơm trời áo cha.
 
HOA SEN

Lầm nhơ chẳng biến, tốt hòa thanh,

Quân tử ham, nhân được thửa danh.
Gió đưa hương đêm nguyệt tĩnh,
"Trinh" làm của, có ai tranh?
 
TỨC SỰ

Lấy biều phú quí đuổi biều nhàn,

Có kẻ thì chê, có kẻ khen.
Chốn ở trải gian lều lá,
Mùa qua chằm bức ao sen.
Hoa còn để động lam đất,
Cửa một đường cài lướt then.
Ai thấy rằng cười là thế thái,
Ghê thế biến bạc làm đen.

Giậu thưa thưa hai khóm cúc,
Giường thấp thấp một nồi hương.
Vượn chim kết bạn non nước quạnh,
Cầm sách cùng nhau ngày tháng trường.
Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh,
Áo bồ quen cật vận xênh xang.
Bốn dân nghiệp có cao cùng thấp,
Đều hết làm tôi thánh thượng hoàng.

Thư trai vắng vẻ, cảnh ngày trường,
Một quyển Hy kinh, một triện hương.
Tréo chân, nằm vườn Độc Lạc,
Dựng lều ở đất Nam Dương.
Hoa trang dùng thải, bầy chi phấn?
Thông xá bù trì mộng quyết lương,
Mã trách thế gian lòng đạm bạc,
Thế gian đạm bạc đấy lòng thường.
 
HOA MAI

Xuân đến nào hoa chẳng tốt tươi?

Yêu mi vì tiết sạch hơn người.
Gác Đông ắt đã từng làm khách,
Há những Bô Tiên kết bạn chơi?
 
HOA ĐÀO

Một đóa đ
ào hoa khéo tốt tươi,
Cách xuân mơn mởn thấy xuân cười.
Đông phong ắt có tình hay nữa,
Kín tiễn mùi hương dễ động người.
 
NGÔN TRÍ

Cỏ xanh cửa dưỡng để lòng nhân,

Trúc rợp hiên mai quét tục trần.
Nghiệp cũ thi thư hằng một chức,
Duyên xưa hương hỏa, tượng ba thân.
Nhan Uyên nước chứa bầu còn nguyệt,
Đổ Phu thơ nên bút có thần.
Nợ quân thân chưa báo được,
Hài hoa còn bện dặm thanh vân.
 
CÂY MÍA

Vườn xuân đầm ấm nắng tơ soi,

Áo tế hung hung thủa mặc thôi.
Ăn nước kìa ai được thú,
Lần từng đốt mới hay mùi.
 
HOA NHÀI

Mài son bén phấn hây hây,

Đêm nguyệt đưa xuân, một nguyệt hay.
Mấy kẻ hồng nhan thì bạc phận,
Hồng nhan kia chớ cậy mình thay.
 
CÂY CHUỐI

Tự bén hơi xuân, tốt lại thêm,

Đầy buồng lạ, màu thâu đêm.
Tình như một bức còn phong kín,
Gió nơi đâu gượng mở xem.
 
THỦ VĨ NGÂM

Góc thành Nam, lều một gian,

No nước uống, thiếu cơm ăn.
Con đòi trốn, dễ ai quyến,
Bầy ngựa gầy thiếu kẻ chăn.
Ao bởi hẹp hòi, khôn thả cá,
Nhà quen xuế xóa, ngại nuôi vằn.
Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải,
Góc thành Nam, lều một gian
 
TRĂNG TRONG NƯỚC

Nguyệt trong đáy nước, nguyệt trên không,

Xem ắt lầm một thức cùng.
Hải nhược chiết nên cành quế tử,
Giang phi chiếm được giấc thiềm cung.
Thu cao, thỏ ướm thăm lòng biển,
Vực lạnh, châu mừng thoát miệng rồng.
Điệu khiếp thiên nhan, chăng nỡ tiễn,
Lui thuyền lang đang ở trên dòng.
 
ĐẮC Ý ĐẦU XUÂN
(TẢO XUÂN ĐẮC Ý)


Đường tuyết, thông còn giá in,

Đã sai én ngọc lại cho nhìn.
Xuân chầy, liễu thấy chưa hay mặt,
Vườn kín, hoa truyền mới lọ tin.
Cành có tin thần, ong chửa thấy,
Tính quen khinh bạc, điệp chăng thìn.
Lạc dương, khách ắt thăm thinh nhọc,
Sá mạ cho ai quẩy đến biên.
 
BẠCH MAI

Giữa mùa đông, lỗi thức xuân,

Nam chi nở, cực thanh tân.
Trên cây khác ngỡ hồn Cô Dịch,
Đáy nước, ngờ là mặt Thái Chân.
Càng thủa già, càng cốt cách,
Một phen giá , một tinh thần.
Người cười rằng kém tài lương đống,
Thửa việc điều canh, bội mấy phần
 
THÍNH VŨ

Tịch mịch u trái lý,
Chung tiêu thính vũ thanh.
Tiêu hao kinh khách chẩm!
Điểm trích sổ tàn canh.
Cách trúc khao song mật,
Hoà chung nhập mộng thanh.
Ngâm dư hồn bất mị,
Đoạn tục đáo thanh minh.

Dịch Thơ:

NGHE MƯA

Tịch mịch phòng trai tối,
Suốt đêm nghe tiếng mưa.
Não nùng ghê gối khách,
Thánh thót điểm canh mờ.
Qua trúc khua bên cửa,
Hòa chuông vang trong mơ.
Ngâm rồi vẫn chẳng ngủ,
Đứt nối đến tinh mơ.

Xuân Diệu
 
KÝ HỮU

Bán sinh thế lộ thán truân chiên,
Vạn sự duy ưng phó lão thiên.
Thốn thiệt đãn tồn không tự tín,
Nhất hàn như cố diệc kham liên.
Quang âm thúc hốt thời nan tái,
Khách xá thê lương dạ tự niên.
Thập tải độc thư bần đáo cốt,
Bàn vô mục túc, tọa vô chiên.

Dịch Thơ:


GỬI BẠN

Truân chuyên từng ngán bước đường đời,
Muôn việc đành thôi phó mặc trời.
Tấc lưỡi còn đây thường tự tín,
Thân nghèo mãi thế đáng thương thôi.
Lạnh lùng khách xá đêm dài mấy,
Vùn vụt quang âm bóng xế rồi.
Đọc sách mười năm nghèo đến tuỷ,
Ăn không rau đậu, chẳng chiên ngồi.

Ngô Văn Triện
 
QUAN HẢI

Thung mộc trùng trùng hải lảng tiền,
Trầm giang thiết tỏa diệc đồ nhiên.
Phúc chu thủy tín dân do thủy,
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên.
Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật,
Anh hùng di hận kỉ thiên niên.
Kiền khôn kim cổ vô cùng y,
Khước tại thương lương viễn thụ yên.

Dịch Thơ:

CỬA BỂ

Lớp lớp cọc ngăn giữa sóng nhồi,
Thêm ngầm dây sắt- uổng công thôi.
Lật thuyền, thấm thía: dân như nước,
Cậy hiểm mong manh: mệnh ở trời.
Họa phúc có nguồn, đâu bỗng chốc?
Anh hùng để hận, dễ gì nguôi?
Xưa, nay, trời đất vô cùng ý,
Nơi sóng xanh cây khói tuyệt trời...

Hưởng Triều
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top