PHONG TRÀO ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC Ở VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX
Thế kỷ XVII - XVIII, Châu Âu đã đi vào chủ nghĩa tư bản, nhưng Châu Á vẫn đang trong chế độ phong kiến. Xã hội Việt Nam cũng vậy, chế độ phong kiến vẫn đè nặng lên con người; nền nông nghiệp lạc hậu, kinh tế tự cung, tự cấp, bộ máy vương triều Nguyễn ngày càng mục nát lún sâu vào con đường khủng hoảng trầm trọng, không còn đại diện cho lợi ích của dân tộc như các triều đại Lý, Trần, Lê,… trước đây..
Trước tình hình đó, năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta, Nhà Nguyễn lún dần từng bước, rồi đầu hàng thực dân Pháp. Sau khi hoàn thành chiến tranh xâm lược và bình định, thực dân Pháp đẩy mạnh khai thác thuộc địa và dần dần làm chuyển hoá xã hội nước ta, từ xã hội phong kiến thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Dưới thời thuộc Pháp, cơ cấu xã hội - giai cấp ở Việt Nam có nhiều thay đổi, xuất hiện thêm nhiều lực lượng mới, đặt nền móng cho sự tiếp nhận giá trị đích thực của các nền văn minh và các bài học kinh nghiệm của thế giới. Do vậy, tính chất và nội dung các cuộc đấu tranh của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp và tay sai đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của các trào lưu tư tưởng tiến bộ, đặc biệt là sự sôi động của phong trào cách mạng thế giới sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi.
I. Những điều kiện lịch sử tác động tới sự chuyển biến phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX.
1. Điều kiện kinh tế - Văn hoá xã hội
Từ Hiệp ước đầu hàng mà nhà Nguyễn ký với Pháp vào những năm 1883-1884, sự chấm dứt của phong trào Cần Vương đến cuộc hoà hoãn của nghĩa quân Hoàng Hoa Thám, thực dân Pháp tự coi như đã căn bản hoàn thành việc xâm lược và bình định nước ta. Chúng bắt đầu thực hiện công cuộc khai thác thực dân, tiến hành vơ vét lợi nhuận ở Đông Dương trên quy mô ngày càng lớn.
a. Chính sách kinh tế của thực dân Pháp
- Việt Nam là nước giàu tài nguyên, nhân công sẵn, nhưng phương tiện sản xuất rất lạc hậu. Vì vậy, để bóc lột được lợi nhuận tối đa ở thuộc địa, Pháp thi hành một chính sách kinh tế thực dân rất phản động, đó là: Duy trì phương thức sản xuất phong kiến kết hợp với việc thiết lập một cách hạn chế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Để khai thác được nhiều tài nguyên, Pháp đã đẩy mạnh đầu tư vào Đông Dương với tổng số vốn tương đương 5 tỷ đồng Đông Dương (1858-1945). Các ngành mà Pháp đầu tư nhiều nhất là giao thông vận tải, kinh tế mỏ, đồn điền, xây dựng và sản xuất hàng tiêu dùng. Để đảm bảo lợi nhuận tối đa, chính quyền Pháp thực hiện thủ đoạn độc quyền về kinh tế trong các ngành công nghiệp nặng, giao thông vận tải, các mở có trữ lượng lớn, chiếm đất làm đồn điền,… Pháp còn thiết lập hệ thống ngân hàng, độc quyền phát hành giấy bạc và cho vay nặng lãi, ngân hàng Đông Dương có trụ sở chính ở khắp các thành phố lớn. Chính quyền thực dân không từ bỏ bất kỳ chính sách bóc lột nào, kể cả những hình thức bóc lột kinh tế thời Trung cổ. Hậu quả của chính sách độc quyền về kinh tế và chính sách thuế khoá nặng nề làm cho đa số nông dân mất dần ruộng đất, đời sống vô cùng cực khổ.
b. Chính sách chuyên chế về chính trị.
Để đảm bảo thu lợi nhuận tối đa, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị trực tiếp và thẳng tay đàn áp, không cho dân ta một chút quyền lợi nào. Quyền hành không chỉ tập trung trong tay các viên quan cai trị người Pháp mà chúng còn có cả quân đội, cảnh sát, toà án để đàn áp, bắt bớ xét hỏi. Chúng còn sử dụng giai cấp địa chủ phong kiến và tầng lớp tư sản mại bản làm cơ sở xã hội, chỗ dựa cho chế độ cai trị thuộc địa. Chúng còn thực hiện chính sách chia để trị nhằm làm suy yếu dân tộc Việt Nam. Chúng chia cắt nước ta làm 3 kỳ, với 3 chế độ cai trị khác nhau. Bắc kỳ và Trung kỳ là 2 xứ bảo hộ vẫn giữ lại chính quyền phong kiến về hình thức; Nam kỳ là thuộc địa do Pháp nắm, thực chất của chế độ cai trị ở 3 kỳ là chế độ thuộc địa. Người Việt Nam muốn đi lại trong Nam ra Bắc, vào Trung phải xin giấy phép như ra nước ngoài. Thực dân Pháp còn chia rẽ các dân tộc Đông Dương, chia rẽ nhân dân thuộc địa với nhân dân Pháp, chia rẽ các thuộc địa với nhau.
c. Chính sách về văn hoá - giáo dục
Thực hiện chính sách văn hoá nô lệ gây tâm lý vong bản, tự ti và thủ đoạn phát triển tôn giáo, mê tín dị đoan để mê hoặc nhân dân, thực dân Pháp ra sức ngăn chặn mọi ảnh hưởng của nền văn hoá tiến bộ Pháp vào Việt Nam, đem văn hoá phản động, truỵ lạc nhồi sọ nhân dân nhằm làm cho dân ngu để dễ cai trị, đó là chính sách các nhà cầm quyền Pháp ưa dùng nhất ở các nước thuộc địa.
Về giáo dục thực dân Pháp đã mở một số trường, bắt đầu là trường Thông Ngôn. Trong 6 năm đầu tiên (1861- 1867), cả Đông Dương có 47 trường với 1288 người theo học. Để kiểm soát tình hình, năm 1874 Pháp ra nghị định ban hành quy chế giáo dục, hạn chế mở trường tư, bãi bỏ dạy chữ quốc ngữ ở làng, chỉ tập trung dạy ở 6 trường Sài Gòn, Chợ Lớn, Mỹ Tho.
Để tuyên truyền cho chính sách thực dân, một số tờ báo bản xứ đã được xuất bản ở Sài Gòn và Hà Nội như Nam Trung Nhật Báo, Lục Tỉnh Tân Văn, Đại Việt tân báo, Đại Việt công báo, Nông Cổ mín Đàn,… nói chung mọi cố gắng về văn hoá giáo dục thời kỳ này là hướng tới việc thiết lập một nền giáo dục Tây phương nhằm đào tạo một lực lượng công chức, nhân viên cần thiết cho guồng máy chính trị và khai thác thực dân.
2. Cơ cấu xã hội mới và thái độ của các giai cấp trước vấn đề dân tộc.
Hậu quả của cuộc khai thác thuộc địa cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đã làm cho xã hội Việt Nam bắt đầu có sự phân hoá về giai cấp. Giai cấp địa chủ được thực dân Pháp nâng đỡ nên thế lực kinh tế và chính trị của giai cấp đã tăng lên. Ngoài địa chủ Pháp, địa chủ nhà thờ, địa chủ quan lại, địa chủ thường, còn xuất hiện thêm các địa chủ kiêm công thương. Địa chủ Việt Nam phát triển hơn trước trở thành chỗ dựa đắc lực cho thực dân Pháp trong công cuộc khai thác thuộc địa và duy trì trật tự xã hội
Giai cấp nông dân là giai cấp cũ chiếm tới 90% dân số, đại bộ phận là mù chữ, họ bị bóc lột hết sức tàn tệ cho nên khối căm phẫn trong họ không ngừng phát triển.
Giai cấp công nhân là giai cấp mới được hình thành trong lòng chế độ tư bản chủ nghĩa. Những công trường, xí nghiệp mọc lên thu hút đông đảo số lượng công nhân, năm 1909, tổng số công nhân toàn quốc lên đến 550.000 người. Làm việc trong guồng máy tư bản chủ nghĩa, kỹ thuật hiện đại, có tinh thần đấu tranh chống kẻ thù chung... Công nhân Việt Nam đã có các điều kiện cần và đủ để hình thành giai cấp. Tuy vậy, thời kỳ này công nhân nước ta đang còn ở giai đoạn tự phát.
Ngoài ra, đầu thế kỷ 20 còn xuất hiện tầng lớp tư sản và tiểu tư sản thành thị. Vì bị thực dân Pháp chèn ép nặng nề, tư sản Việt Nam phát triển chậm chạp về mọi mặt chưa đủ điều kiện để hình thành một giai cấp. Tuy vậy, sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa nói chung và sự lớn lên của tầng lớp tư sản dân tộc nói riêng đã trở thành cơ sở thuận lợi cho sự tiếp thu các trào lưu tư tưởng cách mạng từ bên ngoài dội vào.
3. Ảnh hưởng tích cực của cách mạng thế giới tới phong trào giải phóng dân tộc
Thế kỷ 19, sự phát triển vượt bậc về kinh tế, kỹ thuật đã giúp cho tư sản Pháp trong nước có điều kiện để mở rộng việc cướp đoạt thị trường thế giới. Để thực hịên việc này, tư sản Pháp đã sử dụng các giáo sĩ làm công cụ, họ khoác lên mình áo tôn giáo để tiến hành truyền bá gây cơ sở trong nhân dân, chuẩn bị cho hành động xâm lược trước khi thời cơ đến. Nhưng cùng với việc xâm nhập của các giáo sĩ, khoa học kỹ thuật phương Tây cũng bước đầu được giới thiệu ở Việt Nam . Vì vậy, đã có một số người yêu nước thức thời thấy được sức mạnh của văn minh học thuật phương Tây nên đã đột phá hàng rào "Bế quan toả cảng" của nhà Nguyễn, sẵn sàng tiếp nhận những tiến bộ của thế giới để cứu nước như: Nguyễn Trường Tộ, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Lộ Trạch, Phan Bội Châu.
Những cuộc gặp gỡ, bút đàn với các chính khách Trung Quốc, Nhật Bản đã tạo ra sự nhất trí trong giới sĩ phu yêu nước về việc chuyển mục tiêu xuất dương cầu viện sang xuất dương cầu học. Bước chuyển đó đã tạo nên một không khí cách mạng sôi nổi. Phong trào Đông Du lan rộng khắp Bắc, Trung, Nam và việc ra đời của Đông Kinh nghĩa thục (1907) đã thúc đẩy mạnh mẽ cuộc cách mạng dân trí và phong trào chống thuế ở Trung kỳ (1908), các sĩ phu Đông Du vẫn không được chính quyền Nhật giúp đỡ và cuối cùng chính phủ Nhật đã trục xuất những người Việt Nam yêu nước ra khỏi đất Nhật theo đề nghị của Pháp.
Ngoài tác động của các sự kiện từ Nhật Bản, thời kỳ này gồm có các sự kiện xảy ra tại Trung Hoa. Đối với nước ta Trung Hoa không chỉ là đồng văn, đồng chủng, mà còn là nước cùng cảnh ngộ, ảnh hưởng Nho giáo Trung Quốc ở Việt Nam hết sức sâu đậm. Thời kỳ này nhiều tác phẩm của phái cấp tiến Trung Quốc đã đưa vào Việt Nam với nhiều nhân vật nổi tiêng như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu với nhiều cải cách mới mẻ và tiến bộ. Tuy nhiên các cuộc cải cách đó cũng dần dần đi vào thất bại, Khang Hữu Vi - Lương Khải Siêu bị truy nã phải chạy sang Nhật. Các cuộc đấu tranh nói trên đã dẫn tới cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) của giai cấp tư sản do Tôn Trung Sơn lãnh đạo. Cuộc cách mạng này như Lênin đánh giá "đã kết thúc chế độ phong kiến tồn tại hai nghìn năm đưa quan niệm dân chủ cộng hoà vào sâu trong tận đáy lòng mọi người".
Đối với Việt Nam những sự kiện trên đã ảnh hưởng mạnh mẽ và tạo điều kiện khách quan thuận lợi cho phong trào Duy Tân nảy nở.
Cuối cùng sự chuyển biến của phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 20 chịu ảnh hưởng sâu sắc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) và chủ nghĩa Mác- Lênin. Những tư tưởng này mới được lĩnh hội theo con đường Tây Âu, theo bước chân của Nguyễn Ái Quốc. Từ cuộc sống thực tế, thông qua việc hoạt động trong các tổ chức xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã đọc sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc đia của Lênin, từ đó hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế cộng sản.
Sau khi Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên ra đời chủ nghĩa Mác - Lênin đã ảnh hưởng sâu rộng đến phong trào yêu nước, làm thay đổi nhận thức trong giới tiểu tư sản, trí thức, học sinh và chính họ đã chuyển tải tư tưởng đó vào phong trào công nhân làm cho phong trào đấu tranh của họ từ tự phát sang tự giác. Chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành hệ tư tưởng cách mạng duy nhất lãnh đạo toàn bộ phong trào công nhân. Chủ nghĩa Mác - Lênin còn là tư tưởng chỉ đạo phong trào yêu nước từ năm 1921đến 1930, nhất là năm 1925 trở đi, chủ nghĩa Mác - Lênin từ chỗ là hệ tư tưởng có ảnh hưởng lớn đã đi tới chỗ là hệ tư tưởng lãnh đạo phong trào yêu nước.
II. Diễn biến của phong trào yêu nước, đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 20
Độc lập dân tộc và canh tân đất nước luôn là khát vọng của người Việt Nam. Mục đích, lý tưởng ấy đã thôi thúc các thế hệ Việt Nam chiến đấu quên mình, vượt qua mọi thử thách để vươn lên tìm con đường cứu nước đúng đắn. Sự chuyển biến của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trong những năm đầu của thế kỷ 20 phản ánh nhịp độ phát triển nhanh chóng về chính trị của các tổ chức cách mạng, cũng như của các hình thái biểu hiện.
1. Con đường cứu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam (1914 -1925)
Tuy cùng trong một điều kiện lịch sử, nhưng trong vịêc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc đầu thế kỷ 20 lại xuất hiện hai xu hướng tiêu biểu khác nhau: Xu hướng cải lương của Phan Chu Trinh và xu hướng vũ trang bạo động của Phan Bội Châu. Phan Bội Châu và các đồng chí của ông đã đưa ra nhiều lý do để chứng minh rằng muốn rửa nhục mất nước thì chỉ có con đường chuẩn bị lực lượng, cầm vũ khí đánh đuổi bọn thực dân Pháp xâm lược.
Bất chấp các thất bại liên tiếp, Phan Bội Châu và các sĩ phu vẫn tin vào tưởng lai của dân tộc Việt nam, vào thắng lợi cuối cùng của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Do vậy, việc làm đầu tiên là phải rèn đúc ý chí. Phan Bội Châu và các cộng sự đã cùng thống nhất vạch ra kế hoạch lớn với mục tiêu là: Đánh giặc phục thù, cốt sao khôi phục được nước Việt Nam, lập ra một Chính phủ độc lập, ngoài ra chưa có chủ nghĩa gì khác. Tư tưởng này đã được Phan Bội Châu đưa vào cương lĩnh hoạt động của Duy Tân hội (1904). Sau chuyến đi Nhật lần đầu tiên vào năm 1905, phong trào Đông Du được phát động với mục đích tạo ra nhân tài, dân trí, dân khí. Nhiều Tân thư, Tân văn và các tác phẩm tuyên truyền, cổ động đã được đưa về nước.
Cùng thời gian với phong trào Đông Du còn có cuộc vận động "Văn minh Tân học" mà Đông Kinh nghĩa thục và phong trào chống thuế ở Trung Kỳ là tiêu biểu. Cả hai phong trào này có quan hệ gần gũi với Duy Tân hội. Đông Kinh nghĩa thục hoạt động như một tổ chức cách mạng thực sự. Trường không chỉ dạy chữ, truyền thụ kiến thức thông thường mà còn tuyên truyền, phổ biến chủ nghĩa yêu nước. Đông Kinh nghĩa thục chống nền giáo dục cũ với những tín hiệu của Hán nho, Tống nho. Chữ Quốc ngữ được đề cao, lòng yêu nước được kích động, thuyết Thiên mệnh của Nho giáo bị đả phá, những phong tục tập quán lạc hậu bị lên án.
Tuy nhiên, mọi cố gắng của Phan Bội Châu cùng các cộng sự đều không đem lại kết quả như mong muốn vì thiếu một giai cấp tư sản dân tộc lãnh đạo. Do không lường hết được những thủ đoạn đen tối của bọn thực dân và phong kiến tay sai, cùng với những nỗi đau trước nhiều thất bại liên tiếp của phong trào nên Phan Bội Châu đã phạm một sai lầm đáng tiếc đó là việc cụ bày tỏ quan điểm hợp tác Pháp - Việt với toàn quyền Đông Dương trong "Pháp - Việt đề huề chính kiến thư". Ngày 11/5/1925, chúng đã mai phục ở sân ga Thượng Hải để bắt cóc cụ Phan đưa về nước với âm mưu bí mật thủ tiêu và nếu không có người phát hiện sớm thì chúng đã thủ tiêu cụ.
Trước sự bế tắc của các cuộc đấu tranh vũ trang chống Pháp, Phan Chu Trinh - người bạn thân của Phan Bội Châu muốn mở một lối thoát cho phong trào dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Ông không theo con đường mà Phan Bội Châu và Hoàng Hoa Thám đã đi lúc bấy giờ mà chủ trương thông qua con đường cải cách - canh tân đất nước Việt Nam bằng việc sử dụng giá trị tinh thần tư tưởng tiến bộ của cuộc Đại Cách mạng Pháp năm 1789. Trong cuộc đời hoạt động của mình, Phan Chu Trinh đã viết các tác phẩm như: Thư gửi Chính phủ Đông Dương (1906); Thư gửi Hội nhân quyền (1911); Tây Hồ thi tập (1925)… Tất cả đều thể hiện một tinh thần khảng khái, bất khuất, yêu nước nồng nàn. ông chủ trương bãi bỏ chế độ quân chủ, thực hiện dân quyền, khai thông dân trí, mở mang thực nghiệp. Ông muốn lợi dụng chiêu bài khai hoá của thực dân Pháp để đấu tranh hợp pháp. Tháng 7/1904, Phan Chu Trinh gặp Phan Bội Châu, nhưng khác với số đông sĩ phu đương thời, ông cho rằng: trước mắt chưa nên đặt vấn đề khôi phục chủ quyền quốc gia; đặc biệt càng không nên chủ trương bạo động (bạo động tắc tử) mà nên tập trung vào 3 nhiệm vụ đó là: Chấn dân khí; Khai dân trí; Hậu dân sinh. Chủ trương đó trước hết được các sĩ phu hưởng ứng như Huỳnh thúc Kháng, Trần Quý Cáp.
Đầu thế kỷ 20, Pháp đã tăng cường đầu tư vào Đông Dương. Phan Chu Trinh không hiểu được rằng những kết quả đầu tiên ấy (như báo cáo của P.Đume gửi về Pháp ngày 22/2/1902) đang "làm rạng rỡ văn minh nước Pháp, lại còn tán dương những việc làm của bọn thực dân. Phan Chu Trinh đã chân thành dốc hết tâm sức vào con đường cải lương cứu nước và đã góp phần quan trọng vào phong trào Duy Tân đầu thế kỷ 20 ở nước ta. Nhưng ông không hiểu được rằng những tư tưởng tiến bộ trong cuộc Đại Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỷ 18 đã bị chính con cháu của cuộc Đại Cách mạng đó bỏ rơi. Tư tưởng nhân quyền và dân quyền, khẩu hiệu tự do bình đẳng và bác ái chỉ còn là một thứ bánh vẽ đã và đang bị lợi dụng để phục vụ cho giai cấp tư sản Pháp đi nô dịch các dân tộc nhỏ, yếu và gây chiến tranh nhằm tìm kiếm các nguồn lợi nhuận trên thế giới.
Dẫu bị hạn chế về tư tưởng, nhưng tấm lòng yêu nước của Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu đã thúc giục nhiều thanh niên một thời ngưỡng mộ những chính sách, bài giảng và những tác phẩm đầy nhiệt huyết của hai cụ để xích lại gần nhau hơn trên con đường chống chế độ thực dân. Chính các ông đã phối thêm sinh khí của luồng tư tưởng dân chủ tư sản, ít nhiều làm rõ thêm yêu cầu chống chế độ phong kiến thối nát - một vấn đề lịch sử có tính thời đại mới được đặt ra trong xã hội Việt Nam
2. Sự chuyển hoá của các tổ chức yêu nước theo khuynh hướng cộng sản và hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam thành một chính đảng duy nhất.
Trước khi xuất hiện phong trào cộng sản, các hoạt động mang màu sắc Duy Tân của phong trào do Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và các sĩ phu yêu nước đã có sức lôi cuốn mạnh mẽ đông đảo các tầng lớp nhân dân. Đặc biệt, phong trào đó đã không ngừng vươn tới những giá trị đích thực của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Các tổ chức có cội nguồn từ Duy Tân hội, Phục Việt, Tâm Tâm xã đã thừa nhận vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Họ hăng hái chuyển hoá theo khuynh hướng cộng sản.
Bằng con đường lao động cực nhọc, làm phương tiện và biện pháp để đi tìm chân lý, Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện một cuộc hành trình dài ngày qua nhiều nước trên thế giới như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, An giêri… từ Địa Trung Hải qua kênh đào Xuye, Biển Đỏ, đến Ấn Độ Dương rồi Đại Tây Dương, đặt chân trên nước Mỹ, sang Anh rồi trở lại Pháp… Người đã chứng kiến tội ác chồng chất của chủ nghĩa thực dân, Người cũng đã nếm trải chia sẻ và những khổ đau của nhân loại trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Trong suốt 10 năm ôm khát vọng "Độc lập cho Tổ quốc tôi, hạnh phúc cho đồng bào tôi", đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin - một học thuyết khoa học và cách mạng của thời đại. Người nói: "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin". Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng những vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và những kinh nghệm của cách mạng thế giới vào thực tiễn cách mạng Việt Nam để hình thành Con đường Cách mệnh. Con đường này đã được Tân Việt cách mạng đảng sớm thừa nhận. Tháng 6 - 1925, tại Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc đã cải tổ Tâm Tâm xã - một tổ chức yêu nước nhưng thiếu tôn chỉ, mục đích rõ ràng, hành động lại manh động thành một tổ chức cách mạng mới lấy tên là "Hội Việt Nam cách mạng thanh niên", có hạt nhân là "Cộng sản đoàn" để hướng tổ chức này đi theo con đường cách mạng vô sản. Nguyễn Ái Quốc đã đào tạo được một đội ngũ cán bộ rất đông đảo, bước đầu giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin. Cùng lúc đó, phong trào công nhân trong nước đang có sự chuyển biến về chất. Biểu hiện ở chỗ số lượng các cuộc bãi công ngày càng tăng. Phong trào lên cao đòi hỏi tổ chức lãnh đạo cũng phải cao hơn mới đủ sức lãnh đạo phong trào. Từ đó dẫn đến một cuộc đấu tranh gay gắt trong nội bộ của hai tổ chức Thanh niên và Tân Việt, để phá vỡ các tổ chức này làm xuất hiện 3 tổ chức cộng sản và tổ chức tiền thân của Đảng: Đông Dương Cộng sản đảng (6 - 1929) ở Bắc kỳ, An Nam cộng sản đảng ở Nam Kỳ (7 - 1929) và đảng Tân Việt ở Trung Kỳ tuyên bố đổi tên thành Đông Dương Cộng sản liên đoàn (9 - 1929). Cuối cùng 3 tổ chức này hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3 - 2 - 1930.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam bao gồm: Chính Cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, các văn kiện đó chính là hiện thân của chủ nghĩa xã hội khoa học của Mác - Lênin đã được Nguyễn Ái Quốc - nhà cách mạng sáng suốt và đầy nhiệt huyết nhất của dân tộc, Việt Nam hoá và trao lại cho giai cấp công nhân Việt Nam .
Đánh giá vai trò quan trọng của chính đảng kiểu mới được Nguyễn Ái Quốc thành lập ở Việt Nam vào đầu thế kỷ 20, nhà sử học Pháp P.R.Feray đã viết trong tác phẩm "Nước Việt nam" ở thế kỷ 20 như sau: Với sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thống nhất vào ngày 3 - 2 - 1930, dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc đó là một bước ngoặt lịch sử của giai cấp công nhân, trong lịch sử phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam từ nay đã có một đảng lãnh đạo, được trang bị bởi một học thuyết khoa học bởi những nguyên tắc hành động và tổ chức chặt chẽ, có liên quan mật thiết với phong trào cách mạng quốc tế, có khả năng lôi cuốn các tầng lớp nhân dân trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Như vậy, sự thành lập chính đảng công nhân đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng lãnh đạo trong phong trào yêu nước và cách mạng cảu dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc Việt Nam đi vào một cuộc chiến đấu phức tạp và gay go, cuộc chiến đấu này 15 năm sau sẽ dẫn tới việc giành chính quyền.
III. Thay lời kết luận
Có thể nói trước sự thất bại của phong trào kéo dài nhiều thập kỷ, các sĩ phu yêu nước đã nhận rõ được nguyên nhân của sự bế tắc trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập. Con đường Duy Tân cải cách lúc đầu được một số thanh niên Tân học tán thành vì cho rằng bạo động là "tắc tử" và vọng ngoại là "giả ngu", nhưng rồi họ cũng hiểu ra rằng dựa vào Pháp để khai dân trí, chấn dân khí, để tạo ra tiến bộ, văn minh chỉ là ảo vọng. Những hoạt động đề nghị cải cách của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đều bị chính quyền thực dân từ chối. Mặc dù chưa mang lại kết quả to lớn nào nhưng phong trào Duy Tân cũng đã giúp nhân dân ta có thêm những cơ sở vật chất và tinh thần mới để tiến tới khẳng định con đường cứu nước đúng đắn trong những năm 20 của thế kỷ trước.
Ba mươi năm đầu thế kỷ 20, lịch sử Việt Nam không chỉ có vấn đề xác định mục tiêu, phương hướng chiến lược và cũng không chỉ là nhận thức, tìm kiếm, khai thác, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để cứu nước giải phóng dân tộc; mà còn phải giải quyết một vấn đề quan trọng mang tính quyết định cho sự phát triển lớn mạnh của phong trào: đó là người tổ chức lãnh đạo. Trong hoàn cảnh đó Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và các cộng sự đã liên kết với các dư đảng Cần Vương và những người nghĩa dũng để biến Tân đảng thành Duy Tân hội. Lúc bấy giờ dẫu muốn có một tổ chức dân chủ thì các sĩ phu vẫn phải sử dụng một tổ chức mang màu sắc quân chủ bởi một bộ phận không nhỏ trong nhân dân ta còn tưởng vọng một vị minh quân ái quốc, coi đó là cách giải thoát duy nhất cho mọi sự bế tắc của xã hội Việt Nam. Nhưng vai trò minh chủ của Cường Để cũng nhanh chóng mờ nhạt bởi chế độ quân phiệt Nhật Bản cùng bản chất với chủ nghĩa thực dân. Nhật Bản cũng như Pháp sớm muộn đều chống lại cuộc đấu tranh cứu nước của dân tộc Việt Nam. Cách mạng Tân Hợi bùng nổ cũng thôi thúc các nhà yêu nước lựa chọn một hình thức tổ chức mới, một kiểu nhà nước mới - Dân chủ cộng hoà Việt Nam
Nhưng Duy Tân hội cũng như Việt Nam Quang phục hội đều nhanh chóng tan rã. Sau đó Phan Bội Châu cũng đã bắt đầu tìm hiểu cách mạng vô sản Nga, nhưng đã không vượt lên được những hạn chế của bản thân đi theo con đường mới. Chính từ trong phong trào đó tổ chức Tâm Tâm xã đã ra đời, sau đó không lâu Nguyễn Ái Quốc đã lập ra chính đảng Cộng sản đoàn rồi hội Việt Nam Cách mạng thanh niên và cuối cùng là Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Nhịp độ chuyển biến về tổ chức diễn ra rất nhanh, các hệ thống, tổ chức đảng và đoàn thể cách mạng từ Trung ương xuống cơ sở được thiết lập và củng cố ngày càng vững chắc. Nhờ vậy mà trong những cơn thử thách hiểm nghèo, trước sự đánh phá ác liệt của kẻ thù, Đảng vẫn bám trụ vững vàng, hồi phục, mở rộng và hoàn thiện bộ máy lãnh đạo của mình, xứng đáng là đội tiên phong duy nhất không ngừng dương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
(ST)