Phân tích nhân vật ông Hai trong tác phẩm "Làng" của Kim Lân

nhokteen

New member
Xu
0
PHÂN TÍCH NHÂN VẬT ÔNG HAI TRONG TÁC PHẨM "LÀNG" CỦA KIM LÂN

:byebye: “Có những phút làm nên bất tử
“Có những cái chết hóa thành bất tử
“Có những lời hơn mọ lời ca “
(Tố Hữu)

Kim Lân ,ông đã để lại cho nền văn học Việt Nam những tác phẩm từ trước và Cánh mạng thang tám 1945 kiệt xuất. Ông đã xây dựng nên những người nông dân yêu nước chân thật và giản dị. Trong đó có ông Hai thu. Ông đã khắc họa thành công nhân vật ông Hai để rồi nói lên niềm tậm sự của mình theo tác phẩm “Làng” về cảnh người dân tản cư trong khán chiến chống Pháp, dù đó là những “đồng chí” rứt ruột ra đi từ bỏ nơi chôn rau cắt rốn của mình. Từ đó ông đã hóa than thành ônh Hai một cách thực sự.

Khi nhắc tới người nông dân Việt Nam thì ai cũng có thể liên tưởng đến sự cực khổ tận cùng dưới ách bóc lột của thực dân, song song với đó là lòng yêu sâu sắc, khắc vào tâm trí họ. Thật vậy, ông Hai là một người rất yêu nước, đặc biệt là yêu cái làng. Ông luôn nhớ về cái làng như “con nít nhớ cà rem”, “cây kem nhớ tủ lạnh”. Nhớ về những lúc cùng thanh niên làm việc “cùng hát hỏng, hông phèng, cùng đào, cùng cuốc, mê man suốt ngày”. Ông tự nghĩ một mình rồi tự vui một mình, tự “thấy mình trẻ ra”, “thấy náo nức hẳn lên”. Tuy đã được tản cư vào khu yên ổn, không bom, khong mìn,nhưng ông vẫn canh cánh trong lòng, lo lắng, “không biết cái chòi gác ỡ đầu làngđã dựng xong chưa? Những đường hầm bí mật chắc còn khướt lắm”. Ông buồn, buòn hẳn đi, có lẽ ông tự trách mình không trẻ được để ỡ lại chống giặc như các anh các chị thanh niên. Da diết “chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá”. Ông lão nhớ cái làng như đứa trẻ thèm khát sữa mẹ, luồng sữa ấm nồng được nuôi dưỡng từ tình yêu thương và dinh dưỡng của người mẹ. Còn ông, cái làng là nơi “chôn rau cắt rốn”, là nơi ông sống từ lâu đời bấy lâu nay, là nơi tổ tiên ông định canh định cư bấy nhiêu đời, và cũng là niềm tự hào to lớn của ông. Niềm tự hào đó không dừng lại trước cái đình to lớn mà đi đâu ông cũng khoe mà cả con người ỡ đó, rồi cái sinh phần của ông Tổng đốc làng ông với những tản đá của ông Hoàng Thạch Công đánh rơi giày tượng đá bằng sứ của “Bát Tiên Quái Hải”. Mỗi bận nói đến cái làng Chợ Dầu cua rông thì “hai con mắt sáng ra hẳn lên. Cái mặt biến chuyển hoạt động”. Giống, có lẽ giống với bản chất người nông dân thời bấy giờ, tình yêu làng chuyển sang và hình thành tình yêu nước mãnh liệt. Kim Lân cũng để nhân vật của mình tiến triển như vậy. Ông Hai háo hức hẳn lênkhi nghe tin thắng trận về từ người khác. Hôm đó, khi nghe anh quân nhân đọc báo về chiến công của cách mạng thì “ruột gan ông cứ nhãy múa lên, vui quá!”. Tỉ lệ thuận với tình yêu nướclà sự căm thù giặc đến tận xương tủy đến. Và ngược lại nếu như người ta đặt quá nhiều niềm tin vào một thứ gì đó thì khi sụp đổ họ sẽ mất cân bằng, mất niềm tin và đau đớn sẽ tràn ngập. Khi ông càng yêu cái làng , tôn thờ, tự hào, hãnh diện bao nhiêu thì nó lại càng tủi nhục, đau đớn, xé lòng bấy nhiêu khi ông nghe tin “ cả làng chúng nó Việt gian theo Tây” từ miệng người đàn bà ẳm con. Ông thực sự sốc, choáng váng “cổ ông nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tường chừng như đến không thở được. Một lúc sau ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ” ông như không muốn tin điều đó là sự thật. Có lẽ ông đã không tin nên cất tiếng hỏi gặn lại “liệu có thật không, hở bác? Hay là chỉ lại...” hay là chỉ lại nhầm lẫn, hay là chỉ lại chiêu chia gián của địch. Có lẽ ông đã tự phân minh, biện bạch cho bản thân mình. Ông đã tự tìm ngọn đuốc lẻ loi trong niềm tin của mình khi đã tan vỡ. Nhưng ngọn đuốc duy nhất và nhỏ bé ấy lại bị chính miệng người đàn bà đó dập tắt khi bà khẳng định chắc nịch rằng “thì chúng tôi vừa ở dưới ấy lên mà lại”. Bất ngờ hơn nữa là “Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi cơ ông ạ. Tây vào làng, chúng nó bảo nhau vác thần ra hoan hô. Thàng Chánh Bệu thì khuân cả tủ chè, đỉnh đồng, vải vóc lên xe cam-nhông, đưa vợ con len vị trí với giặc ngoài tỉnh mà lại”. Tai hi vọng vụt mất ngay, nó biến mất nhanh quá. Ông Hai bàng hoàng chấp nhận sự thật ấy một cách chua xót….

<còn tiếp. Đây là bài văn số 6 của nhokteen. Nhok up lên hi vọng mọi người cho nhok ý kiến nha. Nhok phãi đi học bài rồi, bữa khác nhok up lên tiếp> :byebye:
 
bài vít ká chắc tay ..nhưng theo love life thì bạn vẫn chưa nhấn vào trọng tâm của tác phẩm ( í là tâm trang mà ông hai bị chi phối trong cả bài). nhokteen mới chỉ nêu dc 1 khía cạnh nhỏ của bài Và 1 số câu như là " con nit nhớ cà rem ,cây kem nhớ tủ lạnh" thì chư thực sự thích hợp , noi đúng ra là hok nên dùng
 
bài vít ká chắc tay ..nhưng theo love life thì bạn vẫn chưa nhấn vào trọng tâm của tác phẩm ( í là tâm trang mà ông hai bị chi phối trong cả bài). nhokteen mới chỉ nêu dc 1 khía cạnh nhỏ của bài Và 1 số câu như là " con nit nhớ cà rem ,cây kem nhớ tủ lạnh" thì chư thực sự thích hợp , noi đúng ra là hok nên dùng
hỳ đây mới là 1 phần nhỏ trong bài viết cua rmình àh!! mình chưa gởi hết bài lên r00m mà!!bữa nào mình up lên hết hen
dù sao cũng tk bạn vì đã góp ý cho mình:byebye:
 
theo BNN, nhox cần phân tích rõ ông Hai rất hay khoe làng của ông, đi đâu ông cũng khoe cả, trước đoạn trích trong sách giáo khoa có đoạn ông Hai khoe làng của ông rất hay ( có thể trích dẫn vào). Từ tính cách đó mà bộc lộ lên ông Hai yêu làng đến mức nào.
Thứ 2 là nhox cần phân tích nghệ thuật truyện xen kẻ nội dung truyện. Phân tích nội dung rất dễ sa vào lối tự sự...Mà từ nghị luận bị lạc sang tự sự...chỉ còn 0.5 điểm thôi (BNN bị vấp 1 lần, nhớ mãi luôn):after_boom:
Chúc nhox luôn học tốt nhé :byebye:
 
I/ MỞ BÀI:
Kim Lân nhà văn có tác phẩm đăng báo từ trước cách mạng tháng Tám. Ông sinh ra và lớn lên ở một vùng quê có truyền thống văn hóa lâu đời nên am hiểu rất nhiều về nông thôn Việt Nam và cảnh ngộ của người nông dân. Vì thế, khi viết về đề tài này, Kim Lân thành công hơn cả. Đặc biệt ở truyện ngắn “ Làng”, tác giả đã xây dựng được hình tượng ông Hai,một người nông dân cần cù chất phác, giàu tình yêu đối với quê hương đất nước, gắn bó bền chặt với cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc.
II/ THÂN BÀI:
Ở phần đầu câu chuyện, ta thấy ông Hai rất yêu làng. Tình yêu thiết tha và nồng thắm của ông thể hiện qua niềm tự hào hãnh diện và cái tính khoe làng cố hữu.
Cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra. Cũng như bao nhiêu người nông dân khác, ông Hai luôn tin tưởng vào kháng chiến, vào sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch. Vợ con đi tản cư, nhưng ông Hai vẫn muốn ở lại cùng với đội du kích đào đường đắp ụ để bảo vệ cái làng Dầu thân yêu của mình. Đến khi hoàn cảnh gia đình neo bấn, vợ con thúc bách quá, cực chẳng đã ông mới rời làng đi tản cư. Ra đi mà ông Hai cứ an ủi mình “ tản cư âu cũng là kháng chiến”.
Xa làng rồi nhớ làng, tính nết ông Hai có phần thay đổi. Ông ít nói ít cười, đôi khi cáu gắt. Nỗi nhớ làng cứ da diết trong lòng của ông khiến cho ông cảm thấy buồn bực không yên. Ông nhớ từ con đường làng đến mái ngói, nhớ phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng đến cái chòi phát thanh cao bằng ngọn tre, nhớ những ngày khởi nghĩa dồn dậpở làng cho đến những lúc cùng anh em đào hào đắp ụ chiến đấu… Ông Hai cảm thấy lúc ấy mình trẻ trung vô cùng, “cũng hát hỏng, bông phèng.” cùng với anh em. Càng nghĩ tưởng, nỗi nhớ càng dâng trào da diết trong lòng ông Hai như những đợt sóng lòng dồn dập. “Caho ôi, ông lão nhớ làng. Nhớ cái làng quá!”.
Niềm khuây khỏa lớn nhất của ông Hai là sang bên gian nhà bác Thứ để nói chuyện và được ra chợ, đến cái phòng thông tin tuyên truyền để nghe tin tức về kháng chiến…
Và rồi một tình huống xảy ra làm cho tình yêu nỗi nhớ làng của ông Hai bị thử thách. Từ đó, người đọc phát hiện ra ngoài tình cảm thiêng liếng mà ông Hai dành cho cái làng chợ Dầu của mình còn có một tình cảm khác thiêng liêng vĩ đại hơn. Đó là tình yêu dất nước thể hiện qua tình cảm đối với kháng chiến, với cụ Hồ…
Ở phòng thông tin tuyên truyền, ông Hai lắng nghe và cảm thấy trân trọng, tự hào trước những tấm gương anh hùng trong cuộc chiến. Ông cảm thấy vui sướng đến nở từng khúc ruột trước những thắng lợi dồn dập của quân ta., “ ruột gan ông lão cứ múa cả lên. Vui quá!”.
Ngay sau đó, ông nhận được cái tin dữ từ những người đi tản cư – cả làng Dầu đều trở thành Việt gian theo giặc – “ Việt gian từ thằng chủ tịch trở đi cơ, ông ạ!”. Cảm giác bất ngờ, hụt hẫng khiến cho ông lão “ cổ nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân”, “rặn è è” “ giọng lạc hẳn”. Ông tủi nhục cúi gằm mặt xuống mà đi. để rồi về đến nhà, không chịu đựng nổi, ông “ nằm vật ra giường” “nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão tràn ra”.
Những ngày kế tịếp, ông Hai sống trong bi kịch triền miên. Ông sợ hãi trốn tránh như một tội phạm, “ một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý bàn tán về “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít.” Nỗi ám ảnh nặng nề, cảm giác đau xót, nhục nhã đã biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông Hai kể từ lúc ông nghe cái tin dữ ấy.
Bi kịch dâng lên đến đỉnh cao. Ông Hai bị đẩy vào trong tình cảnh bế tắc tuyệt vọng khi bà chủ nhà muốn đuổi gia đình ông đi . “ Thế là tuyệt đường sinh sống!” Ông đi đâu bây giờ? Khắp nơi, “không chỉ cái đất Thắng này mà cả ở Đài, Nhã Nam , Bố Hạ, Cao Thượng… ở đâu nghe đến người làng chợ Dầu là người ta đuổi như đuổi hủi”. Còn ai muốn chứa chấp người dân của cái làng Việt gian này nữa chứ?
Trước mắt ông Hai chỉ có hai con đường. Ở lại thì không được rồi. Còn về làng… Vừa chớm nghĩ đến thôi, ta đã thấy ông Hai gạt phắt đi ngay. “Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó làm Việt gian theo Tây cả rồi”.Và ông cũng khẳng định: “ về làng là phản bội kháng chiến, phản bội cụ Hồ”. Dù ông Hai luôn ước mong được trở về làng, nhưng lúc này ông lại khẳng định: “ Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”.
Mâu thuẫn trong nội tâm và tình thế trước mắt làm cho ông Hai bế tắc. Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông Hai chỉ còn biết trút nỗi lòng của mình vào nhưng lời thủ thỉ tâm sự với đứa con nhỏ ngây thơ:
- À, thầy hỏi con nhé.Thế con ủng hộ ai?
- Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!
Lòng trung thành của cha con ông, của hàng triệu nông dân Việt Nam đối với lãnh tụ là vô cùng sâu sắc. Vẻ đẹp ấy rất đáng tự hào ca ngợi.
Đến giây phút này, từ trong bi kịch của ông Hai, ta lại thấy sáng ngời lên một tình cảm cao đẹp khác. Đó là tinh thần yêu nước, gắn bó với kháng chiến, với cụ Hồ.Tình cảm thiêng liêng ấy đã bao trùm lên tình cảm đối với làng quê.
Cho nên, khi nghe tin làng Dầu theo Tây được cải chính, ông Hai là người sung sướng nhất. Ông vui tươi rạng rỡ hẳn lên, “ mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ…” Ông mua quà cho con, ông chạy đi “khoe” cái tin nhà mình bị đốt, “ khoe” cái tin làng Dầu không theo giặc. Nỗi mất mát về nhà cửa dường như tan biến trong niềm hạnh phúc dâng trào – Làng chợ Dầu, ngôi làng mà ông luôn yêu mến tự hào giờ đây vẫn là làng kháng chiến.
Có thể nói, ông Hai là nhân vật điển hình cho lớp nông dân trong kháng chiến. Vốn là những con người chân thực, chất phác, những ngày đầu tiếp xúc với cách mạng, họ vẫn còn bỡ ngỡ. Nhưng rồi cảm giác ấy tan đi nhanh chóng, họ đón nhận cách mạng với tình cảm chân thành, với lòng hăm hở nhiệt tình. Họ háo hức hoà nhịp cùng phong trào kháng chiến, học hăng hái cầm súng bảo vệ quê hương. Cách mạng đã trở thành một phần trong cuộc đời của họ. Lòng trung thành, tình cảm gắn bó bền chặt của người nông dân trong kháng chiến làm cho chúng ta xúc động. Nhà văn Kim Lân đã tinh tế phát hiện những nét đẹp tâm hồn của người nông dân để từ đó khắc hoạ nên một bức chân dung gần gũi và sống động.
Trong tác phẩm, nhà văn Kim Lân đã xây dựng những tình huống đầy kịch tính đẩy nhân vật vào trong sự bế tắc đến tuyệt vọng, qua đó làm nổi bật tâm hồn tính cách và tình yêu của ông Hai đối với làng quê, đất nước. Ngôn ngữ diễn đạt mộc mạc chân quê càng giúp người đọc hiểu và yêu mến ông Hai nhiều hơn.
III/ KẾT BÀI:
Tóm lại qua hình tượng nhân vật ông Hai, chúng ta có thể hiểu hơn về cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc, hiểu được nguyên nhân vì sao một đất nước bé nhỏ như Việt Nam lại có thể đánh thắng kẻ thù đầu sỏ như thực dân Pháp. Bài học sâu sắc nhất đối với mỗi người chúng ta khi đọc truyện ngắn này là tình yêu quê hương đất nước, là lòng tự hào và biết ơn những người dân cày Việt Nam chân chất mà cao cả.
 
Neu ma cho y kien ma bai cua pan nhokteen thi t nx the nay ... Bai lam the nay chi cham dc 6 diem la cung. Bo cuc cua 1 bai van can co du 3 phan nhung ma pan da viet thieu phan Ket bai. Ma hinh nhu bai nay mii doc tren mang co rat nhieu.. Hinh nhu bai van nay ko fai di pan lam thi phai???????
 
Kim Lân là nhà văn có vốn sống vô cùng phong phú và sâu sắc về nông thôn Việt Nam.Các sáng tác của ông đều xoay quanh cảnh ngộ và sinh hoạt của người nông dân. Văn bản “Làng” đươc sáng tác vào thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ,với nhân vật chính là ông Hai ,một lão nông hiền lành ,yêu làng ,yêu nước và gắn bó với kháng chiến .

Ông Hai cũng như bao người nông dân quê từ xưa luôn gắn bó với làng quê của mình.Ông yêu quí và tự hào về làng Chợ Dầu và hay khoe về nó một cách nhiệt tình, hào hứng.Ở nơi tản cư ông luôn nhớ về làng,theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm về Chợ Dầu .Tình yêu làng của ông càng được bộc lộ một cách sâu sắc và cảm động trong hoàn cảnh thử thách . Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống gay gắt để bộc lộ chiều sâu tình cảm của nhân vật.Đó là tin làng chợ Dầu lập tề theo giặc.Từ phòng thông tin ra,đang phấn chấn,náo nức vì những tin vui của kháng chiến thì gặp những người tản cư,nghe nhắc đến tên làng,ông Hai quay phắt lại,lắp bắp hỏi,hy vọng được nghe những tin tốt lành,nào ngờ biết tin dữ:“Cả làng Việt gian theo Tây ”.Tin bất ngờ ấy vừa lọt vào tai đã khiến ông bàng hoàng, đau đớn :“Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại,da mặt tê rân rân ,ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được,một lúc lâu ông mới rặn è è nuốt một cái gì vướng ở cổ.Ông cất tiếng hỏi,giọng lạc hẳn đi ”nhằm hy vọng điều vừa nghe không phải là sự thật.Trước lời khẳng định chắc chắn của những người tản cư,ông tìm cách lảng về.Tiếng chửi văng vẳng của người đàn bà cho con bú khiến ông tê tái :“cha mẹ tiên sư nhà chúng nó ,đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương,cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát”.Về đến nhà ông chán chường “nằm vật ra giường”,nhìn đàn con nước mắt ông cứ giàn ra “ chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư?Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”.Ông căm thù những kẻ theo Tây,phản bội làng,ông nắm chặt hai tay lại mà rít lên: “chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này ”.Niềm tin,nỗi ngờ giằng xé trong ông.Ông kiểm điểm lại từng người trong óc, thấy họ đều có tinh thần cả “có đời nào lại cam tâm làm cái điều nhục nhã ấy ”.Ông đau xót nghĩ đến cảnh “người ta ghê tởm,người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước”.Suốt mấy ngày liền ông chẳng dám đi đâu,“chỉ ở nhà nghe ngóng binh tình”,lúc nào cũng nơm nớp tưởng người ta đang để ý,đang bàn tán đến cái chuyện làng mình.Nỗi ám ảnh,day dứt,nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông.Ông đau đớn,tủi hổ như chính ông là người có lỗi...

Tình thế của ông càng trở nên bế tắc,tuyệt vọng khi bà chủ nhà có ý đuổi gia đình ông với lý do không chứa người của làng Việt gian.Trong lúc tưởng tuyệt đường sinh sống ấy,ông thoáng có ý nghĩ quay về làng nhưng rồi lại gạt phắt ngay bởi “về làng tức là bỏ kháng chiến,bỏ Cụ Hồ ”,là “cam chịu quay trở lại làm nô lệ cho thằng Tây”. Tình yêu làng lúc này đã lớn rộng thành tình yêu nước bởi dẫu tình yêu,niềm tin và tự hào về làng Dầu có bị lung lay nhưng niềm tin và Cụ Hồ và cuộc kháng chiến không hề phai nhạt.Ông Hai đã lựa chọn một cách đau đớn và dứt khoát:“Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!”.Dù đã xác định thế nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm của mình đối với quê hương.Bởì thế mà ông càng xót xa,đau đớn... Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy,ông chỉ còn biết tìm niềm an ủi trong lời tâm sự với đứa con trai nhỏ.Nói với con mà thực ra là đang trút nỗi lòng mình.Ông hỏi con những điều đã biết trước câu trả lời:“Thế nhà con ở đâu?”,“thế con ủng hộ ai ?”…Lời đứa con vang lên trong ông thiêng liêng mà giản dị:“Nhà ta ở làng Chợ Dầu”,“ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm !”…Những điều ấy ông đã biết,vẫn muốn cùng con khắc cốt ghi tâm.Ông mong “anh em đồng chí biết cho bố con ông, tấm lòng bố con ông là như thế đấy,có bao giờ dám đơn sai,chết thì chết có bao giờ dám đơn sai ”.Những suy nghĩ của ông như những lời nguyện thề son sắt.Ông xúc động,nước mắt “chảy ròng ròng trên hai má”.Tấm lòng của ông với làng,với nước thật sâu nặng,thiêng liêng.Dẫu cả làng Việt gian thì ông vẫn một lòng trung thành với kháng chiến,với Cụ Hồ …

May thay,tin đồn thất thiệt về làng Chợ Dầu được cải chính .Ông Hai sung sướng như được sống lại.Ông đóng khăn áo chỉnh tề đi với người báo tin và khi trở về “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên ”.Ông mua cho con bánh rán đường rồi vội vã,lật đật đi khoe với mọi người.Đến đâu cũng chỉ mấy câu“Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ !Đốt sạch !Đốt nhẵn ! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính.Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi Việt gian theo Tây ấy mà .Láo!Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả .” “Ông cứ múa tay lên mà khoe với mọi người”.Ông khoe nhà mình bị đốt sạch,đốt nhẵn như là minh chứng khẳng định làng ông không theo giặc. Mất hết cả cơ nghiệp mà ông không hề buồn tiếc,thậm chí còn rất sung sướng,hạnh phúc.Bởi lẽ,trong sự cháy rụi ngôi nhà của riêng ông là sự hồi sinh về danh dự của làng chợ Dầu anh dũng kháng chiến.Đó là một niềm vui kỳ lạ,thể hiện một cách đau xót và cảm động tình yêu làng,yêu nước,tinh thần hy sinh vì cách mạng của người dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược .

Cách miêu tả chân thực,sinh động,ngôn ngữ đối thoại,độc thoại và độc thoại nội tâm đa dạng,tự nhiên như cuộc sống cùng với những mâu thuẫn căng thẳng,dồn đẩy, bức bối đã góp phần không nhỏ tạo nên thành công của câu chuyện, đồng thời còn thể hiện sự am hiểu và gắn bó sâu sắc của nhà văn với người nông dân và công cuộc kháng chiến của đất nước.

Qua nhân vật ông Hai ta hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược :Yêu làng,yêu nước và gắn bó với kháng chiến.Có lẽ vì thế mà tác phẩm “Làng ” xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại .



Nguồn: văn9
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top