Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HÓA
Văn hóa Việt Nam
Thờ cúng tổ tiên
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Bút Nghiên" data-source="post: 21940" data-attributes="member: 699"><p><strong>III. Quan niệm phúc đức với gia tộc Việt Nam </strong></p><p></p><p> Cây xanh thì lá cũng xanh</p><p> Cha mẹ hiền lành để đức cho con .</p><p></p><p> Ở những buổi đầu đại gia đình sống quây quần vừa tiện cho việc sản xuất nông nghiệp, vừa để tự vệ chống cướp bóc và thú dữ cùng thiên tai . Xã hội nông nghiệp càng về sau tổ chức càng hoàn chỉnh, người ta đã tìm ra một triết lý hành động lấy cứu cánh là sự trường cửu của gia tộc. Việc hoạt động của cá nhân trong một gia tộc có liên quan mật thiết đến sự sống tinh thần của mọi thành viên trong gia tộc . Người ta muốn một cuộc sống miên trường ngoài đời người để theo kinh nghiệm sống mà quan niệm phúc đức được thành hình. Có người không tin vào phúc đức vì đó là một hiện tượng khó lý giải bằng lý trí. Nhưng việc may rủi mà ngày xưa người ta trông vào phúc đức ông bà cha mẹ, thì vẫn dùng lý luận trốn chạy thực tế rằng đó chỉ là sự tình cờ không do tính toán của con người . Những hên xui, may rủi không do con người tính toán hay nỗ lực mà đạt được thì người Việt chúng ta cho là do phúc đức ông bà phù hộ gặp may, lánh dữ. Chúng ta ngày nay dù có gạt ra ngoài nhận thức việc may rủi , nhưng không nhất thiết là nhận nó hoàn toàn không có. Hành động ấy cũng giống như con lạc đà vùi đầu vào trong cát để bảo rằng không có sư tử mà thôi . Không giải thích nhưng không cấm chúng ta tạo điều kiện để cho những điều may xảy đến và điều dở tránh đi, đó chính là việc vun trồng phúc đức :</p><p></p><p> Người trồng cây hạnh người chơi</p><p> Ta trồng cây đức để đời mai sau .</p><p></p><p> Lấy đức làm căn bản thì mọi thành phần trong gia tộc phải tu thân làm sao để cho phúc đức nhà mình được tròn và nó tỏ lộ ra ở những hoạt động gọi là ở hiền gặp lành. Ðôi khi chúng ta tránh né việc giải thích một số sự kiện xảy ra ngoài lý trí như những sự may rủi . Không hẳn lúc nào cũng là quả báo nhãn tiền để người ta góp đức như một hình thức đầu tư có lời; mà phần nhiều là phúc dày nhiều đời cho con cháu :đời cha ăn mặn, đời con khát nước. Một hành động cẩu thả ở đời này sẽ lưu lại hậu quả xấu cho đời sau với con cháu mình. Cũng bởi người Việt lấy cứu cánh là sự vinh mậu của gia tộc nên rất thận trọng khi hành động . Người ta có thể xoay quanh luật pháp để làm những điều ác mà luật pháp con người không trừng phạt được . Nhưng người ta không làm như thế vì sợ tổn âm đức . Người ta hình dung ra một luật lệ siêu hình là trời kia có mắt. Phải chăng đó là một hình thức siêu cấp hóa của lương tâm con người?</p><p></p><p> Ông Ðào Duy Anh trong khi viết về văn hoá Việt Nam đã nhận xét về nhân sinh quan lưu phúc cho đời sau: Người thì hoặc cho nhân loại tiến bộ vô cùng nên loài người cần phải ra sức phấn đấu, tiến thủ (như người Âu châu) hoặc cho nhân gian là mộng ảo, huyền ảnh, loài người không cần phải hành động làm gì (người Ấn Ðộ) hoặc cho nhân sinh là chốc lát (như bóng sổ, như gang tay) ta nên hành lạc kẻo già không kịp hối (như bọn khoái lạc chủ nghĩa) . Người Việt Nam thì có cái kiến giải tầm thường và chắc chắn hơn, chỉ trông cậy vào con cháu để lưu truyền nòi giống và tiếp nối sự nghiệp của tổ tông . Người ta đã có quan niệm ấy thì sở dĩ làm điều thiện ở đời, sở dĩ có lúc hy sinh, không phải cốt cầu vinh nhục ở lai sinh (như nhà Gia tô giáo), cũng không mong giải thoát khỏi vòng luân hồi (như Phật giáo) mà chỉ cốt lưu chút phúc ấm cho con cháu đời sau . Người có lòng ác cũng không sợ ngày thẩm phán cuối cùng hoặc là hình phạt ở Ðịa ngục mà chỉ sợ con cháu bị ác báo mà thôi . (7)</p><p></p><p> Thực sự thì Trung Hoa cũng có quan niệm về âm đức cuả gia tộc phổ biến ở đại chúng khiến cho những chủ thuyết Nho, Lão, Phật đã phải biến dạng khi muốn gia nhập hệ tư tưởng của người dân .</p><p></p><p> Việc so sánh để tìm ra ý niệm nguyên thủy của các tôn giáo trên ,chúng tôi thấy không là đối tượng của bài này, mà chỉ nêu lên tư tưởng chỉ đạo cho việc truyền tử lưu tôn là lợi ích và sở thích cá nhân phải đặt sau sự sống và danh dự của gia đình lưu truyền nhiều đời.</p><p></p><p> Nếu một quốc gia, một dân tộc có nhiều tộc họ hiền hậu, vinh quang thì hẳn dân tộc ấy cũng đáng gọi là có văn hiến .</p><p></p><p> Ðể gây phúc cho một gia tộc, ngoài việc làm tích cực của các thành viên trong gia tộc, còn có các tổ tiên đã khuất . Tích cực hơn là tín ngưỡng vào mồ mả của tổ tiên có ảnh hưởng đến cuộc sống của con cháu . Chỉ có xã hội đặt trên cơ sở lưu phúc nối dõi tông đường mới trân trọng về việc chọn đất an táng tổ tiên . Người ta tin rằngsống về mồ mả, không ai sống về cả bát cơm. Ở thời trước, tức là trước khi văn hoá Việt Nam bị Âu hoá, không ai thắc mắc về vấn đề mồ mả chôn theo phong thủy. Thậm chí luật pháp còn bảo vệ mồ mả và trừng phạt những người xâm phạm đến phần mộ của người khác.</p><p></p><p> Thật sự chúng ta có cần chứng minh tính xác thực của ảnh hưởng mồ mả trên cuộc sống của một gia tộc không? hay chỉ đặt nặng vấn đề ám thị và hỗ trợ của mồ mả trên hành vi luân lý và xã hội của người dân .Thế hệ đương thời dù đang gặp những chuyện không may, không xứng ý toại lòng, vẫn trông mong vào mạch đất nhà sẽ hồi lại hay kết phát mà thay đổi cuộc sống.</p><p></p><p> Ðành rằng có những hiện tượng tiêu cực trong việc chọn đất an táng mà không có kết quả gì, khiến có những lời chế diễu:</p><p></p><p> Hòn đất mà biết nói năng</p><p> Thì thầy địa lý hàm răng chẳng còn</p><p></p><p>nhưng việc tin tưởng vào sự kết phát của mồ mả tổ tiên khiến người ta trân trọng cuộc sống của gia tộc khi sống cũng như lúc chết, nó có khả năng khiến cho mọi thành phần trong gia tộc cư xử với nhau không phải bằng những luật lệ thành văn, mà bằng tình thương yêu nhau, không nỡ làm người thân của mình phật ý, buồn lòng vì những hành vi vị kỷ.</p><p></p><p> Bàn rộng ra về khía cạnh nghệ thuật, người bình dân Việt Nam thích đọc Truyện Kiều và đã tin tưởng một số nhân vật trong truyện thành thần có thể chỉ bảo cho điều họa phúc bằng cách bói Kiều . Người ta ngưởng mộ Kiều vì lòng hiếu thảo của Kiều đã đáp ứng đúng với tình cảm yêu mến và hy sinh cho gia đình .</p><p></p><p> Bán mình đã động hiếu tâm đến trời</p><p></p><p>chứ không phải thưởng thức câu văn hay như những người có học.</p><p></p><p> Cho nên tư tưởng xuyên suốt tổ chức gia tộc Việt Nam trong nền văn hoá dân tộc là chữ hiếu và thờ cúng để nối lấy âm đức của tổ tiên.</p><p></p><p><strong>IV. Ảnh hưởng của tục thờ cúng tổ tiên đến xã hội</strong></p><p></p><p> Những người ở đầu thế kỷ khi có khát khao Âu hoá đã chỉ nhìn ở khía cạnh tiêu cực của những cúng giỗ hay hiếu hỉ và cho là người Việt suy thoái vì những sự tin nhảm vào tổ tiên đã chết. Hơn thế nữa chịu ảnh hưởng nhiều của trào lưu lãng mạn Pháp, người ta thù ghét gia đình : Ôi! gia đình, ta thù mi cột chân cá nhân vào trong vòng tù ngục. Vì thế người ta đưa lý trí vào mổ xẻ một số phong tục tập quán của ta và thấy đâu cũng là lạc hậu. Thực ra cúng giỗ có gì là xấu xa, nhưng vin vào vấn đề vệ sinh để chỉ trích :</p><p></p><p> Khi sống thì chẳng cho ăn</p><p> Ðến khi giỗ tết làm văn cúng ruồi</p><p></p><p>vấn đề là trừ ruồi chứ không phải bỏ giỗ . Nếu xét về phương diện xã hội ,ta cần xem tác dụng của tục thờ cúng tổ tiên đến xã hội chứ không phải tìm cách giải thích và bài bác nó. Trong thực tế người ta đã bài bác, cấm đoán việc giỗ chạp mà cho đến nay chúng ta vẫn duy trì giỗ tết thờ cúng tổ tiên .(8)</p><p></p><p> Ở một xã hội định cư nông nghiệp thì tổ chức gia tộc quần cư là giải pháp thích hợp nhất vừa sản xuất vừa bảo vệ cuộc sống và tài sản . Chế độ này tận dụng được nguồn nhân lực ở mọi lứa tuổi và mọi thành phần trong gia đình đã được phân công theo khả năng tự nhiên .Nơi một nhà nông, đứa bé lên 6 cũng đã làm được công việc nhổ cỏ ,bắt sâu hay cho gà vịt ăn ,đỡ việc cho người lớn phải đảm nhiệm việc nặng nhọc.</p><p></p><p> Có người vin vào lý do xã hội kỹ nghệ hiện đại với những tập trung ở thành thị không cho phép sự hiện diện của đại gia đình, do đó việc gia đình phân tán và liên kết lỏng lẻo là quy luật tất yếu . Gia dình đã không còn sinh hoạt chung ít ra là 3 đời thì nói gì đến họ hàng.</p><p></p><p> Vấn đề đáng nói ở đây là không phải tổ chức gia tộc quyết định hoàn toàn tinh thần họ hàng . Các gia đình nhỏ họp lại thành một gia tộc hoàn toàn do nhờ ở sợi dây tình họ hàng liên kết. Ở thời trước không ai thắc mắc hay hoài nghi về tình thân gia tộc này . Người ta không mất công lý luận để xác nhận sự hiện diện của nó; mà chỉ bằng quan sát và chiêm nghiệm thường ngày để thấy rằng về phương diện vật chất các người trong gia đình có giống nhau về diện mạo và dáng dấp . Ðó là vấn đề di truyền mà ngày nay khoa học đã phát triển lên rất cao . Nhưng còn vấn đề tính tình và phúc đức mà con cháu thừa hưởng được của ông bà tổ tiên thì khó nhận diện được . </p><p> </p><p> Nói rằng bố mẹ sinh con, Giời sinh tính là nhìn nhận rằng con người mang cá tính riêng và do cá tính ấy mà sẽ tạo ra phúc hay họa cho đời mình và cho mai sau. Như thế con người không hoàn toàn là một khuôn đúc của di truyền. Cá tính ấy được phát triển trong gia đình như một xã hội nhỏ để khi vào đời cũng phải hành xử với thân tình như trong gia đình thì xã hội mới trở thành một cộng đồng nhân bản, lấy tình nghĩa làm phương châm hành động.</p><p></p><p> Thờ cúng tổ tiên không có nghĩa là chỉ cúng mấy ngày giỗ, mà chính là biểu hiện việc phụng sự tổ tiên như các vị linh hiển ở trước mặt. Ngay cả việc thờ anh hùng và nhân thần như Hai Bà Trưng, Trần Hưng Ðạo (giỗ cha) cũng không mang ý nghĩa hời hợt như một số các nhà Tây học sau này nói là nhớ đến công nghiệp mà kính trọng giống như Tây làm tượng Napoléon hay Victor Hugo để kỷ niệm... Thờ cúng tổ tiên của ta chính là tạo một hoàn cảnh, một không khí cho những người sống với những vong hồn tổ tiên gặp gỡ, sinh hoạt như lúc còn sinh thời.</p><p></p><p> Xin đơn cử một thí dụ mà các nhà tân học phê phán vì không nhận được thông đạt của văn hóa cổ . Ông Vũ Ngọc Phan trong bài phê bình cuốn tiểu thuyết Lá ngọc cành vàng của Nguyễn Công Hoan đã viết một đoạn bày tỏ hoàn toàn ý tưởng xa lìa văn hóa Việt Nam này: . . . Ông Phủ là một người rất cổ hủ, điều đó, tác giả đã cho người ta thấy rồi, nhưng giữa thế kỷ 20 này, làm gì còn có người khấn ông vải về để trừng trị em. </p><p></p><p>Ông Phủ lấy cái khăn bàn phủ lên lò sưởi và đặt hai cây nến đồng hai bên; rồi cung kính, ông bưng cái ảnh cụ cố, đặt ngay ngắn vào giữa.</p><p></p><p> Rồi ông giải chiếc chiếu trước chỗ thờ; ông đứng nghiêm trang, chắp tay đoạn thụp xuống lễ bốn lễ, rồi quỳ, suỵt soạt khấn . . .</p><p></p><p> Cả nhà im lặng . Ông Tham mặt cắt không được hột máu, rất lo sợ . Ông biết rằng vì anh quá khắc, nên mới sửa phạt ông bằng cách khấn các cụ về để trừng trị ông là đứa con vô phúc.</p><p></p><p> Ông Phủ đứng cạnh chỗ thờ, nghiêm chỉnh nói giọng dõng dạc như giọng quan toà:</p><p></p><p>- Tội chú đáng đánh đòn . Nhưng anh nghĩ thương cho chú đã lớn, và đã là ông nọ ông kia, nên anh trình các cụ tha cho chú. Vậy chú vào lễ tạ các cụ, rồi nằm xuống đây.</p><p></p><p> Ông Tham rưng rưng nước mắt, vào lễ tạ bốn lễ . . . Ðoạn ông Phủ nói:</p><p></p><p>- Bây giờ chú chịu tội đi.</p><p></p><p>Lập tức ông Tham nằm sấp trên chiếu, duỗi thẳng cẳng, gục đầu xuống gác . Ông Phử lấy chiếc ba-tơng, nâng hai tay, quay về phía thờ, vái dài một cái, rồi để ở ngang mông em . Rồi ông đứng cạnh bàn thờ, nhìn ông Tham mà diễn thuyết (Lá ngọc cành vàng , trg 114,115 và 116)</p><p></p><p> Ðó là cảnh đại khôi hài . Nếu ông Phủ gàn dở đến thế, thì ông Tham là một người tân học và có nhiều lương tri, như tác giả đã viết, lẽ nào lại mặt cắt không được hột máu và rất lo sợ, rồi cái ông tân học ấy lại rưng rưng nước mắt, lại nằm sấp trên chiếu nữa . Thì ra ông Tham người có óc tân tiến, đã biết theo lời thầy thuốc Tây để chữa cho Nga, đã dám đưa cả Chi là người yêu của Nga vào dỗ dành Nga cho Nga khỏi bệnh, mà lại sợ cụ cố đã qua đời từ lâu đánh như thế ru? (9)</p><p></p><p> Ðiều mà Vủ Ngọc Phan coi là khôi hài thì xã hội cũ ta coi là nghiêm túc. Ðừng nhầm người Việt có óc mê tín dị đoan, không logic, Trái lại ai cũng biết người chết hóa ra ma thì làm sao hành động như người sống. Tin ở sự hiện diện để trở thành một ám thị khiến cơ sở luân lý mang tính chất siêu hình có nhiều hiệu quả đối với con người hơn là chỉ dựa vào một vài giới luật của trần gian. Người ta có thể xoay quanh luật để đạt ước muốn, nhưng không thể xoay quanh đức tin để làm bậy được.</p><p></p><p> Bất cứ việc hiếu hỉ, sinh hoạt nào mà người ta thấy là có tầm quan trọng thì đều nhang đèn bàn thờ gia tiên để cầu cúng . Lễ vật có khi chỉ là hoa quả trong vườn nhà, tùy gia phong kiệm, tổ tiên không bao giờ đòi hỏi (người ta nghĩ và tin là thế) mâm cao cỗ đầy . Anh khóa đi thi, cáo với tổ tiên. May ra mà thi đỗ thì lễ tổ để tạ ơn đã phù hộ cho anh vào trường thi lanh lợi. Việc nhà gặp rắc rối, cũng lễ tổ để cầu phù hộ độ trì. Ai cũng nghĩ rằng tổ tiên linh thiêng chỉ làm việc phải lẽ . Nền luân lý có tính siêu hình ấy làm cho gia đình trở thành một môi trường dạy luân lý rất tốt . Theo Leopold Cadiere thì : Xét như nhà giáo dục luân lý, gia đình từng có nhiều phẩm chất mà học đường hiện đại không có được . Trong gia đình, trẻ được ấp ủ yêu thương, kiềm chế bởi lòng tôn kính, chịu ảnh hưởng tôn giáo của ông bà; người sống kẻ chết liên kết với nhau để khắc sâu vào tâm trí nó các nguyên tắc đạo đức mà kinh nghiệm cá nhân cũng như các tác giả có học đã ban cho nó . Về sau, cũng chính ảnh hưởng giáo hóa ấy của gia đình góp cho nó đem thực hành trong đời sống những nguyên tắc người ta đã từng tin vào nó khi còn trẻ.</p><p></p><p> Ảnh hưởng ấy của gia đình rất hiển nhiên, rất thực hữu, đến nỗi ngay khi người Annam thoát ra ngoài, thì phẩm hạnh anh ta liền bị ảnh hưởng.(10)</p><p></p><p> Sống thành gia dình là bản chất của con người vừa có tính chất bẩm sinh vừa phổ quát. Ngay trong thời đại kỹ nghệ gia đình thu nhỏ lại vừa vì lý do kiểm soát sinh sản sợ nạn nhân mãn, vừa vì sinh hoạt và tổ chức xã hội không cưu mang nổi một đại gia đình quá đông nhân số . Tuy nhiên điều tha thiết của đại đa số vẫn là có một gia đình với con cái.</p><p></p><p> Ở xã hội cũ khi mà vấn đề an sinh xã hội chưa được tổ chức chu đáo, thì cách đảm bảo cho lúc về già, khi sức khoẻ suy yếu không còn làm việc sản xuất được là trông cậy vào con cái : trẻ cậy cha, già cậy con. Ngày nay ở những nước mà chế độ an sinh xã hội tốt, vấn đề trợ cấp tuổi già không phải lo nữa. Tuy nhiên người ta vẫn cứ thích có con cái, gia đình cho vui vẻ. Những người ghét bỏ gia đình vẫn bị coi là có phần trái với thiên tính. Người ta khó tưởng tượng được sự bất ổn nếu xã hội được xây dựng toàn bằng những cá nhân nam và nữ.</p><p></p><p> Ngày nay người ta nói nhiều đến khủng hoảng của gia đình và luân lý xuống dốc, con cái thoát ly cha mẹ để sống cuộc sống riêng cho được tự do làm theo sở thích, dù rằng hiện tại trong gia đình cũng không còn ngăn cấm như xưa . Gia đình hiện tại nhìn như một môi trường sống của những cá nhân biệt lập về ý tưởng và tình cảm . Giáo dục gia đình trở nên không kiến hiệu khi gia đình đã mất nền nếp và kỷ luật. Ở gia đình bình thường còn thế, đến những gia đình có vấn đề lục đục vợ chồng thì cuộc sống càng dễ trở nên địa ngục, khiến đứa trẻ mong cho chóng lớn để thoát nơi ấy.</p><p></p><p>Một gia đình đúng nghĩa là môi trường tốt cho việc nuôi dưỡng cả vật chất lẫn tinh thần của đứa trẻ phải có tình cảm gia đình và cả phần luân lý siêu hình khiến cho cá nhân không tìm thấy đâu là chốn yên ổn thoải mái cho tình cảm, một mục đích để phấn đấu mà không tìm thấy ở bất cứ chốn nào kể cả đức tin tôn giáo.</p><p></p><p> Việc đánh mất lòng tin vào gia đình phải kể là từ khi người ta vì mục đích chính trị, phương tiện nào cũng tốt miễn là đạt mục dích, nên đã dùng con trẻ trong gia đình theo dõi và tố cáo cha mẹ. Việc có thành lúc ấy, nhưng không ngờ di lụy về sau. Xã hội không tin nhau được thì còn gia đình. Thiên tính gia đình vẫn tồn tại, để đến một lúc nào đó chính trị thay đổi, thì tổ chức gia đình lại được phục hồi với tình thương yêu như xưa.</p><p></p><p> Ở những nước phương Tây, tình trạng khủng hoảng gia đình vẫn là một vấn đề ưu tư hàng đầu về phương diện xã hội.Càng ngày càng có nhiều trẻ sớm thoát ly gia đình, những vụ ly dị hay tội ác chết người gây ra do gia đình lục đục. Pháp luật tỏ ra không hữu hiệu trong việc ngăn ngừa tội ác. Nói thế không phải là đổ lỗi cho pháp luật quá nhẹ tay trong việc trừng phạt kẻ phạm tội. Vấn đề là làm sao cho những mâu thuẫn, những xáo trộn trong gia đình đừng xảy ra; hay nếu có xảy ra thì cũng dễ tìm được phương án ôn hòa và hữu hiệu để giải quyết.</p><p></p><p> Trong một xã hội lấy cá nhân làm bản vị thì danh dự cá nhân là căn bản cho người ta phấn đấu giữ gìn. Người ta thà mất tính mệnh hơn là mất danh dự. Các phần tử trong một gia đình cũng cư xử trong việc tôn trọng danh dự riêng của cá nhân. Người Việt khi sống với xã hội Úc thấy con cái xa dần mình và cái gọi là mái ấm gia đình không còn nữa, theo thời gian nó như một quán trọ. Có người đổ lỗi vì an sinh xã hội của Úc tốt quá khiến con trẻ chỉ mới bước vào tuổi vị thành niên thôi cũng đã có thể xin trợ cấp để sống tự lập theo sở thích. Nếu họ có sống chung thì cũng chẳng còn giữ được cái tình, cái nghĩa hay là bổn phận như xưa. Sự thực thì nếu không nhờ trợ cấp xã hội, tình trạng còn thê thảm hơn cho trẻ khi chúng được giáo dục đào tạo cho tinh thần chỉ biết vun quén cho cá nhân . Ngay cả việc hôn nhân cũng đặt nặng ở vấn đề tạo hạnh phúc cho đôi lứa về vật chất và tinh thần trên căn bản cá nhân, để một lúc nào đó cuộc sống chung không còn hứng thú nữa thì hai cá nhân lại tách ra đi tìm hạnh phúc khác.</p><p></p><p> Trong một đại gia đình ngày xưa thì đạo hiếu thay thế cho hạnh phúc cá nhân. Danh dự cá nhân phải hòa đồng với danh dự của gia tộc . Nếu có tiêu cực một người làm quan cả họ được nhờ kéo bè kéo đảng thì cũng có phần tích cực là các thành phần trong gia tộc phải làm sao cho họ mình tốt đẹp hơn họ khác; ngày xưa thì mức cao nhất ngoài đấng Thiên tử ra là thi đỗ làm quan to, nức tiếng thanh liêm.</p><p></p><p> Ngày trước có người Pháp mai mỉa nói rằng;trong mỗi người Annam đều có một ông quan. Làm như xã hội ta là một xã hội trọng quan. Thực ra đó là một xã hội nhân bản trọng văn hóa. Người mà thi đỗ đại khoa để được ra làm quan là đã học tập tu dưỡng đạo làm người kết hợp thành việc tôn trọng danh dự gia tộc và danh dự quốc gia tiêu biểu là tổ tiên và nòi giống. Ðiều này khiến ta hiểu trong bài Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi đã thay lời Lê Lợi để nói đến công đức của tổ tiên trong việc diệt được quân Minh, thu hồi độc lập cho tổ quốc : Nền vạn thế xây nên chăn chắn, thẹn nghìn thu rửa sạch làu làu. Thế là nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng che chở giúp đỡ cho nước ta vậy. (11)</p><p></p><p> Trên con đường duy tân cho nước nhà lạc hậu ở cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20 thật tình chúng ta không thấy được viễn tượng thay đổi của xã hội cũng như đâu là căn do chính đưa đến sự yếu kém về văn minh. Tưởng rằng ta cứ học được văn minh khoa học Thái tây là đưa nước nhà đến hùng cường. Trong việc phá hoại cái cũ quan trọng nhất là không tìm hiểu về phương diện xã hội của tục thờ cúng tổ tiên mà chỉ bài bác những khía cạnh tiêu cực của nó như là tốn kém, ganh tị trong họ hàng mà không nghĩ rằng nó tạo ra một ám thị để củng cố danh dự chung của một tập thể cùng chung huyết thống, rồi từ đó nâng lên cao là danh dự của cả dân tộc.</p><p></p><p> Trở về được ý nghĩa đích thực của tục thờ cúng tổ tiên thì ta thấy ngay lúc này dù đang ở giữa một xã hội lấy cá nhân làm căn bản như Tây phương, việc tạo lại niềm tin và danh dự đại gia đình bằng những ngày cúng giỗ tổ tiên cho con cháu nhận ra huyết thống và dòng giõi của mình cũng không phải là là chuyện lố bịch và không thể làm được.</p><p></p><p>(Sưu tầm)</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Bút Nghiên, post: 21940, member: 699"] [B]III. Quan niệm phúc đức với gia tộc Việt Nam [/B] Cây xanh thì lá cũng xanh Cha mẹ hiền lành để đức cho con . Ở những buổi đầu đại gia đình sống quây quần vừa tiện cho việc sản xuất nông nghiệp, vừa để tự vệ chống cướp bóc và thú dữ cùng thiên tai . Xã hội nông nghiệp càng về sau tổ chức càng hoàn chỉnh, người ta đã tìm ra một triết lý hành động lấy cứu cánh là sự trường cửu của gia tộc. Việc hoạt động của cá nhân trong một gia tộc có liên quan mật thiết đến sự sống tinh thần của mọi thành viên trong gia tộc . Người ta muốn một cuộc sống miên trường ngoài đời người để theo kinh nghiệm sống mà quan niệm phúc đức được thành hình. Có người không tin vào phúc đức vì đó là một hiện tượng khó lý giải bằng lý trí. Nhưng việc may rủi mà ngày xưa người ta trông vào phúc đức ông bà cha mẹ, thì vẫn dùng lý luận trốn chạy thực tế rằng đó chỉ là sự tình cờ không do tính toán của con người . Những hên xui, may rủi không do con người tính toán hay nỗ lực mà đạt được thì người Việt chúng ta cho là do phúc đức ông bà phù hộ gặp may, lánh dữ. Chúng ta ngày nay dù có gạt ra ngoài nhận thức việc may rủi , nhưng không nhất thiết là nhận nó hoàn toàn không có. Hành động ấy cũng giống như con lạc đà vùi đầu vào trong cát để bảo rằng không có sư tử mà thôi . Không giải thích nhưng không cấm chúng ta tạo điều kiện để cho những điều may xảy đến và điều dở tránh đi, đó chính là việc vun trồng phúc đức : Người trồng cây hạnh người chơi Ta trồng cây đức để đời mai sau . Lấy đức làm căn bản thì mọi thành phần trong gia tộc phải tu thân làm sao để cho phúc đức nhà mình được tròn và nó tỏ lộ ra ở những hoạt động gọi là ở hiền gặp lành. Ðôi khi chúng ta tránh né việc giải thích một số sự kiện xảy ra ngoài lý trí như những sự may rủi . Không hẳn lúc nào cũng là quả báo nhãn tiền để người ta góp đức như một hình thức đầu tư có lời; mà phần nhiều là phúc dày nhiều đời cho con cháu :đời cha ăn mặn, đời con khát nước. Một hành động cẩu thả ở đời này sẽ lưu lại hậu quả xấu cho đời sau với con cháu mình. Cũng bởi người Việt lấy cứu cánh là sự vinh mậu của gia tộc nên rất thận trọng khi hành động . Người ta có thể xoay quanh luật pháp để làm những điều ác mà luật pháp con người không trừng phạt được . Nhưng người ta không làm như thế vì sợ tổn âm đức . Người ta hình dung ra một luật lệ siêu hình là trời kia có mắt. Phải chăng đó là một hình thức siêu cấp hóa của lương tâm con người? Ông Ðào Duy Anh trong khi viết về văn hoá Việt Nam đã nhận xét về nhân sinh quan lưu phúc cho đời sau: Người thì hoặc cho nhân loại tiến bộ vô cùng nên loài người cần phải ra sức phấn đấu, tiến thủ (như người Âu châu) hoặc cho nhân gian là mộng ảo, huyền ảnh, loài người không cần phải hành động làm gì (người Ấn Ðộ) hoặc cho nhân sinh là chốc lát (như bóng sổ, như gang tay) ta nên hành lạc kẻo già không kịp hối (như bọn khoái lạc chủ nghĩa) . Người Việt Nam thì có cái kiến giải tầm thường và chắc chắn hơn, chỉ trông cậy vào con cháu để lưu truyền nòi giống và tiếp nối sự nghiệp của tổ tông . Người ta đã có quan niệm ấy thì sở dĩ làm điều thiện ở đời, sở dĩ có lúc hy sinh, không phải cốt cầu vinh nhục ở lai sinh (như nhà Gia tô giáo), cũng không mong giải thoát khỏi vòng luân hồi (như Phật giáo) mà chỉ cốt lưu chút phúc ấm cho con cháu đời sau . Người có lòng ác cũng không sợ ngày thẩm phán cuối cùng hoặc là hình phạt ở Ðịa ngục mà chỉ sợ con cháu bị ác báo mà thôi . (7) Thực sự thì Trung Hoa cũng có quan niệm về âm đức cuả gia tộc phổ biến ở đại chúng khiến cho những chủ thuyết Nho, Lão, Phật đã phải biến dạng khi muốn gia nhập hệ tư tưởng của người dân . Việc so sánh để tìm ra ý niệm nguyên thủy của các tôn giáo trên ,chúng tôi thấy không là đối tượng của bài này, mà chỉ nêu lên tư tưởng chỉ đạo cho việc truyền tử lưu tôn là lợi ích và sở thích cá nhân phải đặt sau sự sống và danh dự của gia đình lưu truyền nhiều đời. Nếu một quốc gia, một dân tộc có nhiều tộc họ hiền hậu, vinh quang thì hẳn dân tộc ấy cũng đáng gọi là có văn hiến . Ðể gây phúc cho một gia tộc, ngoài việc làm tích cực của các thành viên trong gia tộc, còn có các tổ tiên đã khuất . Tích cực hơn là tín ngưỡng vào mồ mả của tổ tiên có ảnh hưởng đến cuộc sống của con cháu . Chỉ có xã hội đặt trên cơ sở lưu phúc nối dõi tông đường mới trân trọng về việc chọn đất an táng tổ tiên . Người ta tin rằngsống về mồ mả, không ai sống về cả bát cơm. Ở thời trước, tức là trước khi văn hoá Việt Nam bị Âu hoá, không ai thắc mắc về vấn đề mồ mả chôn theo phong thủy. Thậm chí luật pháp còn bảo vệ mồ mả và trừng phạt những người xâm phạm đến phần mộ của người khác. Thật sự chúng ta có cần chứng minh tính xác thực của ảnh hưởng mồ mả trên cuộc sống của một gia tộc không? hay chỉ đặt nặng vấn đề ám thị và hỗ trợ của mồ mả trên hành vi luân lý và xã hội của người dân .Thế hệ đương thời dù đang gặp những chuyện không may, không xứng ý toại lòng, vẫn trông mong vào mạch đất nhà sẽ hồi lại hay kết phát mà thay đổi cuộc sống. Ðành rằng có những hiện tượng tiêu cực trong việc chọn đất an táng mà không có kết quả gì, khiến có những lời chế diễu: Hòn đất mà biết nói năng Thì thầy địa lý hàm răng chẳng còn nhưng việc tin tưởng vào sự kết phát của mồ mả tổ tiên khiến người ta trân trọng cuộc sống của gia tộc khi sống cũng như lúc chết, nó có khả năng khiến cho mọi thành phần trong gia tộc cư xử với nhau không phải bằng những luật lệ thành văn, mà bằng tình thương yêu nhau, không nỡ làm người thân của mình phật ý, buồn lòng vì những hành vi vị kỷ. Bàn rộng ra về khía cạnh nghệ thuật, người bình dân Việt Nam thích đọc Truyện Kiều và đã tin tưởng một số nhân vật trong truyện thành thần có thể chỉ bảo cho điều họa phúc bằng cách bói Kiều . Người ta ngưởng mộ Kiều vì lòng hiếu thảo của Kiều đã đáp ứng đúng với tình cảm yêu mến và hy sinh cho gia đình . Bán mình đã động hiếu tâm đến trời chứ không phải thưởng thức câu văn hay như những người có học. Cho nên tư tưởng xuyên suốt tổ chức gia tộc Việt Nam trong nền văn hoá dân tộc là chữ hiếu và thờ cúng để nối lấy âm đức của tổ tiên. [B]IV. Ảnh hưởng của tục thờ cúng tổ tiên đến xã hội[/B] Những người ở đầu thế kỷ khi có khát khao Âu hoá đã chỉ nhìn ở khía cạnh tiêu cực của những cúng giỗ hay hiếu hỉ và cho là người Việt suy thoái vì những sự tin nhảm vào tổ tiên đã chết. Hơn thế nữa chịu ảnh hưởng nhiều của trào lưu lãng mạn Pháp, người ta thù ghét gia đình : Ôi! gia đình, ta thù mi cột chân cá nhân vào trong vòng tù ngục. Vì thế người ta đưa lý trí vào mổ xẻ một số phong tục tập quán của ta và thấy đâu cũng là lạc hậu. Thực ra cúng giỗ có gì là xấu xa, nhưng vin vào vấn đề vệ sinh để chỉ trích : Khi sống thì chẳng cho ăn Ðến khi giỗ tết làm văn cúng ruồi vấn đề là trừ ruồi chứ không phải bỏ giỗ . Nếu xét về phương diện xã hội ,ta cần xem tác dụng của tục thờ cúng tổ tiên đến xã hội chứ không phải tìm cách giải thích và bài bác nó. Trong thực tế người ta đã bài bác, cấm đoán việc giỗ chạp mà cho đến nay chúng ta vẫn duy trì giỗ tết thờ cúng tổ tiên .(8) Ở một xã hội định cư nông nghiệp thì tổ chức gia tộc quần cư là giải pháp thích hợp nhất vừa sản xuất vừa bảo vệ cuộc sống và tài sản . Chế độ này tận dụng được nguồn nhân lực ở mọi lứa tuổi và mọi thành phần trong gia đình đã được phân công theo khả năng tự nhiên .Nơi một nhà nông, đứa bé lên 6 cũng đã làm được công việc nhổ cỏ ,bắt sâu hay cho gà vịt ăn ,đỡ việc cho người lớn phải đảm nhiệm việc nặng nhọc. Có người vin vào lý do xã hội kỹ nghệ hiện đại với những tập trung ở thành thị không cho phép sự hiện diện của đại gia đình, do đó việc gia đình phân tán và liên kết lỏng lẻo là quy luật tất yếu . Gia dình đã không còn sinh hoạt chung ít ra là 3 đời thì nói gì đến họ hàng. Vấn đề đáng nói ở đây là không phải tổ chức gia tộc quyết định hoàn toàn tinh thần họ hàng . Các gia đình nhỏ họp lại thành một gia tộc hoàn toàn do nhờ ở sợi dây tình họ hàng liên kết. Ở thời trước không ai thắc mắc hay hoài nghi về tình thân gia tộc này . Người ta không mất công lý luận để xác nhận sự hiện diện của nó; mà chỉ bằng quan sát và chiêm nghiệm thường ngày để thấy rằng về phương diện vật chất các người trong gia đình có giống nhau về diện mạo và dáng dấp . Ðó là vấn đề di truyền mà ngày nay khoa học đã phát triển lên rất cao . Nhưng còn vấn đề tính tình và phúc đức mà con cháu thừa hưởng được của ông bà tổ tiên thì khó nhận diện được . Nói rằng bố mẹ sinh con, Giời sinh tính là nhìn nhận rằng con người mang cá tính riêng và do cá tính ấy mà sẽ tạo ra phúc hay họa cho đời mình và cho mai sau. Như thế con người không hoàn toàn là một khuôn đúc của di truyền. Cá tính ấy được phát triển trong gia đình như một xã hội nhỏ để khi vào đời cũng phải hành xử với thân tình như trong gia đình thì xã hội mới trở thành một cộng đồng nhân bản, lấy tình nghĩa làm phương châm hành động. Thờ cúng tổ tiên không có nghĩa là chỉ cúng mấy ngày giỗ, mà chính là biểu hiện việc phụng sự tổ tiên như các vị linh hiển ở trước mặt. Ngay cả việc thờ anh hùng và nhân thần như Hai Bà Trưng, Trần Hưng Ðạo (giỗ cha) cũng không mang ý nghĩa hời hợt như một số các nhà Tây học sau này nói là nhớ đến công nghiệp mà kính trọng giống như Tây làm tượng Napoléon hay Victor Hugo để kỷ niệm... Thờ cúng tổ tiên của ta chính là tạo một hoàn cảnh, một không khí cho những người sống với những vong hồn tổ tiên gặp gỡ, sinh hoạt như lúc còn sinh thời. Xin đơn cử một thí dụ mà các nhà tân học phê phán vì không nhận được thông đạt của văn hóa cổ . Ông Vũ Ngọc Phan trong bài phê bình cuốn tiểu thuyết Lá ngọc cành vàng của Nguyễn Công Hoan đã viết một đoạn bày tỏ hoàn toàn ý tưởng xa lìa văn hóa Việt Nam này: . . . Ông Phủ là một người rất cổ hủ, điều đó, tác giả đã cho người ta thấy rồi, nhưng giữa thế kỷ 20 này, làm gì còn có người khấn ông vải về để trừng trị em. Ông Phủ lấy cái khăn bàn phủ lên lò sưởi và đặt hai cây nến đồng hai bên; rồi cung kính, ông bưng cái ảnh cụ cố, đặt ngay ngắn vào giữa. Rồi ông giải chiếc chiếu trước chỗ thờ; ông đứng nghiêm trang, chắp tay đoạn thụp xuống lễ bốn lễ, rồi quỳ, suỵt soạt khấn . . . Cả nhà im lặng . Ông Tham mặt cắt không được hột máu, rất lo sợ . Ông biết rằng vì anh quá khắc, nên mới sửa phạt ông bằng cách khấn các cụ về để trừng trị ông là đứa con vô phúc. Ông Phủ đứng cạnh chỗ thờ, nghiêm chỉnh nói giọng dõng dạc như giọng quan toà: - Tội chú đáng đánh đòn . Nhưng anh nghĩ thương cho chú đã lớn, và đã là ông nọ ông kia, nên anh trình các cụ tha cho chú. Vậy chú vào lễ tạ các cụ, rồi nằm xuống đây. Ông Tham rưng rưng nước mắt, vào lễ tạ bốn lễ . . . Ðoạn ông Phủ nói: - Bây giờ chú chịu tội đi. Lập tức ông Tham nằm sấp trên chiếu, duỗi thẳng cẳng, gục đầu xuống gác . Ông Phử lấy chiếc ba-tơng, nâng hai tay, quay về phía thờ, vái dài một cái, rồi để ở ngang mông em . Rồi ông đứng cạnh bàn thờ, nhìn ông Tham mà diễn thuyết (Lá ngọc cành vàng , trg 114,115 và 116) Ðó là cảnh đại khôi hài . Nếu ông Phủ gàn dở đến thế, thì ông Tham là một người tân học và có nhiều lương tri, như tác giả đã viết, lẽ nào lại mặt cắt không được hột máu và rất lo sợ, rồi cái ông tân học ấy lại rưng rưng nước mắt, lại nằm sấp trên chiếu nữa . Thì ra ông Tham người có óc tân tiến, đã biết theo lời thầy thuốc Tây để chữa cho Nga, đã dám đưa cả Chi là người yêu của Nga vào dỗ dành Nga cho Nga khỏi bệnh, mà lại sợ cụ cố đã qua đời từ lâu đánh như thế ru? (9) Ðiều mà Vủ Ngọc Phan coi là khôi hài thì xã hội cũ ta coi là nghiêm túc. Ðừng nhầm người Việt có óc mê tín dị đoan, không logic, Trái lại ai cũng biết người chết hóa ra ma thì làm sao hành động như người sống. Tin ở sự hiện diện để trở thành một ám thị khiến cơ sở luân lý mang tính chất siêu hình có nhiều hiệu quả đối với con người hơn là chỉ dựa vào một vài giới luật của trần gian. Người ta có thể xoay quanh luật để đạt ước muốn, nhưng không thể xoay quanh đức tin để làm bậy được. Bất cứ việc hiếu hỉ, sinh hoạt nào mà người ta thấy là có tầm quan trọng thì đều nhang đèn bàn thờ gia tiên để cầu cúng . Lễ vật có khi chỉ là hoa quả trong vườn nhà, tùy gia phong kiệm, tổ tiên không bao giờ đòi hỏi (người ta nghĩ và tin là thế) mâm cao cỗ đầy . Anh khóa đi thi, cáo với tổ tiên. May ra mà thi đỗ thì lễ tổ để tạ ơn đã phù hộ cho anh vào trường thi lanh lợi. Việc nhà gặp rắc rối, cũng lễ tổ để cầu phù hộ độ trì. Ai cũng nghĩ rằng tổ tiên linh thiêng chỉ làm việc phải lẽ . Nền luân lý có tính siêu hình ấy làm cho gia đình trở thành một môi trường dạy luân lý rất tốt . Theo Leopold Cadiere thì : Xét như nhà giáo dục luân lý, gia đình từng có nhiều phẩm chất mà học đường hiện đại không có được . Trong gia đình, trẻ được ấp ủ yêu thương, kiềm chế bởi lòng tôn kính, chịu ảnh hưởng tôn giáo của ông bà; người sống kẻ chết liên kết với nhau để khắc sâu vào tâm trí nó các nguyên tắc đạo đức mà kinh nghiệm cá nhân cũng như các tác giả có học đã ban cho nó . Về sau, cũng chính ảnh hưởng giáo hóa ấy của gia đình góp cho nó đem thực hành trong đời sống những nguyên tắc người ta đã từng tin vào nó khi còn trẻ. Ảnh hưởng ấy của gia đình rất hiển nhiên, rất thực hữu, đến nỗi ngay khi người Annam thoát ra ngoài, thì phẩm hạnh anh ta liền bị ảnh hưởng.(10) Sống thành gia dình là bản chất của con người vừa có tính chất bẩm sinh vừa phổ quát. Ngay trong thời đại kỹ nghệ gia đình thu nhỏ lại vừa vì lý do kiểm soát sinh sản sợ nạn nhân mãn, vừa vì sinh hoạt và tổ chức xã hội không cưu mang nổi một đại gia đình quá đông nhân số . Tuy nhiên điều tha thiết của đại đa số vẫn là có một gia đình với con cái. Ở xã hội cũ khi mà vấn đề an sinh xã hội chưa được tổ chức chu đáo, thì cách đảm bảo cho lúc về già, khi sức khoẻ suy yếu không còn làm việc sản xuất được là trông cậy vào con cái : trẻ cậy cha, già cậy con. Ngày nay ở những nước mà chế độ an sinh xã hội tốt, vấn đề trợ cấp tuổi già không phải lo nữa. Tuy nhiên người ta vẫn cứ thích có con cái, gia đình cho vui vẻ. Những người ghét bỏ gia đình vẫn bị coi là có phần trái với thiên tính. Người ta khó tưởng tượng được sự bất ổn nếu xã hội được xây dựng toàn bằng những cá nhân nam và nữ. Ngày nay người ta nói nhiều đến khủng hoảng của gia đình và luân lý xuống dốc, con cái thoát ly cha mẹ để sống cuộc sống riêng cho được tự do làm theo sở thích, dù rằng hiện tại trong gia đình cũng không còn ngăn cấm như xưa . Gia đình hiện tại nhìn như một môi trường sống của những cá nhân biệt lập về ý tưởng và tình cảm . Giáo dục gia đình trở nên không kiến hiệu khi gia đình đã mất nền nếp và kỷ luật. Ở gia đình bình thường còn thế, đến những gia đình có vấn đề lục đục vợ chồng thì cuộc sống càng dễ trở nên địa ngục, khiến đứa trẻ mong cho chóng lớn để thoát nơi ấy. Một gia đình đúng nghĩa là môi trường tốt cho việc nuôi dưỡng cả vật chất lẫn tinh thần của đứa trẻ phải có tình cảm gia đình và cả phần luân lý siêu hình khiến cho cá nhân không tìm thấy đâu là chốn yên ổn thoải mái cho tình cảm, một mục đích để phấn đấu mà không tìm thấy ở bất cứ chốn nào kể cả đức tin tôn giáo. Việc đánh mất lòng tin vào gia đình phải kể là từ khi người ta vì mục đích chính trị, phương tiện nào cũng tốt miễn là đạt mục dích, nên đã dùng con trẻ trong gia đình theo dõi và tố cáo cha mẹ. Việc có thành lúc ấy, nhưng không ngờ di lụy về sau. Xã hội không tin nhau được thì còn gia đình. Thiên tính gia đình vẫn tồn tại, để đến một lúc nào đó chính trị thay đổi, thì tổ chức gia đình lại được phục hồi với tình thương yêu như xưa. Ở những nước phương Tây, tình trạng khủng hoảng gia đình vẫn là một vấn đề ưu tư hàng đầu về phương diện xã hội.Càng ngày càng có nhiều trẻ sớm thoát ly gia đình, những vụ ly dị hay tội ác chết người gây ra do gia đình lục đục. Pháp luật tỏ ra không hữu hiệu trong việc ngăn ngừa tội ác. Nói thế không phải là đổ lỗi cho pháp luật quá nhẹ tay trong việc trừng phạt kẻ phạm tội. Vấn đề là làm sao cho những mâu thuẫn, những xáo trộn trong gia đình đừng xảy ra; hay nếu có xảy ra thì cũng dễ tìm được phương án ôn hòa và hữu hiệu để giải quyết. Trong một xã hội lấy cá nhân làm bản vị thì danh dự cá nhân là căn bản cho người ta phấn đấu giữ gìn. Người ta thà mất tính mệnh hơn là mất danh dự. Các phần tử trong một gia đình cũng cư xử trong việc tôn trọng danh dự riêng của cá nhân. Người Việt khi sống với xã hội Úc thấy con cái xa dần mình và cái gọi là mái ấm gia đình không còn nữa, theo thời gian nó như một quán trọ. Có người đổ lỗi vì an sinh xã hội của Úc tốt quá khiến con trẻ chỉ mới bước vào tuổi vị thành niên thôi cũng đã có thể xin trợ cấp để sống tự lập theo sở thích. Nếu họ có sống chung thì cũng chẳng còn giữ được cái tình, cái nghĩa hay là bổn phận như xưa. Sự thực thì nếu không nhờ trợ cấp xã hội, tình trạng còn thê thảm hơn cho trẻ khi chúng được giáo dục đào tạo cho tinh thần chỉ biết vun quén cho cá nhân . Ngay cả việc hôn nhân cũng đặt nặng ở vấn đề tạo hạnh phúc cho đôi lứa về vật chất và tinh thần trên căn bản cá nhân, để một lúc nào đó cuộc sống chung không còn hứng thú nữa thì hai cá nhân lại tách ra đi tìm hạnh phúc khác. Trong một đại gia đình ngày xưa thì đạo hiếu thay thế cho hạnh phúc cá nhân. Danh dự cá nhân phải hòa đồng với danh dự của gia tộc . Nếu có tiêu cực một người làm quan cả họ được nhờ kéo bè kéo đảng thì cũng có phần tích cực là các thành phần trong gia tộc phải làm sao cho họ mình tốt đẹp hơn họ khác; ngày xưa thì mức cao nhất ngoài đấng Thiên tử ra là thi đỗ làm quan to, nức tiếng thanh liêm. Ngày trước có người Pháp mai mỉa nói rằng;trong mỗi người Annam đều có một ông quan. Làm như xã hội ta là một xã hội trọng quan. Thực ra đó là một xã hội nhân bản trọng văn hóa. Người mà thi đỗ đại khoa để được ra làm quan là đã học tập tu dưỡng đạo làm người kết hợp thành việc tôn trọng danh dự gia tộc và danh dự quốc gia tiêu biểu là tổ tiên và nòi giống. Ðiều này khiến ta hiểu trong bài Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi đã thay lời Lê Lợi để nói đến công đức của tổ tiên trong việc diệt được quân Minh, thu hồi độc lập cho tổ quốc : Nền vạn thế xây nên chăn chắn, thẹn nghìn thu rửa sạch làu làu. Thế là nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng che chở giúp đỡ cho nước ta vậy. (11) Trên con đường duy tân cho nước nhà lạc hậu ở cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20 thật tình chúng ta không thấy được viễn tượng thay đổi của xã hội cũng như đâu là căn do chính đưa đến sự yếu kém về văn minh. Tưởng rằng ta cứ học được văn minh khoa học Thái tây là đưa nước nhà đến hùng cường. Trong việc phá hoại cái cũ quan trọng nhất là không tìm hiểu về phương diện xã hội của tục thờ cúng tổ tiên mà chỉ bài bác những khía cạnh tiêu cực của nó như là tốn kém, ganh tị trong họ hàng mà không nghĩ rằng nó tạo ra một ám thị để củng cố danh dự chung của một tập thể cùng chung huyết thống, rồi từ đó nâng lên cao là danh dự của cả dân tộc. Trở về được ý nghĩa đích thực của tục thờ cúng tổ tiên thì ta thấy ngay lúc này dù đang ở giữa một xã hội lấy cá nhân làm căn bản như Tây phương, việc tạo lại niềm tin và danh dự đại gia đình bằng những ngày cúng giỗ tổ tiên cho con cháu nhận ra huyết thống và dòng giõi của mình cũng không phải là là chuyện lố bịch và không thể làm được. (Sưu tầm) [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HÓA
Văn hóa Việt Nam
Thờ cúng tổ tiên
Top