PHƯƠNG PHÁP THUYẾT GIẢNG VỚI DẠY VĂN THEO TINH THẦN ĐỔI MỚI
Xin chớ ai cho tôi là người vẽ chuyện. Thuyết trình, thuyết giảng đối với giáo viên văn thì liệu có điều gì đáng nói? Theo quan niệm thông thường, người thầy dạy văn nói bao giờ chẳng cần phải hấp dẫn. Vậy tôi bàn tới chuyện cũ như trái đất này để làm gì nếu không thật cần thiết và cấp thiết.
Nguyên do tại bởi từ ngày thực thi đổi mới về nội dung và phương pháp ở các cấp học, nói tới dạy văn (nhất là giảng văn) ta thường nghe thấy lời khẳng định đại loại rằng phương pháp thuyết giảng đã cũ mèm rồi, cần loại nó ra khỏi tiến trình đổi mới cách thức giảng dạy; rằng ai mà kiên trì thực thi phương pháp này là kẻ lỗi thời, không quán triệt được tinh thần đổi mới, rồi họ sẽ bị đào thải, nếu không thì cũng bị tự đào thải; rằng dạy văn hay đâu phải ở chỗ nói làm sao cho người học cứ há hốc mồm lên mà nghe, hay là ở khả năng biết đặt những câu hỏi có vấn đề, động vào trí não của người học, đặc biệt là những câu hỏi mang sức khơi gợi lớn, chỉ đường cho học sinh tự đến… Những người này quả cũng có lý lẽ riêng; không phải nhận xét của họ hoàn toàn bâng quơ. Lối thông tin mang tính áp đặt một chiều càng ngày càng trở nên lạc lõng trong sinh hoạt tư tưởng, học thuật của thời hiện đại. Trong khi phổ biến nơi trường học lại là phương pháp thuyết trình đơn điệu, không chú ý tới đối thoại, tranh biện, phản hồi, mà gốc gác sâu xa là ở chỗ không đoái hoài tới người nghe - nhận thức, phản ứng, sự tiếp thu của họ. Thời dân chủ rất kị lối sinh hoạt văn hóa kiểu ấy. Học đường cũng không thể đứng ngoài. Nếu có ai mặc cảm với phương pháp thuyết giảng cũng là phải nhẽ. Ấy là chưa nói tới quan niệm sơ sài, thô thiển về cái hay đích thực của lời dạy văn, giảng văn. Đâu phải cứ dẻo mồm, xảo ngôn là đủ. Phải nắm vững điều mình cần nói; phải biết rõ người nghe mình là ai, họ cần gì; lại phải biết làm chủ lời nói của mình… Nói hay, ít nhất là ở tầm cao, vì vậy đâu phải ở chỗ óng mượt, giàu hình ảnh; đâu phải chỉ thuận tai, lên bổng xuống trầm, ngọt ngào và giàu cảm xúc… Tuy nhiên, có một thực tế khác, những người có đôi ba năm trong nghề đều rõ, là những giáo viên văn giỏi (nhất là ở bậc phổ thông) không ai là không nói năng lưu loát, khúc chiết, chặt chẽ. Ngôn ngữ là công cụ trực tiếp của tư duy. Trước khi nói ra lời người ta đã nghĩ trong đầu. Không ai nói sâu sắc mà lại nghĩ (cũng bằng ngôn ngữ) lại hời hợt cả. Không phải vô cớ mà khi muốn hiểu người khác thì một trong những cách thức hữu hiệu là nghe người ấy trực tiếp trình bày những suy nghĩ và cảm xúc đang diễn ra. Ngôn ngữ phản ánh bề dày văn hóa, và rộng ra là trình độ hiểu biết, tâm thế của mỗi người. Người thường đã thế, người dạy văn lại càng thế. Vì dạy văn là dạy văn chương, dạy văn học. Văn chương là nghệ thuật ngôn từ. Người dạy văn giỏi phải biết cách truyền đạt cái hay của văn chương bằng chính phong cách văn chương. Anh ta không thể không giàu có về ngôn ngữ, không thể không biết mê hoặc người khác bằng ngôn từ.
Vậy có chăng chỉ nên bàn về thuyết trình, thuyết giảng như là một phương pháp giảng dạy, chứ không đơn thuần chỉ là cách thức trình bày ý tưởng và bộc lộ cảm xúc. Phương pháp dạy học được hiểu là cách thức truyền đạt nội dung tri thức tới người học, bao giờ cũng bị chi phối bởi hai yếu tố sau: Một là: đối tượng (người học); Và hai là: nội dung (chương trình học). Có người thêm yếu tố mục tiêu giảng dạy. Tôi nghĩ, nói tới nội dung thực chất là đã nói tới sự quán triệt mục tiêu trong nội dung rồi.
Từ đối tượng và nội dung ta điều chỉnh cách nói cho phù hợp. Nhiều giáo viên văn không chú ý nắm bắt đối tượng nên dầu tri thức khá rộng, khả năng “uốn lưỡi” không thua kém ai mà vẫn cứ thất bại như thường. Khi tự biết lại thêm một lần chua chát. Đúng hơn là ngao ngán. Có lẽ không một giáo viên văn nào lại không từng nếm trải sự thất bại kiểu ấy. Dạy văn nhất là giảng văn khó là vì thế! Đối tượng giảng dạy muôn vẻ, lại luôn thay đổi. Không nói gì tới các tộc người hay các vùng miền. Riêng ở một trường thôi cũng khác rồi. Phương pháp dạy học hiện đại không cho phép người dạy hình dung đối tượng một cách chung chung. Phải quan tâm đến từng cá nhân học sinh. Mỗi người mỗi tính mỗi nết. Sự hiểu biết từng trải cũng rất khác nhau. Không thể có một người nghe trừu tượng. Cái khó đồng thời là cái kỳ diệu của dạy văn là vậy. Nay mai có thể sẽ xuất hiện những người máy siêu việt, làm được mọi chuyện, nhưng chắc chắn sẽ không thay thế người viết văn làm thơ cùng người dạy văn dạy thơ được. Giảng dạy một cách máy móc không bao giờ thích hợp với đời sống học đường và đời sống văn chương sống động, tinh tế, luôn có những đổi thay nhất định theo dòng chảy của cuộc sống. Người thầy giỏi phải nắm bắt được sự đổi thay ấy để điều chỉnh cách thức giảng dạy cho phù hợp.
Mà trước hết là phù hợp với nội dung cần truyền đạt. Nội dung giảng dạy văn học là một vấn đề rộng. Tôi chỉ bàn đến sự thống hợp của nội dung với cách thức truyền đạt. Nhưng chớ quên cảm xúc trong quan niệm về nội dung. Xin được lưu ý, tri thức văn học không thể không tính đến cảm xúc văn chương. Đặc thù của văn chương, của văn học là thế. Cố nhiên, đây là sự cảm hiểu, hiểu và cảm thâm nhập, chuyển hoá rất tinh tế, chứ không phải là duy cảm, cũng không phải là duy lý. Cảm mạnh đi liền với hiểu sâu, hiểu đủ (tôi không nói hiểu rộng, vì tri thức văn học là không cùng). Và hiểu sâu, hiểu đủ lại nâng cảm xúc lên một mức. Học sinh vừa được rung động lại vừa được thức tỉnh. Đúng hơn là rung động trong sự thức tỉnh. Tri thức văn học ám ảnh người ta, thấm thía người ta bởi vì lẽ đó. Theo sự dẫn dắt của nội dung cùng sự chi phối của đối tượng mà lời giảng cần phải nhiều sắc màu, nhiều cung bậc. Tẻ nhạt nhất chính là sự đơn điệu. Cuộc sống đâu thế, người nghe đâu thế, và văn chương đâu có thế! Vậy là lời giảng của người thầy có khi óng mượt có lúc thô mộc; có khi trầm tĩnh có lúc sôi động; có khi nhanh có lúc chậm; có khi theo giọng kể có lúc theo kiểu giảng giải; có khi nghiêm cẩn có lúc hài hước. Rất nhiều khi im lặng với ý nghĩa là vàng. Ở đây nảy sinh ra một câu hỏi: người dạy khi cần có nên như là một diễn viên? Tôi ủng hộ câu trả lời khẳng định. Ngôn từ văn chương nhất là ngôn từ thi ca vốn đã là thế kia mà! Nó cho phép sự cách điệu về âm thanh, sự cường điệu về ý nghĩa, sự cảm hóa cao độ lòng người. Nghe giảng văn chương, văn học người ta sẽ tự nhiên mà chấp nhận. Cũng như người xem kịch phải tự nhiên mà chấp nhận những gì diễn ra trên sân khấu vốn là ước lệ vậy. Chỉ ai ngớ ngẩn mới tự đặt câu hỏi: liệu những gì diễn ra trong nghệ thuật có thật hay không? Vậy là chỉ còn lại nghệ thuật diễn giảng sao cho thật sinh động, thật tự nhiên. Sự cuốn hút, sức thuyết phục người nghe cũng tự nhiên mà có. Cái khó khác của thuyết giảng như một phương pháp dạy học là phải tuân thủ đôi khi đến mức khe khắt về thời lượng. Ở phổ thông thì quá rõ. Ở đại học thoải mái hơn nhưng cũng không thể vô hạn độ. Sự bó buộc nào cũng gây nên khó chịu. Có điều ở đời đâu có thể tuyệt đối. Huống chi lại ở nhà trường, nơi mọi thứ, từ nội dung đến phương pháp, từ tổ chức đến giờ giảng đều phải chịu sự chi phối nhất quán của mục tiêu đào tạo. Mà lời nói muốn hay lại phải trôi chảy tự nhiên, không bị gò bó. Vậy là người dạy văn cần luyện khả năng biết nhấn, biết dừng ở trọng tâm, trọng điểm. Một cách rất tự nhiên kia! Ban đầu sự gò bó về thời gian có thể gây nên nhiều khó chịu. Dần dà quen đi, đỡ khó chịu hơn. Người dạy lâu năm khác giáo viên trẻ mới chập chững vào nghề trước hết ở điểm này. Anh ta không cảm thấy kỷ luật, kỷ cương ngáng trở mình. Thành thói quen, anh ta tuân thủ chúng một cách nghiêm ngặt như cuộc sống vốn là thế, dạy văn cần phải thế. Với các môn học khác, người ta ít đặt ra. Với môn văn, người ta nói tới nhiều hơn. Bởi dạy văn rất cần cảm xúc. Sự ràng buộc dễ gây nên ức chế về cảm xúc. Mà đã ức chế thì hay sao nổi!
Sự phân bổ về thời lượng trong một bài giảng một giờ giảng tuỳ thuộc ở mức độ quan trọng của chúng trong việc giáo dục, giáo dưỡng và rèn luyện kỹ năng. Ví như một dòng sông, có đoạn êm đềm, có đoạn chảy xiết, thậm chí có đoạn chẽ ra thành nhiều nhánh tạo nên những cánh đồng giàu chất phù sa. Người dạy văn giỏi không thể không ý thức được điều đó. Lời nói phải mang tính hành động cao. Tính hành động ấy của lời nói lại phải quán triệt tới từng khâu của bài giảng, từng chặng của giờ giảng. Hệ thống bài giảng mang tính hành động làm nên chương trình giảng dạy nhất quán nhằm thực thi mục tiêu giảng dạy – một mục tiêu toàn diện như ý của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khi bàn về việc dạy văn. Mức độ thành công của dạy văn tuỳ thuộc ở ý thức đó của người thầy. Tưởng như vô tình lại hoàn toàn cố ý. Đấy là khoa học đồng thời là nghệ thuật – nghệ thuật truyền thụ, cao hơn là nghệ thuật giảng dạy. Chất lượng của một giờ dạy văn có được từ đó. Để tạo nên sức mạnh của lời nói, nhiều người hay nhấn mạnh tới nhiệt huyết của người giảng. Làm gì, muốn có hiệu quả cũng phải làm hết lòng. Huống chi, đây lại là văn chương, văn học. Thử hỏi người nghe làm sao có thể quan tâm tới những lời nói không xuất phát từ đáy lòng, không nảy ra từ những mối quan tâm lớn. Sức mạnh của lời nói tuỳ thuộc ở chỗ lời nói ra có thật sự nghĩa lý, thật sự bổ ích hay không. Từ đó mà người thầy dạy văn truyền cho sinh viên lòng đam mê sống, tự giác tích luỹ tri thức, tự nguyện hiến mình cho lẽ sống cao đẹp. Cần đặt trái tim mình vào từng lời giảng. Ở đây, tâm thế của người nói mang ý nghĩa quyết định. Chuẩn bị một giờ dạy văn khó nhất là sự chuẩn bị tâm thế. Có được tâm thế tốt, sự thành công của giờ dạy văn đã được đảm bảo tới 90%. Chuẩn bị tâm thế không dễ. Tuỳ thuộc nhiều ở khả năng làm chủ kiến thức, làm chủ tình huống. Nói gọn lại là cần bản lĩnh của người thầy. Bản lĩnh có được từ sự tích luỹ dần dần, trong nhiều năm, về mọi mặt, như tư tưởng, tri thức, phương pháp tư duy, kỹ năng sử dụng ngôn từ… Có được bản lĩnh cao cường như thế sẽ như một cái cây đứng thẳng, vững vàng, không sợ bão táp, mưa sa. Ở bất cứ hoàn cảnh nào, với bất kỳ bài giảng nào, người thầy cũng có thể tự tin, ung dung và điềm tĩnh. Lời nói khi ấy mới có hiệu quả cao. Chừng như không phải gắng sức gì nhiều mà lại tìm được lời lẽ thích hợp, đi thẳng vào tâm trí người nghe. Đây chính là ước muốn da diết, ước muốn thường trực của hết thảy những giáo viên văn chúng ta.
PGS. TS. Phạm Quang Trung
Trường Đại học Đà Lạt