Thao tác & lí luận phương thức hành văn.

Hide Nguyễn

Du mục số
I. Bình Giảng Văn học

1. Khái niệm

Bình giảng cũng là một kiểu bài phân tích văn học nhưng là kiểu bài phân tích đặc biệt. Người viết cảm thụ văn chương riêng của mình, vừa phân tích giảng giải, vừa bình cái hay, cái đẹp của thơ văn để cho người đọc cùng tán thưởng về tư tưởng và nghệ thuật của một đoạn văn, đoạn thơ hay một tác phẩm trọn vẹn. Trong nhà trường, những đề văn bình giảng thường chỉ hướng về một đoạn thơ hay, một đoạn văn hay, một bài thơ ngắn đặc sắc. Thơ văn không hay, hoặc ít có giá trị tư tưởng nghệ thuật thì không thể bình giảng được.

2. Phân biệt giữa phân tích văn học và bình giảng

- Phân tích tác phẩm văn học là từ sự phân tích đặc điểm tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật để làm sáng tỏ giá trị của tác phẩm, hoặc làm sáng tỏ một vấn đề, một khía cạnh của tác phẩm.

* Ví dụ:

+ Phân tích bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng mục đích đi tới là làm sáng tỏ và đánh giá – giá trị của tác phẩm.

+ Phân tích vẻ đẹp lãng mạn của truyện “Mảnh trăng cuối rừng” của Nguyễn Minh Châu – cái đích của bài văn là làm sáng tỏ một khía cạnh của tác phẩm.

+ Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mỵ để cho thấy giá trị nhân đạo của truyện “Vợ chồng A Phủ” – cái đích đi tới là làm sáng tỏ một vấn đề của tác phẩm.

- Bình giảng là từ việc giảng và bình các chi tiết ngôn ngữ nghệ thuật, tư tưởng tình cảm chứa trong tác phẩm hay một phần của tác phẩm, làm rõ cái hay, cái đẹp của văn chương.

- Phân tích văn học và bình giảng đều phải sử dụng các thao tác sau: phân tích, giảng giải – trích dẫn, so sánh đối chiếu, liên tưởng mở rộng, bình, đánh giá. Tuy nhiên mức độ, sắc thái có chỗ hơi khác nhau.

+ Bình giảng: yếu tố bình phải sắc, đậm hơn.

+ Bình giảng: đòi hỏi người viết phải phân tích, giảng giải kỹ hơn, sâu hơn các chi tiết. Có những đề văn chỉ có hai câu thơ, nên người viết phải biết sử dụng các thao tác trên tinh thần “chẻ sợi tóc làm tư” mới có thể làm nên một bài văn 4,5 trang.

* Ví dụ:

Bình giảng hai câu thơ sau:

“Ôi những cánh đồng quê chảy máu,

Dây thép gai đâm nát trời chiều”.

(“Đất nước” - Nguyễn Đình Đinh Thi)

(Đề thi vào trường Đại học Luật năm 1997)

Để viết hay đề văn bình giảng này trong một thời gian nhất định khoảng 100-120 phút trong phòng thi căng thằng, hồi hộp đâu dễ?

+ Nói chung giọng văn, chất văn của hai kiểu bài phân tích văn học và

giảng phải lưu loát, uyển chuyển, mượt mà, giàu cảm xúc. Vốn dĩ câu thơ, câu văn trong đề bài bình giảng đưa ra đã hay, rất hay, rất đẹp, do đó người viết cũng phải diễn đạt bằng những lời văn, câu văn giàu hình ảnh, biểu cảm mới tương xứng.

Các tiêu chí trên đây chỉ là sự khu biệt tương đối. Các bài văn mẫu hiện nay, xét cho cùng, các bài bình giảng cũng không khác gì bài phân tích; đặc biệt chất văn, giọng văn chưa được “bay” thậm chí yếu tố bình (khen, chê) chưa có, chưa rõ.

Theo ý chúng tôi, dối với những bài ca dao ngắn, bài tứ tuyệt hoặc bát cú Đường luật thì phân tích hay bình giảng đều có thể viết giống nhau, tương tự nhau.

* Ví dụ:

+ Bình giảng bài ca dao “Bài ca chàng thợ mộc”

+ Bình giảng bài thơ “Mộ” (Chiều tối) của Hồ Chí Minh.

+ Phân tích bài thơ “Canh cá tràu” của Chế Lan Viên.

3. Phương pháp làm bài cụ thể:

- Cắt ngang để bình giảng từng chi tiết, từng bộ phận, từng phần một.

- Giảng trước, bình sau ở mỗi chi tiết, bộ phận, từng phần.

- Phải bám vào ngôn ngữ, hình ảnh… để giảng. Và trên cơ sở đó để bình.

- Cần có kiến thức lý luận văn học và thuộc nhiều thơ văn để so sánh đối chiếu, liên tưởng mở rộng khi giảng và bình, không thể khen, chê một cách vu vơ, tuỳ tiện.

- Bố cục dàn ý một bài bình giảng cũng giống như bài phân tích văn học.

Minh họa về bình giảng

a/ “… Chúng ta đã nói đến sự tương xứng thắt chặt lại, là đối; nhưng phải nghĩ đến sự tương xứng mở rộng ra, nó là cái lẽ lớn chi phối cả thơ và các nghệ thuật khác.

Chính Phạm Thái đã có một câu thơ rất hay, khi nhìn phong cảnh đất Kim Sơn:

“Mành rủ liễu, tán dương tùng,

Trúc khua vách đá, lan ***g áo tiên”.

Câu lục bát chia làm 4 đoạn, mỗi đoạn đều là một động tác, với một động từ trong lúc liễu rủ mành của nó xuống, thì tùng dương tán của nó lên, trong khi đó thì âm nhạc là: trúc khẽ chạm vào vách đá, khua, và các hoa lan trăm đoá nở ra, như đang ***g áo liên vào mình; đây không những là “trong thơ có tranh”, mà còn có cả vũ khúc, một điệu múa; tất cả là một sự tương xứng rất đẹp”.

Xuân Diệu (“Sự tương xứng trong ngôn từ thơ”)

b/ Phong cách dân tộc ở Tố Hữu thể hiện ở chỗ thơ anh giàu chất nhạc, anh nắm rất vững cái âm điệu, vần điệu của dân tộc. Tố Hữu không những suy nghĩ qua âm nhạc, trong âm nhạc, mà anh còn suy nghĩ bằng âm nhạc nữa:

“Ai về Hưng Hóa

Ai xuống Khu Ba

Ai vào Khu Bốn

Đường ta đó, tự do cuồn cuộn

Bốt đồn Tây đã cuốn sạch rồi!...”

Phân tích theo cái lối hình thức, thì cả đoạn này, chỉ là những tên địa danh kèm theo ở đầu chữ Ai. Nhưng hãy đọc to lên, hãy để cho hồn thơ, nhạc điệu lôi cuốn ta đi, ta sẽ thấy rằng nhạc điệu ở đây đã tạo cho ta một tình cảm rất sâu: đó là lòng yêu đắm say đất nước, yêu như tát mãi không cạn, gọi mãi không cùng, yêu như muốn nêu tên lên mãi mà gọi, chỉ một cái tên thôi cũng đủ chấn động lòng rôi. Mỗi tiếng “Ai” kia nhu đào sâu thêm tình yêu đó.

Rất nhiều lúc tác giả dùng lối gọi tên như vậy: “Tháng Tám vùng lên Huế của ta - Quảng Phong ơi, Hương Thuỷ, Hương Trà”, “Chào những buồm nâu thuyền câu Diêm Phố! Nhớ nhau chăng, hỡi Hanh Cát, Hanh Cụ?”… Cho cả đến những lần chỉ có tên là tên:

“Po Tào, Mường Khủa, Mường Thanh,

Mường La, Hát Lót, chân anh đã từng”.

Và lần nào tác giả cũng thành công - Chỉ vì sau cái nhạc điệu dân tộc, anh đã biết để một quả tim dân tộc, sau âm thanh là có cả tâm hồn.

Thơ là đi giữa Nhạc và ý. Rời vào cái vực ý, thì thơ sẽ sâu, nhưng rất dễ hô khan. Rời vào cái vực Nhạc, thì thơ dễ làm đắm say người, nhưng cũng dễ nông cạn. Tố Hữu đã giữ được thế quân bình giữa hai vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa ru người trong nhạc, vừa thức người bằng ý.

“Ai đi Nam Bộ

Tiền Gaing, Hậu Giang

Ai vô thành phố

Hồ Chí Minh

Rực rỡ tên vàng…

Ai về thăm bưng biền Đồng Tháp

Việt Bắc Miền Nam, mồ ma giặc Pháp

Nơi chôn nhau cắt rốn của ta…

Ai đi Nam Ngãi, Bình Phú, Khánh Hoà”

v.v…

Trong sóng nhạc cuồn cuộn, những ý nổi lên, như đẩy nhạc đi, như giữ nhạc lại. Và chính là cái hơi nhạc đã thức dậy rồi lại phủ lên những ý này. Một đoạn thơ mà chỉ xem thôi thì không hiểu hết cái hay, pahỉ đọc nó lên, để cho tất cả khả năng của nó biểu hiện ra trong âm nhạc”.

Chế Lan Viên (Trích “Thơ Tố Hữu” – Nghĩ cạnh dòng thơ”)

c/ “… Nghệ thuật của Nguyễn Đình Chiểu rất gần gũi với văn học dân gian. Ngôn ngữ Nguyễn Đình Chiểu trong văn thơ yêu nước cũng như trong “Lục Vân Tiên” là ngôn ngữ của quần chúng, chữ dùng rất táo bạo và đầy cảm xúc, có khi như còn nóng hồi hơi thở của cuộc sống và chất chứa bao nhiêu đau xót, buồn giận, mừng vui: Khi Vân Tiên chiến thắng trở về, cái đám Trịnh Hâm, Bùi Kiệm, Quỳnh Trang và Thế Loan thật là ê trệ. Nhưng Nguyễn Đình Chiểu đã nói rõ mỗi đứa ê trệ một cách. Riêng về Bùi Kiệm, ông viết:

“Còn ngươi Bùi Kiệm máu dê

Ngồi chề bê mặt như sề thịt trâu”.

Thật chữ dùng khó mà táo bạo hơn và cũng khó mà đúng hơn. Những câu như thế nghe chưa quen thì có thể chưa thấy hay. Nhưng càng đọc lại càng thấy quý.

Hai câu: “Sự đời thà khuất đôi tròng thịt,

Lòng đạo xin tròn một tấm gương”. (“Ngư Tiều y thuật vấn đáp”)

Có chỗ tôi thấy chép là “đôi tròng mắt”. Có lẽ vì người ta sợ nói “tròng thịt” thì hình như không được thanh nhã. Nhưng chỉ đổi đi một chữ như vậy là cả cái phần đau xót, phần bướng bỉnh trong câu thơ đã mất đi quá nửa.

(…) Sự gắn bó sâu sa với quần chúng là điểm nổi bật trong cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu, là nhân tố chủ yếu đã tạo nên con người và sự nghiệp văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu. Và cũng chính quần chúng đã hiểu Nguyễn Đình Chiểu hơn ai hết, đã bảo vệ thơ Nguyễn Đình Chiểu cho đến ngày nay”.

Hoài Thanh ( Trích “Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn, một tấm gương chói ngời tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam”)



II - Viết lời bình cho một tác phẩm văn học


Đã từ lâu, viết lời bình cho một tác phẩm văn học đã được nhiều tao nhân mặc khách sử dụng, để lại “trang hoa, tờ hoa” diễm lệ.

Người viết lời bình vốn am hiểu sâu sắc từ chương học, lịch lãm cuộc đời và văn chương, lại rất tài hoa. Tác phẩm văn chương có hay thì người ta mói viết lời bình. Những lời bình đặc sắc đã dệt gấm thêu hoa cho tác phẩm; cái hay của văn chương như được thăng hoa thấm sâu vào hồn người. Người viết lời bình qua sự thẩm bình của mình mà hướng dẫn người đọc đi sâu vào nơi sâu kín của tác phẩm để cảm nhận, thưởng thức yêu mến.

Phê bình hiện đại còn dàn tải, chưa đạt đến chỗ thâm hâu, tinh tế và linh diệu của văn chương. Những bài “giới thiệu sách” đăng tải trên báo, pjhần lớn nhạt nhẽo, vô vị vì mang tính chất rao hàng!

Những lời bình của một số nhà nho trong thế kỷ XIX về “Truyện Kiều”, lời bình của Mao Tôn Cương về “Tam quốc chí diễn nghĩa”, lời bình của Thánh Thán về Đường thi, về “Hồng lâu mộng”, vừa hay, vừa sâu sắc, đọc lên nghe rất thú vị.

Viết lời bình cũng là một kiểu bình giảng đặc biẹt. Người viết lời bình hay là viết ngắn mà thâu tóm được linh hồn áng văn thơ, khen chê cái hay, cái đẹp của tác phẩm trên những căn cứ thi pháp và quan điểm thẩm mỹ tiến bộ.

Trong bài “Một đôi điều tâm sự trên câu chuyện bình thơ” nhà văn Hoài Thanh viết:

“Làm thơ là một cách phát biểu ý kiến, Bình thơ cũng là một cách phát biểu ý kiến. Không phải chỉ là phát biểu về thơ, mà trước hết là phát biểu về những vấn đề tư tưởng tình cảm đang đặt ra trong cuộc sống (…)

Người bình thơ không phải muốn nói gì thì nói, phải dựa vào thơ mà nói, không được mượn cớ bình thơ để nói những chuyện không có gì dính dáng với thơ. Cho nên trước hết là phải tìm hiểu bài thơ, tập thơ cho đúng. Tìm hiểu thơ, tìm hiểu người làm thơ, am hiểu hoàn cảnh ra đời của thơ. Bình thơ đòi hỏi phải có cảm xúc, có tình cảm nhưng là cảm xúc, tình cảm trên cơ sở một sự hiểu biết khoa học, không thể là một thứ cảm tính vu vơ. Điều này khhông dễ nhất là đối với thơ xưa”.

Cũng như kiểu bài Tóm tắt tác phẩm, Giới thiệu tác giả, kiểu bài Viết lời bình chưa đề cập đến, chưa được coi trọng thỏa đáng. Chúng tôi hy vọng rằng kiểu bài Viết lời bình không chỉ là hình thức tập dượt bình giảng mà còn được đưa vào bài tập ngắn thường xuyên trong quá trình giảng dạy và học tập.


Những lời bình - đọc tham khảo

“Vui buồn, tan hợp, mười mấy năm trời, trong cuốn văn tả ra như hệt, không khác gì một bức tranh vậy. Xem đến chỗ giấc mộng đoạn trường tỉnh dậy mà căn duyên vẫn gỡ chưa rồi, khúc đàn bạc mệnh gáy xong, mà oán hận vẫn còn chưa hả, thì dẫu đời xa người khuất, không được mục kích tận nơi nhưng lời văn tỏ ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột. Thế thì gọi tên là “Đoạn trường tân thanh” cũng phải.

Ta lúc nhàn đọc hết cả một lượt, mới lấy làm lạ rằng: Tó Như Tử dụg tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có cái con mắt trong thấu cả 6 cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy, bèn vui mà viết bài tựa này”

(Tiên phong Mộng Liên Đường chủ nhân Bùi Kỷ dịch)

Tu thân

Thấy người hay thì cố mà bắt chước, thấy người dở thì phải tự xét xem có dở như thế không để mà sửa đổi,

Chính mình có điều hay, thì phải cố mà giữ lấy, chính mình có điều dở, thì pahỉ cố mà trừ đi.

Người chê ta, mà chê phải, tức là thầy ta; người khen ta, mà khen phải, tức là bạn ta; còn người nịnh hót ta lại là cừu địch, hại ta vậy.

Cho nên người quaan tử trọng thầy, quý bạn và rất ghét cừu địch, thích điều phải mà không chán, nghe lời can mà biết răn… Như thế dù muốn hay không cũng không đạt.

Kẻ tiểu nhân thì không thế. Cực bậy, mà lại ghét người chê mình; rất dở, mà lại thích người khen mình; bụng da như hổ lang, ăn ở như cầm thú, mà thấy người ta không phục, lại không bằng lòng; thân với kẻ xiềm nịnh, xa cách kẻ can ngăn, thấy người chính trực thì cười, thấy người trung tín thì chê… Như thế thì dù muốn không dở cũng không được

(Tuân Tử)

* Lời bàn của Nguyễn Văn Ngọc và Trần Lê Nhân, đồng tác giả cuốn sách “Cổ học tinh hoa” rất nổi tiếng, xuất bản từ năm 1925:

“Cái đạo tu thân rút lại chỉ có biết theo điều hay, biết tránh điều dở. Mà muốn tới cái mục đích ấy, thì không những là tự mình phải xét mình lạicòn phải xét cái cách người ở với mình nữa. Đối với người, cần phải biết hai điều: Ai khen, chê phải, khen răn hay, thì phục, thì bắt chước: ai chiều lòng nịnh hot, thì tránh cho xa, coi như quân cừu địch. “Nên ưa người ta khuyên mình hơn người ta khe minh”, có như thế, mình mới tu thân được”.

* Bình 2 câu thơ sau của Đỗ Phủ:

“Độc thư pá vạn quyển,

Hạ bút như hữu thần”.

(Đọc sách phá vạn quyển,

Hạ bút (viết) như có thần).

Có người hỏi: “Thơ đã không phải loại kinh điển, cần gì phải nêu cái thuyết “Đọc sách phá vạn quyển” của Thiếu Lăng? Vậy thì người đó không biết rằng ba chữ “phá” và “hữu thần” toàn là phép dạy người đọc sách làm văn đấy. Đó là “phá” quyển sách để tiếp thu lấy cái “thần” của nó, chứ không phải là hoàn toàn nhặt nhạnh cả cặn bã của nó vậy. Tằm ăn lá dâu nhưng nhả ra tơ chứ không phải nhả lá dâu. Ong hút nhuỵ hoa mà gây thành mật chứ không phải gây thành nhuỵ hoa. Đọc sách như ăn cơm vậy, kẻ “khéo ăn”, tinh thần xẽ lớn lê, kẻ “không khéo ăn” sinh ra đờm, bướu”.

Viên Mai (Đời Thanh) (“Tuỳ viên thi thoại”)

* “Thi hữu biệt tài, thi hữu biệt thú”

(Thơ có thể tài riêng, thơ có hứng thú riêng).

“Thơ có thể tài riêng không liên quan đến sách vậy. Thơ có hứng thú riêng, không liên quan tới lý vậy. Nhưng nếu không đọc sách nhiều, không suy nghĩ nhiều, thì thơ không thể đạt tới chỗ tuyệt đỉnh được. Vậy thì không bước vào con đường của cái lý, không rơi vào cái rọ của ngôn từ là hay nhất. Thơ là để ngâm vịnh tính tình. Những nhà thơ thời Tịh Đường Cchỉ sáng tác khi nào có hứng thú, không đẻ lại một gợn vết nào, tự như con linh dương trên rừng. Vì vậy chỗ thần diệu củ thở họ trong văt lung linh, không thẻ gom vào được, như âm thanh giữa tầng không, như thần sắc nơi hình tướng, như bóng trăng in đáy nước, như hình ảnh trong mặt gương, lời hết rồi mà ý vẫn vô cùng. Các nhà thơ gần đay chỉ thích kỳ lạ lập di, họ coi vắn tj là thơ, coi tài học là tơ, coi nghị luận là thơ. Có bài không phải là không hay, nhưng khác với thơ của cổ nhân lăm”.

Nghiêm Vũ (đời Tống) (“Thương Quang thi thoại”)

* Kim Vân Kiều là tiếng nói hiểu đời,

Hoa Tiên là tiếng nói răn đời vậy.

“Than ôi! Lấy quốc ngữ làm văn chương, thì ta chưa dám, nhưng lấy văn chương mà coi quốc ngữ , thì ta có phần tán thành.

Nước ta từ sau Hàn Thuyên, các tác gia mọc lên như rựng: Ôn Như Hầu làm thơ cổ, cận, khuôn mẫu ngang với Thiếu Lăng. Bằng Quận công đặt điệu cung từ, giọng ruồi không nhường Hán, Nguỵ, đến như văn của truyện khúc đến nay ta được thấy Hoa Tiên và Kim Vân Kiều.

Như vậy, nếu chỉ coi quốc ngữ là quốc ngữ, thì hai cuốn truyện này không có cũng được, nhưng nếu còn cần phải tiến lên tìm cách làm cho rõ thế nào là văn chương của ta, thì các bạn cùng yêu văn với ta nghĩ sao đây?

Kim Vân Kiều là tiếng nói hiểu đời, Hoa Tiên là tiếng nói răn đời vậy”.

Cao Bá Quát (Trích “Bài tựa truyện Hoa Tiên”)



Đặc điểm, bản chất của phân tích văn học

a- Tác phẩm thơ, văn đích thực là đẹp và hay

Phân tích văn học là phân tích cái hay, cái đẹp – cái hay, cái đẹp của tư tưởng, cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật mà người viết cảm nhận được: trên cơ sở đó mà đánh giá tác phẩm văn học.

b- Một tác phẩm văn học (một bài thơ, bài văn…) mà không hay thì có gì mà phân tích?

Một bài văn phân tích văn học nếu chỉ mới dừng lại được ở mức độ phân tích giá trị tư tưởng của tác phẩm văn học thì chưa đạt yêu cầu: cách phân tích đó mang tính xã hội học đơn giản.

c- Nội dung tư tưởng tình cảm của tác phẩm văn học?

Lúc nào cũng vậy, nó được thể hiện bằng một hình thức nghệ thuật nhất định, bằng một ngôn ngữ văn chương nhất định, cho nên phải bám sát văn bản ngôn từ, kết hợp một các nhuần nhuyễn phân tích nội dung tư tưởng với phân tích nghệ thuật, để chỉ ra cái hay, cái đẹp mà đánh giá tác phẩm.


d- Phải căn cứ vào ngôn ngữ và thể loại văn học để phân tích tác phẩm.

Những bài thơ dịch (thơ chữ Hán, thưo Pháp, thưo Nga…) nếu chỉ biết bám vào bản dịch đẻ “tán” thì đó là một việc làm thô lậu, đơn giản, thiếu căn cứ. Phải đối chiếu với bản phiên âm, bản dịch nghĩa để phân tích thì mới hợp lý. Phân tích một truyên cổ, phân tích một bài hịch, một bài cáo, bài phú, bài văn tế, một bài hát nói, một bài thơ Đường luật… cần chú ý đến theer loại, đến đặc trưng ngôn ngữ, đến thi pháp, đến màu sắc cổ kính, cổ điển của nó, và có một quan điểm lịch sử đúng đắn. Nếu cứ phân tích như một bài văn, bài thơ hiện đại thì còn nghĩa lý gì? Đã có người phân tích bài “Văn tế Trương Quỳnh Như” của Phạm Thái như phân tích một bài thơ tình hiện đại (1). Có hiện tượng đó vì người viết ít quan tâm đến thể loại và tính lịch sử của tác phẩm văn học.

e- Một bài văn phân tích tác phẩm văn học của học sinh làm trên lớp, làm trong phòng thi không phải là một bài giảng văn

Làm văn nhà trường có tính quy phạm chặt chẽ. Từ những kiến thức học đựoc trong giờ giảng văn, học sinh phải trở thành con ong hút nhuỵ hoa làm ra mật, con tằm ăn lá dâu làm ra kén, nhả ra tơ. Nếu nhà phê bình văn học chỉ viết vài dòng, vài đoạn ngắn chỉ ra cái “thần”, cái “hồn” của một áng thư văn thì người học sinh phải “sợi tóc chẻ làm tư”, phân tích chi tiết, tỉ mỉ, để có một bài văn dài 6, 7 trang… chữ viết nắn nót, trình bày sáng sủa, trang trọng.



Thể loại văn học và sự phân loại tác phẩm văn học

1. Khái niệm về thể loại văn học:

- Thể loại văn học là phương thức tái hiện đời sống và thể thức cấu tạo văn bản.

- Ví dụ, cùng viết về đề tài người mẹ trong chiến tranh, Tố Hữu viết về người mẹ ở hậu phương qua tâm hồn người lính bằng thơ lục bát trữ tình (Bầm ơi). Con Nguyễn Thi lại viết về một người mẹ, người vợ cụ thể - chị Út Tịch - đang cùng chồng và đồng bào quê hương cầm súng đánh giặc - bằng thể ký: “Người mẹ cầm súng”.

2. Sự phân loại tác phẩm văn học:

- Phân loại tác phẩm văn học, chủ yếu theo ba tiêu chí sau:

+ Phương thức tái hiện đời sống, cấu tạo tác phẩm.

+ Loại đề tài, chủ đề.

+ Thể văn.

- Thể loại tác phẩm văn học gồm có:

+ Tự sự.

+ Trữ tình.

+ Kịch.

Thể loại - thể văn

1. Tự sự (kể và tả…), gồm có:

- Truyện đời xưa: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, truyện nôm (thơ).

- Truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài (tiểu thuyết)

- Phóng sự, ký sự, bút ký,…

2. Trữ tình: (tả tâm trạng, cô đúc, giọng điệu, vần điệu,…)

- Ca dao trữ tình, thơ trữ tình, thơ trào phúng.

- Các khúc ngâm, tuỳ bút, trường ca hiện đại.

- Phú, văn tế, thơ ca trù.

3. Kịch

- Sân khấu dân tộc: chèo, tuồng, cải lương.

- Sân khấu hiện đại: kịch thơ, hài kịch, bi kịch, kịch câm.

Tóm lại, lúc đọc để thưởng thức, lúc phân tích tác phẩm văn học, cần phải có định hướng. Đề tài, chủ đề, cảm hứng, nội dung triết lý, sắc điệu phẩm mỹ, văn bản, ngôn từ, thế giới hình tượng và thể loại tác phẩm văn học - là những căn cứ để hiểu và cảm, để giảng và bình tác phẩm văn học.

Lý luận văn học vốn khó nhưng thú vị. Nó là cái chìa khóa vàng để học và đọc tác phẩm văn học.
Sưu tầm​
.​
 
Các thao tác cơ bản

Ngoài những thao tác - kỹ năng như khi đọc một bài văn, bài thơ phải biết phát hiện 5 lớp nội dung của tác phẩm (đề tài, chủ đề, cảm hứng, nội dung triết lý, sắc điệu thẩm mỹ), học sinh cần có những thao tác cơ bản sau: kỹ năng phân tích – trích dẫn, kỹ năng so sánh đối chiếu, kỹ năng viết lời bình, kỹ năng liên tưởng mở rộng. Ở đây, chúng tôi chỉ nêu ra một vài ví dụ minh họa.

a. Phân tích – trích dẫn:

- “Xuân Diệu chọn đỏ để chọi với xanh. Hai câu dưới mới là tuyệt bút, và lại rất Việt Nam:

“Những luồng run rẩy rung ring lá

Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”.

Đầu đoạn thơ là hoa rụng, lá úa: cuối đoạn, in trên nền trời, gây ấn tượng thị giác rất mạnh, là các nhánh cây trơ trụi, khô gầy. Tôi nói tạo ấn tượng vì câu thơ có bảy chữ thì tới sáu chữ gợi cái khô gầy, run rẩy của cành. Đó là các chữ nhánh, khô, gầy, xương, mỏng manh. Hình ảnh khô gầy, trơ trụi sẽ gợi đến cảm giác rét mướt (cành mật mạp, ls sum sê không thể nào lại cho ta cảm nghe cái rét đựoc). Xuân Diệu đã tạo đựoc cái rét thấu xương, tê tái đến những nhánh của loài cây, trước hết bằng cái tài của ngôn ngữ, sau nữa là cái tài của lập ý:

“Những luồng run rẩy rung rinh lá”.

Gió thổi làm lá rung rinh, nghĩa thật chỉ có thế. Xuân Diệu đã cảnh giác hoá hiện tượng thiên nhiên này để người đọc không chỉ thu nhận cảnh sắc bằng mắt (trông thấy là rung ring) mà bằng nhiều giác quan khác. Không nói gió mà nới luồng run rẩy tưởng như bản thân gió cũng cảm thấy lạnh, nó run rẩy, và không phải sự di chuyển của không khí (gió) làm cho lá động, mà lá rùng minh vì cảm thấy cái lạnh của gió mang tới mà rung rinh. Hiệu quả câu thơ là gợi cái rét chứ không phải tả gió bay. Cái rét ở câu này (do lá cảm) tương ứng với cái rét ở câu dưới (do cầnh cảm) tác động vào giác quan người đọc bằng con đường trực giác. Phân tích thì dài dòng thế, chứ đọc lên không giải thích gì người nghe đã muốn xuýt xoa, trước là vì rét sau là vì hay”.

Vũ Quần Phương(“Thơ với lời bình”)

- “Với Nguyễn Trãi, vận mệnh của đất nước, hạnh phúc của người dân, đó là điều quan trọng nhất. Tất cả tin yêu vui buồn của ông đều bắt nguồn từ đó. Có thể nói, ông chưa bao giờ thực sự chán đời. Ông từng có câu thơ từ ý đến lời đều rất hiện đại:

“Khó ngặt qua ngày, xin sống” (Bài 38)

Câu thơ cô đúc và dứt khoát như một lời tuyên ngôn. Không pahỉ vì chán đời mà quay ra yêu cỏ cây sông núi. Ở ông, yêu cỏ cây sông núi với yêu đời xét cho cùng vẫn là một. Đều là yêu đất nước Việt Nam, yêu cuộc sống trên đất nước Việt Nam.

Không có một cái nhìn rất đẹp về cuộc sống, không thể vẽ lên cảnh bướm vờn hoa sinh động và nên thơ:

“Làm sứ đi thăm tin tức xuân

Lay thay cánh nhẹ mười phân.

Nội hoa tốp tốp vây đòi hỏi

Doanh liêu khoan khoan khéo lữa lần” (Bài 250)

Càng không thể trong khi nhìn cảnh đẹp bỗng cảm thấy như khí thiêng của trời đất đã đông lại thành ngọc:

“Tà dương bóng ngả thuở giang lâu,

Thế giớ đông nên ngọc một bầu” (Bài 14)

Cũng không thể có những giấc mơ kỳ diệu:

“Tạc dạ nguyệt minh thiên tự thuỷ,

Mộng kỳ hoàng hạc thượng tiên đàn”.

(Đêm qua trăng sáng trời như nước,

Mộng cỡi hạc vàng lên đàn tiên)

(“Ức Traithi tập” – bài 73)

Hoài Thanh

(Trích “Một vài nét về con người Nguyễn Trãi qua thơ Nôm”)

b. So sánh đối chiếu

So sánh đối chiếu nhằm mục đích làm cho bài văn phân tích văn học trở nên sâu sắc. Chưa biết so sánh đối chiếu xem như mới chỉ biết nhìn nhận tác phẩm ở bề mặt mà chưa biết khám phá chiều sâu của ngôn từ, nghệ thuật và nội dung tư tưởng của văn bản. Thao tác so sánh đối chiếu giúp ta khắc phục đựoc phân tích tác phẩm một chiều, chỉ biết nhìn sông mà chưa biết ngắm núi, chỉ biết tả trăng mà chưa biết chạm mây vẽ trời. So sánh đối chiếu giởi giúp người đọc cảm nhận đầy đủ cái hay, cái đệp của văn chương lên một cái tầm mới.

* Ví dụ:

- … “Và tôi nghĩ rằng”: cần phải vận dụng đến phép tương xứng trong ngôn từ thơ để giảng nghĩa hai câu thơ đẹp cảu nàng Điểm Bích:

“Vằng vặc trăng mai ánh nước.

Hiu hiu gió trúc ngâm sênh”.

Mục “Tư liệu văn học” số 527 viết: “Bài thơ của nàng Điểm Bích diễn theo ngôn từ hiện đại thì như thế này: “Ánh trăng bổi ban mai chiếu xuống mặt hồ sáng vằng vặc; gió thổi vào khóm trúc khe khẽ nghe như tiếng sao, tiếng đàn”… Nếu giảng như mục “Tư liệu văn học” này, thì vô lý quá. Buổi mai đã mọc lên, thì dù có còn thấy mặt trăng thì chẳng còn một chút nào, bởi đã có ánh mặt trời rồi, dù mặt trăng này có bị che khuất đi nữa. Thế thì ánh trăng ------ mai làm gì còn chiếu xuống mặt hồ vằng vặc được? Muốn giảng câu thơ trên, thì phải nhìn xuống câu thơ dưới: Gió trúc nghĩa là gió thổi qua cây trúc, thì trăng mai không thể nghĩa là “trăng buổi mai”; một thi sĩ xứng đáng với tên ấy không viết ngang như thế được. Ở đây, ta hãy liên hệ với thơ Nguyễn Du, khi nàng Kiều ở trong lầu xanh của mụ Tú Bà:

“Thờ ơ gió trúc mưa mai,

Ngẩn ngơ trăm mối, dùi mài một thân”.

Mưa mai đứng một minh, có thể có nghĩa là “mưa buổi sớm mai”, nhưng đứng trong câu, trước nó có chữ gió trúc, thì nó chỉ có thể hểu là “mưa rơi xuống cây mai”, không có nghĩa nào khác, Nếu Nguyễn Du muốn nói là “mưa sớm mai”, thì nhà thơ sẽ viết, chẳng hạn: “Gió chiều hờ hững mưa mai”, Ca dao Bình - Trị - Thiên đã viết theo phép tương xứng như vậy, khi nói thiếp nhớ chàng, chàng nhớ thiếp:

“Ba trăng là mấy mươi hôm,

Mai nam vắng trước, chiều nồm quạnh sau”.

Các chữ đã liên kết khăng khít với nhau như kẹo như sơn, không thể hiểu khác đi đằng nào đựoc: buổi mai cũng như buổi chiều, gió nam cũng như gió nồm, đang đứng trước cũng như đằng sau, đề vắng quạnh bởi anh xa em, em xa anh!

Phạm Thái trong “Sơ kính tân trang” cũng dùng chữ “mai”:

“Thấp thoáng thoi oanh dệt liễu,

Phất phơ phấn bướm dồi mai”.

Các hình ảnh, âm thanh, từ ngữ chọn lựa xinh đẹp tương xứng biết chừng nào! Chim oanh bay qua liễu rủ, như thói dệt, phấn của con bướm rơi nhẹ xuống dồi cho mặt của hoa mai.

Trở lại với thơ nàng Điểm Bích: “Vằng vặc trăng mai ánh nước: chỉ có thể hiểu là trăng rọi vào cây hoa mai sáng vằng vặc. Còn hai chữ “ánh nước” nữa, thì cũng không thể giảng như mục “Tư liệu văn học” là “chiếu xuống mặt hồ sáng vằng vặc” được. Làm gì có một cái hố nào trong bốn câu thơ Điểm Bích này! Phải nhờ đến phép tương xứng, câu dưới: “Hiu hiu gió trúc ngâm sênh”, nghĩa là gió nhẹ nhàng thổi qua cây trúc như ngâm lên một tiếng gõ sênh (sênh là một nhạc cụ băng gỗ để gõ nhịp); chữ “ngâm” câu dưới là một động từ, thì chữ “ánh” câu trên cũng là một động từ; và ánh nước ở đây không phải là trăng ánh (chiếu) xuống dưới nước, mà nghĩa là trăng ánh lên mặt nước.

“Vằng vặc trăng mai ánh nước”.

Nghĩa là: bóng trăng rọi vào cây mai sang vằng vặc ánh lên như dội nước vậy! Cách hiểu đúng đăn này cũng là cách hiểu đẹp nhất.

Thêm một chi tiết nữa. “Gió trúc ngâm sênh” không nên giảng là “gió thổi vào khóm trúc ke khẽ, nghe như tiếng sao tiếng đàn”, giảng như vậy không tương xứng với thực tế thanh âm. Gió thổi làm cho trúc chạm vào nhau, không thể phát ra những tiếng của không khí nắn rung như tiếng sao, của dây tơ rung như tiếng đàn, mà chỉ đén mức gỗ đánh vào nhau như tiếng sênh, mà đánh khẽ thôi, cho nên mới dùng chữ “ngâm sênh”.

Xuân Diệu

(“Sự tương xứng trong ngôn từ thơ”)

* Ví dụ:

- “Thơ cổ hễ nói đến ly biệt là nói đến liễu. Điều này là khuôn sáo không có gì là mới mẻ cả. Có lúc Nguyễn Du dùng điển một cách từ chương học như vậy: “Khi hỏi Liễu Chương Đài”. Nhưng đó là cá biệt. Còn thông thường, ông tìm mọi cách để cá biệt hóa cái hình tượng quen thuộc của điển cố. Kết quả ta có “Lơ thơ tơ liễu buông mành”, khi Kim Trọng quay trở lại nưoi kỳ ngộ, “hoa trôi giạt thắm, liễu xơ xác vàng”, khi Kiều nhớ Kim Trọng lúc Kim Trọng mới ra đi, có “Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha”, khi Kim Trọng từ giã Kiều lần đầu tiên, có “Cỏ cao hơn thước, liẽu gầy vài phân”, khi Kiều nhớ Từ Hải… Liễu trong điển tích là liễu ước lệ, liễu trong “Truyện Kiều” là liễu tâm hồn. Nó loi thoi, nó lơ thơ, nó hờn, nó chán. Một vật hết sức bình thường như rêu(cái này cũng bị quy định bởi từ chương học) cũng có tâm hồn riêng của nó. Đạm Tiên vừa chết xong, người khác đến thì “Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh”, nhưng khi Kim Trọng đi đã một năm trở về thì “rêu pong dấu giày”; chữ “phong” ở đây rất công phu: rêu gói dấu giày của Thuý Kiều giữ nó cho Kim Trọng. Đến khi Kiều cho người tìm Giác Duyên, thì “Rêu trùm ké ngạch”. Cái nhìn của ông tỉ mỉ và công phu. Ngôn ngữ thiên nhiên của Nguyễn Du chứng tỏ một trình độ lao động nghệ thuật nghiêm túc, đáng cho ta học tập”…

Phan Ngọc

(“Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”)

c. Viết lời bình

Quá trình phân tích văn học là một quá trình phân tích, cảm thụ và bình (khen chê, tán thưởng). Viết một lời bình, một câu bình, một đoạn bình, sẽ làm cho bài văn phân tích trở nên đậm đà, việc cảm thụ thơ văn đã mang tính cá thể hóa rõ rệt.

* Ví dụ:

“Nói về sự tương xứng mở rộng, tôi xin bàn thêm về một bài thơ có nhiều ưu điểm: “Núi Mường Hung, dòng sông Mã”, đã được chọn vào “Tuyển tập thơ 1945-1960”. Đây là một bài thơ có sáng tạo,…;

“Anh là núi Mường Hung,

Em là dòng sông Mã,

Sóng nhiều rêu nhiều cá

Núi nhiều thú nhiều măng,

Chiều bóng anh che sông,

Sớm mặt em lóng lánh”…

Tứ thơ mở đầu cho đến đó, thật là thú vị, có thể nói là hay! Vừa là sông là núi, vừa là em là anh, Hai câu: “Chiều bóng anh che sông - Sớm mặt em lóng lánh”, rất thích, rất âu yếm, sáng tươi”.

Xuân Diệu

(“Sự tương xứng trong ngôn từ thơ”)

* Ví dụ:

“Văn chương cũng như tình yêu, còn có hàng trăm cách làm duyên làm dáng khác ở những cây bút có kinh nghiệm. Nhưng trong lĩnh vực nghệ thuật, kỹ thuật dù khéo léo tinh xảo đến đâu tự nó cũng không thể tạo nên được một giá trị thẩm mỹ nào. Xuân Diệu hiểu hơn ai hết, cái bí quyết thần thông nhất vẫn là ở trái tim, ở tâm hồn. Trái tim chân thật, sức yêu mãnh liệt và cặp mắt xanh non (Xuân Diệu) thích nói đến hai chữ “Xanh non” hay “biếc rờn” của cặp mắt thanh niên), ấy là tất cả kinh nghiệm nghệ thuật sống còn của ông:

“Lá không vàng, lá không rụng, lá lại thêm xanh; ấy là mùa thu đã về (…). Thu không phải là mùa sầu. Ấy chính là mùa yêu, mùa yêu nhau bằng linh hồn, mùa những linh hồn yêu mến nhau” (“Thu”). Văn Xuân Diệu là như thế đấy: mới mẻ, trẻ trung, nhiều khi táo bạo. Nhưng thực ra ông chỉ nói sự thật, sự thật của trời đất, sự thật của lòng mình mà thành ra yêu thế hôi. Tất nhiên là phải nói bằng lòng yêu mến, bằng tình đắm say”.

Nguyễn Đăng Mạnh

(“Vài cảm nghĩ về văn xuôi Xuân Diệu”)

d. Liên tưởng mở rộng

Nếu so sánh đối chiếu làm cho phân tích văn học trở nên sâu sắc thì liên tưởng mở rộng hợp lý sẽ làm cho bài văn phong phú, đa dạng. Liên tưởng mở rộng phải hợp lý và có chừng mực: nếu lạm dụng sa đà thì sẽ làm cho việc phân tích bị lan man. Những câu văn, câu thơ trong trí nhớ sẽ giúp học sinh tạo nên những đoạn liên tưởng mở rộng có giá trị. Có tài liệu gọi những liên tưởng mr rộng này là dẫn chứng mở rộng.

* Ví dụ:

“Đến khổ thứ tư là một cảnh hoàng hôn rất “Đường thi”:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”.

Ánh nắng chiều phản chiếu vào lớp lớp mây trăng đùn lên từ phía chân trời như những lớp núi bạc điệp trùnh và giữa cảnh mây núi lớp lớp chồng chất ấy, một cánh chim bé nhỏ nghiêng mình cùng với bóng chiều sa xuống. Cảnh chiều hôm trong thơ ca cổ điển Việt Nam cũng như Trung Quốc thường được tô điểm thêm một cánh chim rất tiêu biểu:

“Chim hôm thoi thót về rừng”…

(Nguyễn Du)

“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”…

(Bà Huyện Thanh Quan)

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ”…

(Hồ Chí Minh)

Cánh chim chiều ở đây của Huy Cận cũng mang màu sắc cổ điển ấy nhưng cũng lại rất “thơ mới” bởi đó là một cánh chim cô đơn, nhỏ nhoi. Nó tiêu biểu cho cái tôi bé nhỏ của các nhà thơ mới trường rợn ngợp trước cảnh bao la của vũ trụ:

“Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề”

(“Nguyệt Cẩm” – Xuân Diệu)

(Trích “Những bài làm văn chọn lọc” của Trường Cao đẳng Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh)

* Ví dụ:

“Điểm thứ hai, tôi muốn nói về sự đóng góp của nhà văn ấy là cách nói riêng của họ.

Cùng một ý “người đàn bà khóc như cành hoa lê đẫm mưa” lấy từ thơ Bach Cư Dị (Lê hoa nhất chi xuân đái vũ), Nguyễn Du viết:

“Cành hoa lê đã đầm đìa giọt mưa”

Tản Đà viết:

“Cánh hoa lê chíu hạt mưa xuân dầm”

Cùng một ý, bàn tay đàn đến chảy máu, Nguyễn Du viết:

“Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay”.

Tương An quận vương viết:

“Bốn dấy máu tỳ bà”.

Mỗi nhà văn mang đến một cách nói riêng của họ. Quần chúng sẽ chọn trong những cách nói ấy, sản phẩm ấy, cái gì dùng được thì sẽ nhớ, sẽ truyền bá đi, cái gì hư hỏng thì sẽ quên, sẽ vứt. Nhưng trước khi có sự chọn lọc ấy của thời gian, của quần chúng là phải có sự sản xuất dồi dào, vô cùng đa dạng, vô cùng phong phú của nhà văn. Càng nhiều cách nói khau nhau bao nhiêu, quần chúng càng dễ chọn bấy nhiêu. Càng nhiều cách nói khác nhau bao nhiêu thì khi chọn xong, càng có cái để làm giàu cho ngôn ngữ bấy nhiêu.

"Nhà văn tha hồ sáng tác ngôn ngữ. Chỉ miễn là đừng sáng tác trái với tinh thần dân tộc, trái với quy luật tiếng nói Việt Nam”.

Chế Lan Viên (“Ngôn ngữ của quần chúng và của nhà văn”)



(bài st)
 

VnKienthuc lúc này

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top