- Xu
- 458
Bài 18: Thăm Lam Kinh
Lam Kinh thuộc vùng rừng núi Lam sơn, nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, cách thành phố Thanh Hóa 52km về phía Tây Bắc.
Trong Bình Ngô Đại Cáo có đoạn:
“Ta đây chốn Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc chốc đà mười mấy năm trời.
Nếm mật nằm gai há phải một hai sớm tối”…
Sau ngày chiến thắng quân “cuồng Minh” (1428), Lam Kinh được gọi là Tây Kinh – kinh đô tưởng niệm các triều vua Lê trong những thế kỉ XV,XVI sau này.
Thành điện Lam Kinh , phía Bắc dựa vào Du Sơn ( núi Dầu ) ; phía nam nhìn ra song Chu, xa xa là núi Chúa, bên trái là rừng Phú Lâm; bên phải là núi Hương. Khu hoàng thành, cung điện, Thái miếu được xây dựng và bố trí theo trục nam bắc, trên một khoảng đất gò đồi có hình dáng giống chữ “ Vương” ( Hán tự). Mặt trước ngoài hoàng thành khoảng 100 mét còn lại dấu vết của cổng vào rộng trên ôm, hai bên có xây hai bức tường thành hình cánh cung kéo dài đến sát bờ sông Ngọc. Sông Ngọc là con sông đào , bắt nguồn từ Tây Hồ , chảy vòng qua trước hoàng thành và điện Lam Kinh.Bắc qua sông Ngọc là Tiên Loan Kiều, còn gọi là cầu Bạch. Qua cầu khoảng 50 mét thì đến một giếng cổ, bờ giếng phía bắc có lát bậc đá xanh lên xuống. gọi là bến nước.
Từ cầu Bạch đi vào là khu vực trung tâm của Lam Kinh được chia làm ba phần nằm trên ba bậc theo đế dốc của đồi: sân chầu, chính điện và trên cùng là Vĩnh Lăng ( lăng mộ Lê Lợi). Phía sau lăng là khu rừng cổ thụ kéo dài đến tận chân núi xa xa.
Lam Kinh sau gần 600 năm , hầu như đã trở thành phế tích. Chỉ còn lại một di tích khá nguyên vẹn, đó là bia Vĩnh Lăng do Nguyễn Trãi phụng soạn nói về gốc tích , sự nghiệp và công đức của Lê Lợi, người anh hùng Lam Sơn, nhà vua khai sang triều Lê trong thế kỉ XV. Bia Vĩnh Lăng được làm bằng đá trầm tích biển nguyên khối cao 2.79m, rộng 1,94m, dày 0,27m, ngự trên lưng một con rùa khổng lồ cũng làm bằng đá trầm tích biển nguyên khối, có chiều dài 3.46m, rộng 1,94m, cao 0,9m. Cho đến nay, đôi mắt rùa đá vẫn còn long lanh, mai rùa còn lưu lại nhiều dấu vết rõ nét vỏ áo các loài nhuyễn thể sống trong nước biển như trai, sò ,ốc… Nhà bia Vĩnh Lăng được xây trên một gò đất rộng, cao thoai thoải, cách lăng mộ Lê Lợi chừng 300m về phía Nam.
Ở Lam Kinh , ngoài Vĩnh Lăng ( lăng mộ Lê Lợi), hiện còn bảy lăng mộ khác của các vua và các bà hoàng hậu thời Lê, trong đó có lăng mộ Lê Thái Tông, Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Lê Túc Tông…
Khuôn viên Lam Kinh rộng khoảng 30 hecta, trong cỏ rậm và gò hoang, đâu đâu mắt thường cũng nhìn thấy bao dấu vết của một vương triều từng lừng lẫy trong lịch sử dân tộc.
Cách xa Lam Kinh về phía nam chừng 5km còn có đền Tép, thờ Lê Lai, người anh hùng đã xả thân cứu Chúa. Cho đến nay, ngày giỗ của Lê Lai và Lê Lợi vẫn được tổ chức vào tháng Tám âm lịch hằng năm đúng như câu ca lưu truyền; “ hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”
Lam Kinh đã và đang được phục dựng và trùng tu. Chốn Tây Kinh linh địa này sẽ trở thành một điểm đến du lịch hấp dẫn.
Theo Sách Văn kể chuyện lớp 5*
Lam Kinh thuộc vùng rừng núi Lam sơn, nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, cách thành phố Thanh Hóa 52km về phía Tây Bắc.
Trong Bình Ngô Đại Cáo có đoạn:
“Ta đây chốn Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc chốc đà mười mấy năm trời.
Nếm mật nằm gai há phải một hai sớm tối”…
Sau ngày chiến thắng quân “cuồng Minh” (1428), Lam Kinh được gọi là Tây Kinh – kinh đô tưởng niệm các triều vua Lê trong những thế kỉ XV,XVI sau này.
Thành điện Lam Kinh , phía Bắc dựa vào Du Sơn ( núi Dầu ) ; phía nam nhìn ra song Chu, xa xa là núi Chúa, bên trái là rừng Phú Lâm; bên phải là núi Hương. Khu hoàng thành, cung điện, Thái miếu được xây dựng và bố trí theo trục nam bắc, trên một khoảng đất gò đồi có hình dáng giống chữ “ Vương” ( Hán tự). Mặt trước ngoài hoàng thành khoảng 100 mét còn lại dấu vết của cổng vào rộng trên ôm, hai bên có xây hai bức tường thành hình cánh cung kéo dài đến sát bờ sông Ngọc. Sông Ngọc là con sông đào , bắt nguồn từ Tây Hồ , chảy vòng qua trước hoàng thành và điện Lam Kinh.Bắc qua sông Ngọc là Tiên Loan Kiều, còn gọi là cầu Bạch. Qua cầu khoảng 50 mét thì đến một giếng cổ, bờ giếng phía bắc có lát bậc đá xanh lên xuống. gọi là bến nước.
Từ cầu Bạch đi vào là khu vực trung tâm của Lam Kinh được chia làm ba phần nằm trên ba bậc theo đế dốc của đồi: sân chầu, chính điện và trên cùng là Vĩnh Lăng ( lăng mộ Lê Lợi). Phía sau lăng là khu rừng cổ thụ kéo dài đến tận chân núi xa xa.
Lam Kinh sau gần 600 năm , hầu như đã trở thành phế tích. Chỉ còn lại một di tích khá nguyên vẹn, đó là bia Vĩnh Lăng do Nguyễn Trãi phụng soạn nói về gốc tích , sự nghiệp và công đức của Lê Lợi, người anh hùng Lam Sơn, nhà vua khai sang triều Lê trong thế kỉ XV. Bia Vĩnh Lăng được làm bằng đá trầm tích biển nguyên khối cao 2.79m, rộng 1,94m, dày 0,27m, ngự trên lưng một con rùa khổng lồ cũng làm bằng đá trầm tích biển nguyên khối, có chiều dài 3.46m, rộng 1,94m, cao 0,9m. Cho đến nay, đôi mắt rùa đá vẫn còn long lanh, mai rùa còn lưu lại nhiều dấu vết rõ nét vỏ áo các loài nhuyễn thể sống trong nước biển như trai, sò ,ốc… Nhà bia Vĩnh Lăng được xây trên một gò đất rộng, cao thoai thoải, cách lăng mộ Lê Lợi chừng 300m về phía Nam.
Ở Lam Kinh , ngoài Vĩnh Lăng ( lăng mộ Lê Lợi), hiện còn bảy lăng mộ khác của các vua và các bà hoàng hậu thời Lê, trong đó có lăng mộ Lê Thái Tông, Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Lê Túc Tông…
Khuôn viên Lam Kinh rộng khoảng 30 hecta, trong cỏ rậm và gò hoang, đâu đâu mắt thường cũng nhìn thấy bao dấu vết của một vương triều từng lừng lẫy trong lịch sử dân tộc.
Cách xa Lam Kinh về phía nam chừng 5km còn có đền Tép, thờ Lê Lai, người anh hùng đã xả thân cứu Chúa. Cho đến nay, ngày giỗ của Lê Lai và Lê Lợi vẫn được tổ chức vào tháng Tám âm lịch hằng năm đúng như câu ca lưu truyền; “ hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”
Lam Kinh đã và đang được phục dựng và trùng tu. Chốn Tây Kinh linh địa này sẽ trở thành một điểm đến du lịch hấp dẫn.
Theo Sách Văn kể chuyện lớp 5*
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: